ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU DUNG
ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU DUNG
ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển
Hà Nội – 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..............................................................5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................8
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................8
6. Đóng góp của luận văn:...........................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................9
NỘI DUNG ..............................................................................................................10
Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN TRONG THỜI GIAN 2000 – 2005............10
1.1. Những yếu tố tác động đến công tác Đoàn và phong trào thanh niên Ninh Bình ..10
1.1.1. Điều kiện về tự nhiên, cư dân và truyền thống ..........................................10
1.1.2. Công tác đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Ninh Bình trước năm 2000.......14
1.1.3. Chủ trương của Đảng về công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong
thời gian 2000 – 2005 ..........................................................................................19
1.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ. .........................................................26
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình. .................................................26
1.2. 2. Hiện thực hóa chủ trương của Đảng bộ ....................................................31
Chƣơng 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐOÀN
VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN TRONG THỜI GIAN 2005 – 2010 ..........51
2.1. Những yêu cầu mới đối với công tác Đoàn và phong trào thanh niên và
chủ trƣơng của Đảng ..............................................................................................51
2.1.1. Những yêu cầu mới ..................................................................................51
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng .........................................................................53
2.2. Sự lãnh đạo của Đảng bộ và hiệu quả ............................................................57
2.2.1. Chủ trương và biện pháp mới của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình ......................57
2.2.2. Hiện thực hóa chủ trương của Đảng bộ. ....................................................69
1
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ......................................................90
3.1. Nhận xét ............................................................................................................90
3.1.1. Ưu điểm .....................................................................................................90
3.1.2. Hạn chế ....................................................................................................103
3.2. Kinh nghiệm ...................................................................................................108
KẾT LUẬN ............................................................................................................119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................122
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội, là lực lượng xung kích, đi đầu trong mọi
lĩnh vực của đất nước. Trong đấu tranh cách mạng, hàng nghìn, hàng vạn thanh niên
sẵn sàng tòng quân, anh dũng bước đi trong làn mưa bom bão đạn, quyết đem
xương máu mình bảo vệ độc lập dân tộc, mang lại hoà bình, hạnh phúc cho nhân
dân. Ngày nay, khi đất nước đang trên đà phát triển, cả nước chung tay thực hiện
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một Việt Nam văn minh, giàu
mạnh tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, những người trẻ tuổi của
ngày hôm nay tiếp nối truyền thống kiên cường của thế hệ cha anh đi trước, trở
thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thanh niên là đội ngũ đông về số lượng, có trình độ học vấn, trình độ giác
ngộ cao, là then chốt của quá trình mở cửa hội nhập. Thế hệ trẻ hôm nay mang
trong mình hoài bão đem sức trẻ cống hiến cho quê hương, đất nước, trong huyết
quản của những người trẻ tuổi ấy tràn đầy trí lực và nhiệt huyết, song, với tuổi đời
còn trẻ, chưa có kinh nghiệm trong cuộc sống, họ cần được định hướng đúng đắn để
phát huy tối đa vai trò nòng cốt của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lúc sinh
thời Người luôn quan tâm đến thanh niên, coi công tác giáo dục thanh niên là nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân ta làm Cách
mạng tháng Tám thành công, kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn vai trò của thanh niên, từ đó đưa ra
những chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác thanh niên để thanh niên phát
huy tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, thời kỳ mở cửa hội nhập đã tạo ra những thời cơ và cả thách thức cho Việt
Nam. Đất nước ta đang trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
xây dựng kinh tế tri thức, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đẩy mạnh
3
công cuộc xoá đói giảm nghèo, hội nhập kinh tế quốc tế. Những vấn đề đó vừa là
thời cơ và cũng là thách thức đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Thuận lợi và khó khăn,
thời cơ và thách thức đan xen nhau. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi Đảng ta phải có sự
chỉ đạo sâu sát, kịp thời để hướng thanh niên vào con đường cách mạng, tích cực
xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết số 04 của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá 7) đã chỉ rõ: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không,
đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay
không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện
thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X)
“Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên” tiếp tục khẳng
định: Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng
quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực,
đảm nhận những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh
niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng
tạo, muốn tự khẳng định mình.
Đảng đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm chủ và tiềm
năng to lớn của thanh niên để thanh niên thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đi đầu
trong cuộc đấu tranh chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất nước
giàu mạnh, xã hội văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để
phát huy tiềm năng to lớn đó, Đảng ta luôn luôn chú ý việc giáo dục, bồi dưỡng và
rèn luyện thế hệ thanh niên: “Thường xuyên chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và tạo
điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người
mới có lý tưởng cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khỏe,
lao động giỏi, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc
tế chân chính”. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… “đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
4
đối với công tác thanh niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy vai trò, sức mạnh của
thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
“Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, thanh niên thế hệ Hồ Chí
Minh hôm nay một lòng tin theo Đảng, sẵn sàng đem sức mình ra phục vụ công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một Việt Nam giàu mạnh
hơn, văn minh hơn.
Cùng với lực lượng thanh niên cả nước, thế hệ trẻ trên mảnh đất cố đô Ninh
Bình đang hăng say cống hiến cho sự phát triển phồn vinh của tỉnh. Ninh Bình với
tiềm năng to lớn về tài nguyên và du lịch, quá trình mở cửa hội nhập của đất nước
mở ra cho tỉnh tương lai phát triển mọi mặt, song cũng đặt Ninh Bình trước những
thách thức to lớn. Vấn đề phát huy vai trò nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lao
động trẻ cần được đặt lên hàng đầu.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã ra sức lãnh
đạo công tác thanh niên, đưa ra những chủ trương đúng đắn nhằm phát huy vai
trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh, đồng thời cống
hiến sức trẻ cho sự nghiệp cách mạng chung của đất nước trong thời kỳ mới.
Để góp phần làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đối với công
tác Đoàn và phong trào thanh niên trong tỉnh, Tôi xin chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình lãnh đạo công tác Đoàn và phong trào thanh niên từ năm 2000 đến năm
2010” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Làm sao để phát huy được vai trò của thanh niên trong xây dựng và phát
triển đất nước, làm sao để thanh niên thực sự trở thành “rường cột” của nước nhà là
vấn đề trọng yếu, sự hưng thịnh hay suy yếu của đất nước phụ thuộc một phần lớn
vào việc giải quyết đúng đắn công tác định hướng phát triển và tạo việc làm cho
thanh niên. Công tác thanh niên là một vấn đề được nhiều cơ quan nghiên cứu và
các nhà khoa học quan tâm.
Những công trình đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Đoàn và
phong trào thanh niên như: Quang Vinh, Trần Kim Duyên, Văn Song “Hồ Chí
Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên”, (Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1999).
5
Cuốn sách bao gồm những bài nói của Bác Hồ kính yêu về công tác giáo dục và tổ
chức thanh niên từ năm 1921 đến năm 1969, các bài nói, bài viết được tập hợp trong
cuốn sách đã phản ánh tư tưởng của Người về vị trí, vai trò của lực ượng thanh niên
trong đấu tranh cách mạng cũng như trong lao động sản xuất, đồng thời nêu rõ sự
cần thiết phải thực hiện công tác vận động thanh niên.
Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn của tác
giả Văn Tùng, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1999; Đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng về công tác thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, của Tiến sĩ Dương Tự Đam, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2005; Lãnh
đạo và quản lý về công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới, tác giả Dương Tự
Đam, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 2005, đã cung cấp cơ sở lý luận và
phương pháp luận, hệ thống các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
chính sách của Nhà nước về công tác thanh niên.
Các công trình nghiên cứu trên khẳng định Đảng sớm nhận thức được vai trò
của thanh niên và công tác thanh niên, do đó luôn chú trọng xây dựng, củng cố tổ
chức Đoàn thanh niên ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội hậu bị tin cậy của
Đảng, đội tiên phong của thanh niên Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để
tác giả luận văn tham khảo.
Liên quan đến đề tài còn có các công trình nghiên cứu về thanh niên và Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh như: “Tuổi trẻ Việt Nam phải xây dựng cho mình
hoài bão, trí tuệ, đạo đức và ý chí cách mạng” bài phát biểu của đồng chí Đỗ Mười,
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần
thứ VI Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ ngày 15 – 18/10/1992, Nhà xuất
bản Thanh niên, Hà Nội, 1993, “Tập hợp, đoàn kết thanh niên thông qua phong
trào hành động cách mạng trong thời kỳ đổi mới” của Đặng Cảnh Khanh – Nguyễn
Hồng Thanh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1997; “Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, 70 năm xây dựng và trưởng thành”, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà
Nội, 2001; “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc tham gia phát triển
tài năng trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn
Văn Thanh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2004; “Công tác phát triển Đảng
6
viên trong thanh niên giai đoạn 2005 – 2010”, của Ban tổ chức Trung ương Đảng –
Ban Bí thư Trung ương Đoàn, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2005; “Đổi mới
Đoàn thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá”. Tác giả
Nguyễn Văn Thanh (Chủ biên), Nhà xuất bản Thanh niên Hà Nội, 2008; “Hoạt
động đoàn tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay” của Ban
Thanh niên Nông thôn, Nhà xuất bản Thanh Niên Hà Nội, 2008; “Thanh niên và lối
sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế”, của
Phạm Hồng Tung, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011 …
Các tác phẩm, bài viết được xuất bản đã nêu lên những vấn đền về lý luận và
cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của thanh
niên, đồng thời nhấn mạnh vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh trong việc tập hợp, đoàn kết thanh niên, triển khai các chương trình hành động
để thanh niên tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội, đóng góp tài
năng và sức trẻ vào sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương, đất nước.
Ngoài các công trình nghiên cứu có tính khái quát trên, còn có một số công
trình nghiên cứu cụ thể về lịch sử địa phương có liên quan đến thanh niên và công
tác thanh niên như: “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, Tập 2 (1975 – 2000), của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
“Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh
Ninh Bình 1931 – 2006” của Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh tỉnh Ninh Bình, 2008…
Những công trình trên, tuy mức độ và đứng ở nhiều góc độ khác nhau, song
nói chung đều ghi nhận vai trò quyết định của tỉnh Ninh Bình trong việc lãnh đạo
công tác Đoàn và phong trào thanh niên, đề cao tinh thần hăng hái, nhiệt tình của
thanh niên trong đấu tranh cách mạng cũng như trong lao động sản xuất, tham gia
vào các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học
nào được công bố đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề lãnh đạo công tác
Đoàn và phong trào thanh niên của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình từ năm 2000 đến năm
2010. Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu của các công trình trên là ngồn tư liệu quý,
đáng tin cậy để tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đối với sự phát triển
của công tác Đoàn và phong trào thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010; sự phát
triển của Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Ninh Bình, từ đó bước đầu rút ra một
số bài học kinh nghiệm .
3.2. Nhiệm vụ
Sưu tầm, tập hợp tư liệu liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình đối với công tác Đoàn và phong trào thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010.
Trình bày hệ thống hoá các tư liệu theo từng giai đoạn lịch sử
Phân tích những thành tựu, hạn chế của quá trình trên, đồng thời bước đầu
rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình để lãnh đạo,
chỉ đạo công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong những năm
2000 - 2010.
- Quá trình phát triển tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên ở tỉnh Ninh
Bình từ năm 2000 đến năm 2010
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010
Không gian: Tỉnh Ninh Bình
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu phục vụ cho đề tài là: các Nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, văn kiện các Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, các Thông
tri, Chỉ thị, Chương trình hành động, các chuyên đề của Tỉnh uỷ liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến công tác Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh từ năm 2000 đến năm
2010, báo cáo chung về việc thực hiện công tác Đoàn và phong trào thanh niên của
Tỉnh uỷ, các báo cáo thường niên của Tỉnh đoàn Ninh Bình, các sách báo, tạp chí
thông tin thanh niên của địa phương có liên quan…
8
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp logic,
thống kê, phân tích, tổng hợp…
6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn đã tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu, trình bày được sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và quá trình phát triển của công tác Đoàn và phong trào
thanh niên địa phương từ năm 2000 đến năm 2010, trên cơ sở đó đánh giá được
những ưu, khuyết điểm, đồng thời đưa ra được một số kinh nghiệm lịch sử chủ yếu
của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình trong quá trình lãnh đạo công tác Đoàn và phong trào
thanh niên từ năm 2000 đến năm 2010.
Luận văn bước đầu làm sáng rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong
việc lãnh đạo công tác Đoàn và phong trào thanh niên của Đảng bộ địa phương.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương
Chương 1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ đối với công tác Đoàn và
phong trào thanh niên trong thời gian 2000 - 2005
Chương 2. Sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với công tác Đoàn và phong trào
thanh niên trong thời gian 2005 - 2010
Chương 3. Nhận xét và kinh nghiệm
9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN
TRONG THỜI GIAN 2000 – 2005
1.1. Những yếu tố tác động đến công tác Đoàn và phong trào thanh niên Ninh Bình
1.1.1. Điều kiện về tự nhiên, cư dân và truyền thống
Ninh Bình là tỉnh nằm ở cực Nam của đồng bằng sông Hồng. Phía Bắc giáp
các tỉnh Hà Nam và Hòa Bình. Phía Tây giáp tỉnh Thanh Hóa. Phía Đông giáp Nam
Định. Phía Nam giáp biển Đông. Tọa độ địa lí của Ninh Bình là 19055'39'' 20026'25'' B, 105032'27'' - 106010'15'' Ð. Đây là tỉnh giàu về tiềm năng tài nguyên
thiên nhiên, dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào. Ninh Bình có vị trí chiến
lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế, văn hóa giữa lưu vực sông Hồng
với lưu vực sông Mã, giữa vùng kinh tế Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, nằm trong vùng
ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long và
điều đó có tác động rất lớn đến việc phát triển kinh tế của tỉnh.
Về kinh tế: Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và
vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Đây là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá
giữa khu vực châu thổ sông Hồng với Bắc Trung Bộ, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ
với vùng rừng núi Tây Bắc. Thế mạnh kinh tế nổi bật của Ninh Bình là các ngành
công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch.
Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng ở mức 2
con số, Năm 2010 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 11/63, liên tục nằm
trong nhóm tỉnh đứng đầu miền Bắc. Ninh Bình là một trong những tỉnh thu hút vốn
đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam; Năm 2010 thu ngân sách đạt 3.100 tỷ đồng
trong khi diện tích và dân số tỉnh chỉ đứng thứ 56/63 và 43/63. Cơ cấu kinh tế trong
GDP năm 2011: Công nghiệp - xây dựng: 49%; Nông, lâm - ngư nghiệp: 15%; Dịch
vụ: 36%
Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây
dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều, trong đó nổi bật là các doanh
10
nghiệp xi măng The Vissai, xi măng Hệ Dưỡng (công suất 3,6 triệu tấn/năm), xi
măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng Duyên Hà, xi măng Hướng Dương...
Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi măng, đá, thép, vôi, gạch ...
Ninh Bình có lợi thế phát triển ngành nông nghiệp đa dạng nhiều thành phần.
Các vùng chuyên canh nông nghiệp chính của tỉnh: vùng nông trường Đồng Giao
chuyên trồng cây công nghiệp như cây dứa thơm, vùng Kim Sơn trồng cây cói làm
chiếu, hàng mỹ nghệ, nuôi tôm sú, hải sản, vùng Ninh Phúc, Ninh Sơn trồng hoa và
rau sạch.
Ninh Bình có vị trí hội tụ giao thông liên vùng rất thuận lợi cho phát triển
lưu thông hàng hóa với các địa phương khác trong cả nước. Về dịch vụ hạ tầng du
lịch, Ninh Bình có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình du lịch: sinh thái - nghỉ
dưỡng, văn hóa - lịch sử - tâm linh, du lịch mạo hiểm, thể thao.
Về điều kiện xã hội: theo số liệu thống kê năm 2009, tỉnh Ninh Bình có diện
tích tự nhiên là 1.400km2, dân số 898.459 người với 8 đơn vị hành chính gồm:
thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp và 6 huyện: Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư,
Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn với 125 xã, 7 phường và 4 thị trấn. Trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình chủ yếu là người kinh sinh sống, cùng với khoảng hơn 2 vạn người dân
tộc Mường, sống tập trung ở một số xã huyện miền núi Nho Quan.
Ninh Bình là tỉnh có số lượng dân công giáo lớn, tập trung chủ yếu ở huyện
Kim Sơn (chiếm gần 70% tổng số giáo dân trong tỉnh), do tính chất đặc thù, thiên
chúa giáo vốn được du nhập từ phương Tây sang, do đó trong cách mạng, và ngay
cả trong thời bình, kẻ thù vẫn luôn tìm cách chia rẽ tôn giáo hòng chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc. Do đó, công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước,
củng cố khối đoàn kết dân tộc là hết sức cần thiết. Công tác Đoàn và phong trào
thanh niên tỉnh Ninh Bình cũng đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục
cho đoàn viên, thanh niên với nhiều phương thức đa dạng, khéo léo, củng cố niềm
tin của thanh niên, nhất là thanh niên công giáo vào Đảng, vào chính quyền, vào con
đường cách mạng mà Đảng và nhân dân Việt Nam lựa chọn.
11
Về truyền thống văn hóa, lịch sử.
Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự
nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê - Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống
nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở
vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch
sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền,
miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo vệ Thăng
Long của triều đại Tây Sơn, là căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần...
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
nhân dân Ninh Bình đã dốc sức mình, cùng với nhân dân cả nước kiên cường đấu
tranh cách mạng, góp phần vào thắng lợi của cách mạng tháng Tám, chiến thắng hai
kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đem lại hòa bình, thống nhất
nước nhà.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình luôn đề cao vai
trò của thanh niên, coi thanh niên là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong mọi
nhiệm vụ cách mạng.
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của cả nước, thành phố trẻ Ninh Bình đang từng ngày thay da đổi thịt, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh, Ninh Bình đang ngày càng
khẳng định được vị thế của mình trong cơ cấu kinh tế của đất nước.
* Về Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân Ninh Bình phát
huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm và
cần cù, sáng tạo, năng động trong lao động sản xuất xây dựng quê hương đất nước.
Trong chiến tranh cũng như trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình luôn lãnh đạo nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng.
Tháng 9 – 1927, chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu
tiên ở Ninh Bình tại Lũ Phong (Nho Quan) được thành lập. Đồng chí Lương Văn
Thăng được bầu làm Bí thư.
12
Sau khi được thành lập, chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội
Lũ Phong đã tuyên truyền giác ngộ cách mạng, gây cơ sở phát triển nhiều hội viên,
thành lập một số chi bộ khác trong tỉnh.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống kẻ thù xâm lược của nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trên khắp cả nước. Ở Ninh Bình,
mặc dù bị địch ra sức khủng bố, tuy nhiên phong trào cách mạng vẫn phát triển.
Mùa thu năm 1938, các cơ sở Đảng ở bốn huyện Gia Viễn, Nho Quan, Gia
Khánh, Yên Mô đã tiến hành Đại hội tại thôn Đồi Dâu (Sơn Lai, Nho Quan), đánh
dấu sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh gồm 3 đồng chí Đinh Tất Miễn, Phạm Văn Hồng và Tống Văn Tá. Đồng chí
Đinh Tất Miễn được bầu làm bí thư. Từ đây phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân trong tỉnh chuyển sang giai đoạn cao trào mới.
Từ giữa năm 1940, chiến tranh thế giới ngày càng lan rộng và ác liệt hơn.
Địch ra sức khủng bố làm cho phong trào cách mạng của ta gặp nhiều khó khăn.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (11 – 1939) và Hội nghị lần thứ 7 (11
– 19940) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ đây các cơ sở Đảng tích cực
hoạt động khôi phục lại phong trào và tổ chức các đoàn thể quần chúng cách mạng.
Trong thời gian này, công tác thanh niên được đặc biệt chú ý. Cơ sở Đoàn được
phát triển ở nhiều nơi trong tỉnh. Các cơ sở Đoàn ở hai huyện Nho Quan, Gia Viễn
đã tổ chức Hội nghị thành lập Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên phản đế liên huyện
Nho Quan – Gia Viễn, hướng thanh niên đi vào hoạt động, tập trung đọc sách báo,
tập võ, cung kiếm, tham gia bảo vệ, làm nòng cốt trong các cuộc đấu tranh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, phong trào đấu tranh cách
mạng của nhân dân trong tỉnh diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt. Đảng bộ tỉnh lãnh đạo
nhân dân nổi dậy giành chính quyền, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng
tháng 8 – 1945. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta ở trong cảnh
“ngàn cân treo sơi tóc”, nạn đói nạn dốt, thù trong giặc ngoài đe dọa nhà nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa thành lập. Trong hoàn cảnh khó khăn chung của
đất nước, tỉnh Ninh Bình cũng đứng trước những khó khăn hết sức trầm trọng về
13
kinh tế, xã hội. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã nỗ lực lãnh đạo nhân dân vượt qua khó
khăn thử thách, xây dựng chính quyền cách mạng, lãnh đạo nhân dân kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình đã vượt qua muôn
vàn khó khăn thử thách, anh dũng chiến đấu, hy sinh, kiên cường đấu tranh cách
mạng giành độc lập dân tộc, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1946 – 1954)
Sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp xâm lược nước ta, chúng âm
mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ xâm lược ở miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Ninh Bình ra sức thi đua lao
động sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế.
Cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân Ninh Bình vừa sản xuất, vừa chiến đấu
chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, tích cực chi viện cho miền Nam,
góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc
Việt Nam (1954 – 1975).
Từ sau năm 1975, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo nhân dân tiến hành xây
dựng và phát triển quê hương theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đấu tranh
cách mạng cũng như trong lao động sản xuất, cùng với nhân dân toàn tỉnh, thanh
niên Ninh Bình luôn thể hiện tốt vai trò nòng cốt, đi đầu của mình, sẵn sàng đem
sức trẻ cống hiến cho quê hương, đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình đã phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo
nên một diện mạo mới trong nền kinh tế, xã hội của tỉnh Ninh Bình.
1.1.2. Công tác đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Ninh Bình trước năm 2000
*Công tác đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Ninh Bình từ năm 1976 đến
năm 1999
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc
thống nhất. Hòa chung không khí phấn khởi, tưng bừng của ngày non sông thu về
một mối, phát huy tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất của cha ông, tuổi trẻ
Ninh Bình tiếp tục nêu cao tinh thần xung kích, sáng tạo, vượt mọi khó khăn gian
14
khổ, cùng với nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương, góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa
5, phiên họp ngày 27 - 12 - 1975 ra Nghị quyết hợp nhất tỉnh Ninh Bình với tỉnh
Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh, các đơn vị huyện, thị xã, thị trấn thuộc tỉnh Ninh
Bình vẫn nguyên tên gọi, địa giới, trực thuộc tỉnh Hà Nam Ninh.
Tháng 1 – 1976, cơ quan Tỉnh Đoàn Hà Nam Ninh được thành lập và đi vào
hoạt động. Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh kêu gọi toàn thể đoàn viên, thanh niên trong
tỉnh phát huy khí thế ba sẵn sàng của thanh niên trên các lĩnh vực sản xuất, công
tác, học tập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng: Đoàn Thanh niên mở nhiều đợt
sinh hoạt chính trị rộng lớn, quán triệt các nghị quyết của Đảng, của Đoàn, đường
lối nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước và của tỉnh, giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin với giáo dục truyền thống, về Đảng, về Bác Hồ kính yêu…giúp cho
đoàn viên thanh niên thấy rõ được cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa, xây dựng đạo đức cách mạng và niềm tin cho đoàn viên,
thanh niên.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh Đoàn Hà Nam Ninh đã chỉ đạo tốt nội
dung giáo dục chính trị với chủ đề: “Tuổi trẻ xung kích, sáng tạo, xây dựng Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa”, “Cuộc hành quân theo bước chân những người anh hùng”, “Theo
chân Bác”, triển khai cuộc vận động: “Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng”… Các
hoạt động thiết thực trên đã thu hút hàng vạn đoàn viên, thanh niên Hà Nam Ninh
tham gia. Thông qua đó, ý thức cách mạng và tinh thần chiến đấu của thanh niên
được nâng cao, tuổi trẻ Hà Nam Ninh nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình
đối với quê hương, đất nước.
Trên mặt trận xây dựng và phát triển kinh tế: Phong trào “Ba xung kích làm
chủ tập thể”, “Lao động tình nguyện vượt mức kế hoạch” được triển khai có hiệu
quả ở tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp: Điểm nổi bật trong phong trào thi đua
của thanh niên nông thôn là trên mặt trận thủy lợi. Đoàn viên, thanh niên đóng vai
15
trò là lực lượng nòng cốt trong các đội thủy lợi 202, thanh niên sẵn sàng đảm nhận
những khâu xung yếu, những công việc khó khăn, nặng nề nhất, phấn đấu vượt chỉ
tiêu định mức. Tỉnh Đoàn đã hướng dẫn và chỉ đạo các cơ sở Đoàn xây dựng “Cánh
đồng tăng sản”, triển khai hoạt động “Mở hội thi tài”, khuyến khích thanh niên tích
cực tham công tác khai hoang, mở rộng diện tích đất nông nghiệp…
Phong trào “Lao động tình nguyện vượt mức kế hoạch” trong thanh niên
công nghiệp cũng được triển khai rộng khắp ở hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, công
trường, nông trường…thu hút hàng vạn công nhân trẻ tham gia. Các hoạt đông:
“Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, “Tổ đội khoa học kỹ thuật trẻ”, “Câu lạc bộ thanh
niên”, “Xe máy thanh niên”… được tổ chức ở hầu hết các cơ sở Đoàn trong các nhà
máy, xí nghiệp, công trường, nông trường quốc doanh. Phong trào sáng tạo và tiết
kiệm được duy trì và hoạt động tốt thông qua các ban khoa kỹ thuật trẻ.
Cùng thi đua với đoàn viên, thanh niên trong khối nông - công nghiệp, đoàn
viên, thanh niên khối cơ quan hành chính, sự nghiệp đã không ngừng cải tiến lề lối
làm việc, thực hiện nghiêm kỷ luật lao động, bảo đảm ngày công, giờ công và nâng
cao hiệu suất công tác, năng lực phẩm chất cách mạng. Đoàn viên, thanh niên khối
học sinh tích cực hưởng ứng phong trào Xây dựng “Tập thể học sinh xã hội chủ
nghĩa” và phong trào “Tập thể thanh niên giáo viên xã hội chủ nghĩa”, phong trào
“Hai tốt” trong các nhà trường được phát động và đạt kết quả khá toàn diện. Qua
phong trào, tinh thần tự giác học tập và phong cách học tập mới được nâng lên rõ rệt.
Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao thu hút đông đảo các tầng
lớp thanh niên tham gia. Rèn luyện than thể “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
trở thành nếp sống hàng ngày của mỗi đoàn viên, thanh niên.
Trên mặt trận an ninh, quốc phòng: các cấp bộ Đoàn có kế hoạch thực hiện
các Nghị quyết liên tịch giữa Trung ương Đoàn và Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng
nhằm tăng cường phối hợp ba lực lượng trong việc nâng cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, trang bị những kiến thức cơ bản về quân sự, về phương pháp đấu tranh
với tiêu cực, với kẻ xấu, với các phần tử phản động cách mạng… Đoàn viên thanh
niên đã tham gia tuần tra, canh gác, bảo vệ trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của nhân
dân, của tập thể và của nhà nước. Ngoài ra Đoàn còn có các hoạt động kết nghĩa,
16
giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, kết nghĩa với các đồn biên phòng ở biên
giới, với các đơn vị bộ đội, công an nhân dân nhằm tăng cường mối quan hệ quân
dân thắm thiết.
Năm 1986, quán triệt tư duy đổi mới toàn diện của Trung ương Đảng, Đảng
bộ tỉnh Hà Nam Ninh đã lãnh đạo tuổi trẻ và nhân dân tiếp tục thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đề ra.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thường xuyên kết hợp với Đoàn Thanh niên giải
quyết các vấn đề của công tác Đoàn và phong trào thanh niên Hà Nam Ninh như: cụ
thể hoá các nghị quyết, chủ trương của Đảng, đưa ra những chính sách động viên,
khuyến khích tuổi trẻ phát huy tiềm năng của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nam Ninh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh tỉnh đã chỉ đạo thanh niên thực hiện tốt các chương trình hành động cách
mạng của thanh niên:
Tuổi trẻ xung kích, sáng tạo trên mặt trận phát triển kinh tế, thực hiện thắng
lợi ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tuổi trẻ đi đầu thực hiện các chính sách xã hội và đấu tranh cho công bằng
xã hội.
Tuổi trẻ xung kích trên mặt trận quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Tuổi trẻ học tập và tiến quân vào khoa học kỹ thuật
Nhìn chung, mặc dù còn hạn chế, song, công tác Đoàn và phong trào thanh
niên Hà Nam Ninh nói chung, Ninh Bình nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích
cực, thanh niên đã tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội, góp phần đem lại sự
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Tại kỳ họp thứ 10 ngày 26 – 12 – 1991, Quốc hội khóa VIII thông qua Nghị
quyết điều chỉnh, phân định lại địa giới một số tỉnh, tách tỉnh Hà Nam Ninh thành
hai tỉnh Ninh Bình và Nam Hà. Tỉnh Ninh Bình tái lập trên cơ sở giữ nguyên vị trí
địa lý, địa giới hành chính của tỉnh Ninh Bình thời điểm hợp nhất tỉnh Hà Nam
Ninh (tháng 12 – 1975).
17
Tháng 7 – 1992, Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
tỉnh Ninh Bình được tiến hành. Đại hội đã kiện toàn bộ máy lãnh đạo và đưa ra
những phương hướng hoạt động cho công tác Đơn và phong trào thanh niên trong
thời kỳ mới.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa VII) tháng 1 – 1993 “Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới”, tuổi trẻ
Ninh Bình đã tích cực thực hiện hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và
“Tuổi trẻ giữ nước”.
Các hoạt động hưởng ứng hai phong lớn của thanh niên diễn ra sôi nổi, mạnh
mẽ trên toàn tỉnh, thanh niên Ninh Bình hăng say học tập, lao động sản xuất với
mong muốn được đóng góp sức mình cho sự phát triển của quê hương, đất nước.
Từ ngày 22 đến ngày 24 – 11 – 1997, Đại hội Đại biểu Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Ninh Bình được tổ chức tại nhà văn hóa trung tâm tỉnh
Ninh Bình. Đại hội đã đánh giá những ưu, khuyết điểm của công tác Đoàn và phong
trào thanh niên trong nhiệm kỳ vừa qua, đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác
trong nhiệm kỳ tới (1997 – 2002). Tập trung chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh hai phong
trào “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”.
Thực hiện chủ trương của Đại hội, các phong trào hoạt động, thi đua, các đợt
học tập, sinh hoạt chính trị… được triển khai mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh. Thông qua
đó, đoàn viên, thanh niên Ninh Bình ngày càng ý thức được trách nhiệm của mình
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới quê hương, kiên định đi theo
con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn.
Tuổi trẻ Ninh Bình hăng hái tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, tha
thiết cống hiến sức trẻ của mình cho sự phát triển phồn vinh của tỉnh, góp phần vào sự phát
triển chung của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
*Những vấn đề đặt ra đối với công tác Đoàn và phong trào thanh niên Ninh
Bình trong thời kỳ mới:
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác Đoàn và phong trào thanh niên
tỉnh Ninh Bình còn đặt ra một số vấn đề cần giải quyết
18
- Một bộ phận thanh thiếu niên chưa nhận thức được vai trò, vị trí của mình
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, chưa thực sự tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhận thức chính trị hạn chế, không quan tâm đến
sự thịnh suy của tỉnh, sống buông thả, không có trách nhiệm với bản thân, gia đình
và xã hội, sa vào các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, trộm cướp… Do đó, Đoàn
thanh niên phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối
sống…cho thanh niên.
- Đội ngũ cán bộ Đoàn chưa được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng một cách
co hệ thống. Chất lượng cán bộ Đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo và tổ chức
hoạt động cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Vai trò của Tổ chức Đoàn trong
việc giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp còn nhiều hạn chế.
- Mặc dù được các cấp chính quyền quan tâm, nhưng vẫn còn một bộ phận
không nhỏ thanh niên có trình độ học vấn, năng lực lao động thấp kém, đồng thời
lại có không ít thanh niên tốt nghiệp đại học không muốn quay về xây dựng quê
hương. Đây là thực trạng xảy ra ở hầu hết các huyện, thị trên địa bàn tỉnh. Thực tế
đó đòi hỏi các cấp bộ Đảng cần quan tâm sâu sắc hơn nữa tới đối tượng thanh niên,
đưa ra những chính sách, biện pháp phù hợp, tạo điều kiện cho thanh niên học tập,
rèn luyện nâng cao trình độ học vấn, nâng cao tay nghề, nghiệp vụ chuyên môn.
1.1.3. Chủ trương của Đảng về công tác Đoàn và phong trào thanh niên
trong thời gian 2000 – 2005
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII
(ngày 14/1/1993) “Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới” đã nhấn mạnh vai trò
của thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời đưa
ra những phương hướng lớn trong việc thực hiện công tác Đoàn và phong trào thanh niên.
Sau ba năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, phong trào thanh niên có những bước tiến mới, nhiều mặt mạnh của
thanh niên như trình độ học vấn, sự năng động, nhạy bén, lòng yêu quê hương đất
nước được phát huy, là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
mọi mặt của đất nước.
19
Ngày 30/3/1996, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra
chỉ thị 66-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII “về công tác thanh niên trong thời kỳ
mới”, đã đề ra những chủ trương và giải pháp cụ thể về lãnh đạo công tác thanh
niên trong thời kỳ mới. Trong đó nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công
tác Đoàn và phong trào thanh niên, cần phải: “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng đối với Đoàn thanh niên và công tác thanh niên ở từng cấp, ở mọi địa bàn,
đối tượng, thực sự coi xây dựng Đoàn là một bộ phận quan trọng của công tác xây
dựng Đảng” .
Chỉ thị 66 – CT/TW của Đảng đã đề ra biện pháp phát huy vai trò của thanh
niên trong từng lĩnh vực cụ thể, chăm lo cho giáo dục, đào tạo nhằm bồi dưỡng
nhân tài, tạo nguồn lực cho đất nước, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho
thanh niên, tạo môi trường xã hội lành mạnh, tích cực triển khai các hoạt động văn
hoá - thể thao cho thanh niên tham gia, tăng cường vai trò giáo dục của gia đình đối
với thanh niên, đồng thời củng cố, nâng cao chất lượng về mọi mặt tổ chức Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam để các tổ
chức này đủ sức tập hợp rộng rãi lực lượng trẻ, làm nòng cốt phát huy vai trò xung
kích của thanh niên, tổ chức các phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong
thanh niên và vai trò là đội dự bị tin cậy của Đảng.
Năm 1996 cũng là năm diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (từ
28/6 – 1/7/1996). Trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế
giới, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, nêu rõ những thời cơ và thách
thức lớn, Đại hội định ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: “tiếp tục nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến 2020, ra
sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”
20
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
của giai đoạn 1996-2000 là: “Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000,
GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm đạt khoảng 9-10%”
Trên cơ sở mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tích cực coi trọng công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Đảng
quán triệt quan điểm “Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Đảng
chủ trương phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo
dục và đào tạo.” coi giáo dục là khâu then chốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phát triển toàn diện thế hệ trẻ.
Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục trong 5 năm (1996 – 2000), là
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều
kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có việc làm, khắc phục những tiêu cực,
yếu kém trong giáo dục và đào tạo, xã hội hoá giáo dục, gắn giáo dục nhà trường với giáo
dục gia đình, tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Giáo dục được xem là chìa khoá của mọi sự thành công, là cơ sở tạo ra lực
lượng lao động có đạo đức, có trình độ, tạo động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Cùng với sự quan tâm đến giáo dục - đào
tạo, Đảng tiếp tục chủ trương tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo đối với công tác
thanh niên. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh đối với
công tác thanh niên cần: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở mọi cấp, mọi ngành. Coi trọng hơn nữa việc giáo
dục, rèn luyện thế hệ trẻ về chính trị, tư tưởng, văn hoá, nghề nghiệp, đạo đức, lối
sống. Quan tâm đào tạo và giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu học tập, lao động
sáng tạo, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh,
thiếu niên. Tạo điều kiện cho Đoàn Thanh niên thực hiện tốt trách nhiệm đối với
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, ngăn
ngừa các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm độc hại. Chăm lo giáo dục, đào luyện thế
21
hệ trẻ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của
gia đình, nhà trường và của toàn xã hội. Nghiên cứu ban hành Luật thanh niên.” [38,
tr. 368].
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, những chủ trương
của Đảng về công tác thanh niên là định hướng quan trọng để thanh niên có sự phát
triển đúng đắn. Đào tạo đội ngũ cán bộ đoàn viên thanh niên là việc làm hết sức cần
thiết. Các cấp bộ Đảng cần chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh vững mạnh, phát huy vai trò là lực lượng xung kích, là đội hậu bị tin cậy của
Đảng. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ Đoàn, phát huy tính năng động, sáng tạo,
nhiệt tình của tuổi trẻ trong quá trình tổ chức triển khai hoạt động.
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với xu thế mở cửa hội nhập trên thế giới, Đảng
và nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện các chủ trương xây dựng và phát triển đất
nước trong điều kiện mới, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn được đưa lên
hàng đầu trong mọi hoạt động của đất nước.
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến hành từ ngày 19
đến 22 – 4 – 2001 tại Hà Nội. Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá những
thành tựu và khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, đề ra
những quyết sách cho sự phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu nâng cao hơn nữa
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững bước đi vào thế kỷ mới.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra chiến lược phát triển kinh
tế - xã
hội 10 năm 2001 - 2010 của đất nước là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao” [38, tr. 465].
22
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Quán triệt tinh thần đó, Đảng chủ trương: “thực
hiện giáo dục cho mọi người”, “Cả nước trở thành một xã hội học tập”. Thực hiện
phương châm “Học đi đôi với hành, giáo dục gắn với lao động sản xuất, nhà trường
gắn với xã hội” [38, tr. 477].
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội
IX nêu rõ phương hướng giáo dục: “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng
học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp
phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương” [38,
tr. 477]. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh,
sinh viên, xây dựng mô hình giáo dục toàn diện nhằm mục đích: “ Phát triển toàn
diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [38, tr. 487].
Thực hiện chủ trương của Đảng, để tạo điều kiện cho công tác Đoàn và
phong trào thanh niên mang lại hiệu quả hơn nữa, ngày 29/4/2003, Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010”.
Đây là văn bản pháp quy đầu tiên, bước đầu thể chế hóa chủ trương về công tác
thanh niên của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Chiến lược gồm bốn phần. Phần thứ nhất là : “Tình hình thanh niên, công tác
thanh niên hiện nay. Bối cảnh, thời cơ và thách thức đối với thanh niên trong giai
đoạn mới”, phần thứ hai: “Quan điểm và mục tiêu chiến lược phát triển thanh niên”,
phần thứ ba: “Các giải pháp chủ yếu”, phần thứ tư: “Tổ chức thực hiện”.
Trong phần thứ nhất, Chiến lược chỉ ra những đặc điểm cơ bản, những mặt
mạnh, mặt yếu của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ hiện nay. Về những mặt
mạnh của thanh niên, Chiến lược nhận định: “Trong xã hội ta đang tiếp tục hình
thành một lớp thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, xuất sắc trong các lĩnh vực
chuyên môn, kế thừa bản sắc văn hóa dân tộc, tiêu biểu cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới”
23