Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Đảng bộ tỉnh ninh bình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở 1998 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

TẠ THỊ MỸ LINH

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
(1998 – 2007)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Hà Nội – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

TẠ THỊ MỸ LINH

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
(1998 – 2007)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Quang Hải

Hà Nội – 2009



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 8
Chương 1: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CỦA TỈNH NINH BÌNH ...... 15
1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội của tỉnh Ninh Bình........ 15
1.1.1. Điều kiện tự nhiên......................................................................................... 15
1.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội ............................................................................. 16
1.2. Lý luận chung về đời sống văn hoá cơ sở và ý nghĩa của việc xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở .............................................................................................. 19
1.3. Vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của tỉnh Ninh Bình trước năm
1998 ........................................................................................................................ 24
1.4. Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở với sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Ninh Bình ..................................................................................................... 31
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ (1998 – 2007) ....................................................................... 37
2.1. Đường lối của Đảng về xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ................................37
2.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở (1998
– 2007) ..................................................................................................................... 44
2.3. Quá trình xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ở Ninh Bình trong những năm
1998 – 2007 ............................................................................................................. 54
2.3.1. Công tác tuyên truyền vận động ................................................................... 54
2.3.2. Triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng hương ước, quy
ước............................................................................................................................ 60
2.3.3. Triển khai thực hiện cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá” .......................................................................................... 67
2.3.3.1. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ............. 69
2.3.3.2. Xây dựng gia đình văn hoá ......................................................................... 76
2.3.3.3. Xây dựng làng, bản, phố phường văn hoá, cơ quan, trường học văn hoá . 82

2.3.3.4. Xây dựng các thiết chế văn hoá cơ sở ......................................................... 87

1


2.3.3.5. Phát động và thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư” .................................................................................... 90
Chương 3: THỰC TRẠNG, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ CỦA TỈNH NINH
BÌNH ........................................................................................................................ 97
3.1. Thực trạng xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ở Ninh Bình trong những
năm 1998 – 2007 ..................................................................................................... 97
3.1.1. Những thành tựu trong công tác xây dựng đời sống vă hóa cơ sở ở Ninh
Bình ......................................................................................................................... 97
3.1.1.1. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ............. 97
3.1.1.2. Xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước nếp sống văn hoá và phong trào
xây dựng gia đình, làng, phố, cơ quan, trường học văn hoá, khu dân cư tiên tiến,
xuất sắc .................................................................................................................... 100
3.1.1.3. Xã hội hoá hoạt động văn hoá và thiết chế văn hoá ở cơ sở .................... 103
3.1.1.4. Thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp ở cơ sở ....... 105
3.1.1.5. Xây dựng môi trường cảnh quan, chấp hành nghiêm việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở ....................................................................................................... 108
3.1.1.6. Công tác phát triển sự nghiệp văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
vùng đồng bào có đạo ............................................................................................. 110
3.1.1.7. Đánh giá chung về nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được ........ 111
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
của tỉnh Ninh Bình ................................................................................................ 112
3.1.2.1. Công tác chính trị tư tưởng chưa thật vững chắc ..................................... 112
3.1.2.2. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội còn
hạn chế .................................................................................................................... 112

3.1.2.3. Việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước ở các khu dân cư chưa thật
sự đi vào đời sống ................................................................................................... 114
3.1.2.4. Việc thực hiện nếp sống văn hoá ở cộng đồng còn máy móc, chưa thực sự
sâu rộng ................................................................................................................... 114
3.1.2.5. Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế ............................................... 115

2


3.2. Bài học kinh nghiệm của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của tỉnh
Ninh Bình ............................................................................................................... 117
3.3. Một số giải pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc xây dựng đời sống văn hóa
ở cơ sở của tỉnh Ninh Bình .................................................................................. 120
3.3.1. Nhóm giải pháp tổng thể .............................................................................. 120
3.3.2. Nhóm giải pháp hành chính – văn hoá....................................................... 123
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 133
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 151

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCĐ

Ban chỉ đạo

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GDP

Gross domestic product (Tổng sản
phẩm quốc nội)

HĐND

Hội đồng nhân dân

KDC

Khu dân cư

NQTƯ 5

Nghị quyết Trung ương 5

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

UBND

Ủy ban nhân dân


UBMTTQ

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

4


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số thứ tự

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1

Kết quả xây dựng gia đình văn hóa, làng, thôn, bản,

Tr. 101

phố văn hóa từ năm 2001 đến năm 2008
Bảng 3.2

Kết quả xây dựng cơ quan, trường học văn hóa,
hương ước, quy ước từ năm 2001 đến năm 2008


5

Tr. 102


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH NINH BÌNH

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Bình cung cấp

6


“Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà
máy, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân,
cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp đều có
đời sống văn hoá”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ V, tập 1, NXB Sự
thật, Hà Nội, 1982, tr 102)

7


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hơn hai mươi năm qua đã đạt được những
bước tiến vững chắc. Đi đôi với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi phải
gắn chặt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với việc xây dựng nền văn hoá mới
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tạo ra

nhiều động lực và điều kiện quan trọng để phát triển đất nước (nhất là trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay). Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị
trường cũng gây ra không ít khó khăn, thách thức, cản trở sự nghiệp đổi mới. Đó là
sự chập chờn về định hướng phát triển, sự so sánh thiệt hơn về lợi ích kinh tế, sự
xuống cấp về đạo đức, lối sống; xu hướng thị trường hoá, thương mại hoá trong đời
sống văn hoá và hoạt động văn hoá ở nhiều địa phương trong cả nước.
Vì vậy, một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm là xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở để tạo lập môi trường văn hoá cơ sở lành mạnh, huy
động mọi tiềm lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần hạn chế
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong tiến trình xây dựng nền
văn hoá mới và con người mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) cũng đã nhấn mạnh
đến việc xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, có nếp sống văn hoá,
bài trừ các tệ nạn xã hội và hủ tục, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.
Nhận thức được tầm quan trọng của đời sống văn hoá ở sơ sở và trên cơ sở
đánh giá thực trạng đời sống văn hoá ở các địa phương, đơn vị; Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình đã có những nỗ lực nhằm đưa văn hoá thấm sâu vào đời sống nhân dân, góp
phần nâng cao chất lượng đời sống của cộng đồng dân cư và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Đặc biệt từ sau Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (1998), Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,

8


đậm đà bản sắc dân tộc đã được ban hành. Theo đó, việc xây dựng đời sống văn hoá
cơ sở được Đảng ta hết sức coi trọng nhằm xây dựng con người Việt Nam trong giai
đoạn mới và xây dựng môi trường văn hoá mới.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã khẩn

trương triển khai thực hiện Nghị quyết vào đời sống văn hoá ở cơ sở, tạo cho Ninh
Bình có những bước phát triển mới.
Những kết quả đạt được của tỉnh Ninh Bình trong việc xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở đã có ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối với việc phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội; đồng thời khẳng định sự đúng đắn của đường lối, chính sách văn
hoá của Đảng và năng lực lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng đời sống văn
hoá ở cơ sở của Ninh Bình cũng đang gặp phải nhiều vấn đề bất cập do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về
quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở
(1998 – 2007) là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm
và những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở của tỉnh Ninh Bình hiện nay.
Với những ý nghĩa trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở (1998 – 2007)” làm đề tài luận
văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam..
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được triển khai rộng khắp trong cả
nước nên gần như tỉnh nào cũng có những công trình nghiên cứu hoặc những bài
viết về vấn đề này đăng tải trên các báo, tạp chí. Có thể nêu ra một số công trình
tiêu biểu sau đây:
Năm 1995, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc xuất bản cuốn sách “Chủ động
sáng tạo xây dựng đời sống văn hoá ở sở sở”. Bên cạnh việc chỉ rõ vai trò của việc
xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, nội dung cuốn sách đã đề cập đến một số biện

9


pháp nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo trong xây dựng đời sống văn hoá ở cơ

sở.
Bộ Văn hoá Thông tin cũng đã cho xuất bản một số cuốn sách liên quan đến
vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở như:
- “Một số vấn đề xây dựng làng - ấp văn hoá hiện nay” (1997), Nxb
Hà Nội. Cuốn sách đã nêu rõ được thực trạng của việc xây dựng làng - ấp văn hoá
trên địa bàn cả nước và đề cập đến các vấn đề được coi như là giải pháp để làm tốt
công tác xây dựng làng - ấp văn hoá.
- Cuốn “Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới” (1997),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đề cập đến vai trò của gia đình đối với sự phát
triển của xã hội nói chung và sự nghiệp đổi mới nói riêng. Cuốn sách chỉ rõ việc cần
thiết phải đẩy mạnh xây dựng gia đình văn hoá với những tiêu chí mới phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước.
- Cuốn “Hỏi và đáp về làng văn hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn
hoá, tổ chức lễ hội truyền thống”, do Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội xuất bản năm
1998 được trình bày dưới dạng hỏi, đáp đã giải đáp tất cả những vấn đề cơ bản liên
quan đến việc xây dựng làm văn hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn hoá và tổ chức
lễ hội truyền thống. Cuốn sách có vai trò tuyên truyền, hướng dẫn mọi người hiểu
được bản chất và cách thực hiện những vấn đề đã nêu sao cho phù hợp với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hai tác giả Dương Thanh Tam, Lê Văn Thinh biên soạn cuốn: “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1999. Nội dung cuốn sách phản ánh về một phong trào do UBMTTQ Việt
Nam chủ trì. Trên cơ sở nêu bật những ý nghĩa của phong trào, cuốn sách đã đưa ra
một cách phân tích sâu sắc về những vấn đề thuộc về nội dung của phong trào và hệ
thống các giải pháp để thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
ở khu dân cư” có hiệu quả.
Những năm gần đây cũng có một số cuốn sách được xuất bản về vấn đề này,
điển hình như:

10



- “Hỏi và đáp về phong trào toàn dân đoàn kết xây dụng đời sống văn
hoá” (2000), Ban chỉ đạo đời sống văn hoá, Hà Nội. Cuốn sách đã giải đáp những
vấn đề cơ bản về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, từ nội
hàm khái niệm cho đến việc hướng dẫn việc thực hiện phong trào.
- “Vấn đề xây dựng môi trường văn hoá cơ sở” (2001), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Xuất phát từ việc phân tích về khái niệm văn hoá, tác giả đã đưa
ra một cách nhìn nhận chi tiết về môi trường văn hoá cơ sở; đồng thời nhấn mạnh
đến những yếu tố cần thiết phải xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh ở cơ sở và
một hệ thống các giải pháp để làm được điều đó.
- “Hội nông dân Việt Nam với phong trào gia đình văn hoá, thôn ấp,
bản, làng văn hoá” của các tác giả Lê Quý Trấn, Nguyễn Văn Tam, Trần Thị Ánh
Tuyết, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2001. Trong công trình này, nhóm tác giả đã nêu bật
được vai trò của Hội nông dân với phong trào xây dựng gia đình văn hoá, thôn, ấp,
bản, làng văn hoá; đồng thời đề cập đến những việc đã làm được và chưa làm được
của Hội nông dân đối với phong trào. Từ đó các tác giả rút ra những đánh giá tổng
kết, những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp cần thiết để nâng cao
vai trò của Hội nông dân với phong trào.
Tuy nhiên, viết về đời sống văn hoá ở cơ sở của Ninh Bình một cách toàn
diện và có hệ thống dưới góc độ lịch sử cho đến nay chưa có một cuốn sách chuyên
khảo nào. Về nội dung này mới chỉ có một số Kỷ yếu Hội thảo và Báo cáo bước đầu
tổng kết đời sống văn hoá ở cơ sở. Trong đó đáng chú ý có Kỷ yếu Hội nghị tổng
kết năm năm phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá tỉnh Ninh
Bình 2001- 2005”. Kỷ yếu bao gồm một hệ thống các Báo cáo tổng kết và Báo cáo
tham luận của các đại biểu ở các địa phương tiêu biểu trên địa bàn tỉnh về những
mặt đã làm được và chưa làm được của việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá” từ năm 2001 – 2005. Trên cơ sở tổng kết những bài
học kinh nghiệm, các Báo cáo tham luận cũng đưa ra những phương hướng để đẩy
mạnh phong trào trong những năm tiếp theo.

Bên cạnh đó là một số báo cáo tiêu biểu như:

11


-

Báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII

về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
của tỉnh Ninh Bình (10/2003);
-

Báo cáo tham luận của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

tỉnh Ninh Bình tại Hội nghị tổng kết 5 năm (2001 – 2005) phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.
-

Báo cáo kết quả xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước và thực hiện

nếp sống văn hoá ở các KDC, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ
hội của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Bình, tháng 2/ 2009.
Những tài liệu trên đây đã phần nào cho thấy cái nhìn tổng quan về vấn đề
xây dựng đời sống văn hoá cơ sở nói chung và thực trạng xây dựng đời sống văn
hoá ở Ninh Bình nói riêng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo
xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007.
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ vai trò của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình trong việc thực hiện đường lối,

chủ trương của Đảng trong việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, góp phần xây
dựng nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của việc xây dựng đời sống
văn hoá cơ sở do Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo đối với sự nghiệp xây dựng và
phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của tỉnh.
- Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và những tồn tại, hạn chế trong việc
xây dựng đời sống văn hoá cơ sở của Ninh Bình, luận văn rút ra một số bài học kinh
nghiệm và giải pháp đối với việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở của tỉnh Ninh
Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Ninh Bình trong việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm
2007. Đây là khoảng thời gian ghi nhận những nỗ lực rất lớn của Đảng bộ, các ban

12


ngành và nhân dân Ninh Bình trong việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Việc
đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong khoảng thời
gian từ năm 1998 đến năm 2007 chính là việc cụ thể hoá chiến lược xây dựng nền
văn hoá mới được đề ra tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá
VIII (1998).
- Phạm vi nghiên cứu không gian của đề tài là toàn bộ địa bàn của tỉnh Ninh
Bình.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu để thực hiện mục tiêu mà đề tài đưa ra, nguồn tài liệu chính
được sử dụng trong luận văn là:
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V, VI, VII, VIII, IX, X của Đảng; Văn kiện Hội nghị Trung ương lần

thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (7/1998), Kết luận Hội nghị
Trung ương lần thứ mười khoá IX (2004); Các văn bản, Báo cáo, Chỉ thị, Chương
trình hành động tổ chức, triển khai xây dựng đời sống văn hoá cơ sở của Chính Phủ,
UBMTTQ Việt Nam, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
- Những cuốn sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, kỷ yếu Hội
thảo, Báo cáo đề cập đến việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở.
- Các bài viết liên quan đến vấn đề xây dựng đời sống văn hoá cơ sở
trên một số tạp chí (Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Tư tưởng văn
hoá, Tạp chí Khoa học xã hội – Trung tâm thông tin Khoa học xã hội và nhân văn
Quốc gia, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tạp chí Thông tin lý luận, Tạp chí Văn hóa
dân gian, Tạp chí Toàn cảnh sự kiện – dư luận) và báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, báo điện tử Ninh Bình.
- Các văn bản, tài liệu của Tỉnh Uỷ, Uỷ ban Nhân dân, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc tỉnh Ninh Bình, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ; Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch tỉnh Ninh Bình.
- Tài liệu thu thập qua điều tra và khảo sát thực địa.
Phương pháp nghiên cứu:

13


Để giải quyết những yêu cầu của đề tài này, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận
là những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở.
Trên cơ sở nguồn tài liệu, luận văn là kết quả của một quá trình sưu tầm và
xử lý tài liệu. Những phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn
bao gồm phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp với các phương pháp
khác như: phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu nhằm vươn tới một cái nhìn
sâu sắc và chân thực về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình trong việc xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Ninh Bình.
Chương 2. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ
sở (1998 – 2007).
Chương 3. Thực trạng, bài học kinh nghiệm và một số giải pháp trong việc
xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của tỉnh Ninh Bình.

14


Chương 1
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CƠ SỞ
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
CỦA TỈNH NINH BÌNH
1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội của tỉnh Ninh Bình.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực Nam đồng bằng Bắc Bộ, nơi tiếp giáp và ngăn
cách với phía Bắc của miền Trung bởi dãy núi Tam Điệp đã đi vào lịch sử. Phía Bắc
của tỉnh giáp huyện Thanh Liêm (Hà Nam) với chiều dài 15 km; phía Tây Bắc giáp
hai huyện Yên Thuỷ và Lạc Thuỷ của tỉnh Hoà Bình với chiều dài 66 km; phía Tây
và Tây Nam giáp các huyện Thạch Thành, Hà Trung và Nga Sơn của tỉnh Thanh
Hoá với chiều dài 87 km; phía Nam là vịnh Bắc Bộ với chiều dài 16,5 km; phía
Đông và Đông Bắc giáp hai huyện Ý Yên và Nghĩa Hưng của tỉnh Nam Định, lấy
con sông Đáy làm ranh giới với chiều dài 87 km.
Trên bản đồ Việt Nam, tỉnh Ninh Bình tiếp giáp với tam giác châu thổ Bắc
Bộ, phía Đông là đồng bằng, phía Nam là biển Đông, dãy núi Tam Điệp là giải phân
cách giữa đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Là tỉnh nằm trong khu vực đồng

bằng sông Hồng rộng lớn, Ninh Bình khá giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên,
dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào.
Ninh Bình nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc Nam, nối vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc với vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên; đồng thời nơi
đây còn là cửa ngõ giao lưu giữa các tỉnh phía Nam với vùng Tây Bắc.
Với diện tích tự nhiên là 1.439 km2, dân số trung bình vào khoảng 1.037.394
người, mật độ là 721 người/ km2, Ninh Bình là tỉnh có diện tích thuộc loại nhỏ, dân
số thuộc loại trung bình và mật độ dân số thuộc loại cao so với các tỉnh thành khác
trong cả nước.
Tuy nhiên địa hình Ninh Bình lại rất đa dạng, vừa có đồi núi và nửa đồi núi,
vừa có đồng bằng, vừa có vùng trũng và đồng bằng ven biển.
Vùng đồi núi tập trung chủ yếu ở huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp, một
phần thuộc huyện Gia Viễn và Hoa Lư.

15


Vùng nửa đồi núi tập trung một phần ở huyện Gia Viễn, Hoa Lư, thị xã Tam
Điệp và huyện Yên Mô.
Vùng đồng bằng tập trung một phần ở huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô,
còn lại chủ yếu ở thành phố Ninh Bình, huyện Yên Khánh và huyện Kim Sơn.
Do tính đa dạng và phân bố phức tạp của địa hình, thiên nhiên đã ban tặng
cho Ninh Bình nhiều nguồn tài nguyên quý như đá vôi, nước khoáng, suối nước
nóng và rất nhiều các hang động sinh thái.
Mặt khác, với lãnh thổ khá hẹp, chế độ khí hậu của Ninh Bình tương đối
đồng nhất, mang những đặc điểm của khí hậu nhiệt đới và chịu ảnh hưởng sâu sắc
của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam. Ngoài ra, khí hậu nơi đây còn chịu
ảnh hưởng của khí hậu rừng núi và khí hậu vùng ven biển. Đặc điểm này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho Ninh Bình trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp
và thuỷ sản.

Ninh Bình có hệ thống sông khá phong phú với tổng chiều dài hơn 400 km.
Điển hình nhất là sông Đáy chạy dọc tỉnh và đổ ra biển. Hệ thống sông ngòi của
Ninh Bình ngoài tác dụng tạo nguồn sinh thuỷ lớn để cung cấp nước cho nhu cầu
của đời sống dân cư, còn có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình sản xuất nông
nghiệp và giao thông vận tải.
1.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
Ninh Bình là một vùng đất có lịch sử lâu đời. Theo “Ninh Bình toàn tỉnh địa
chí khảo biên” của tác giả Nguyễn Tử Mẫn thì từ cổ xưa vùng đất này thuộc trấn
Nam Giao, nhà Tần thuộc Tượng Quận, nhà Hán gọi nơi đây là Giao Chỉ. Trải qua
nhiều biến đổi về địa danh, đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829) trấn Ninh Bình
chính thức ra đời. Và đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi trấn Ninh Bình thành
tỉnh Ninh Bình [106, tr. 10].
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, tại kỳ họp thứ hai, ngày
27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá V đã quyết định hợp
nhất tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh. Trước khi tái lập
tỉnh, Ninh Bình có 6 huyện và một thị trấn trực thuộc tỉnh, đó là các huyện Nho
Quan, Gia Viễn, Gia Khánh, Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn và thị trấn Tam Điệp.

16


Ngày 26/12/1991, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam khóa VII quyết định tái lập tỉnh Ninh Bình trên cơ sở chia tách tỉnh Hà
Nam Ninh. Tỉnh Ninh Bình chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/4/1992.
Đến nay tỉnh Ninh Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện bao gồm: thành
phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp (với 3 phường và 26 xã), huyện Yên Khánh (1 thị
trấn và 16 xã), huyện Nho Quan (1 thị trấn và 26 xã), huyện Gia Viễn (1 thị trấn và
20 xã), huyện Hoa Lư (1 thị trấn và 19 xã), huyện Kim Sơn (2 thị trấn và 25 xã),
huyện Yên Mô (1 thị trấn và 17 xã) [36, tr. 12].
Người dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề nông. Ngoài trồng lúa, người

dân còn trồng nhiều cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây công
nghiệp. Ninh Bình là một trong những tỉnh có nhiều nghề thủ công mỹ nghệ nổi
tiếng, điển hình nhất là nghề trạm trổ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân (Hoa Lư); nghề dệt
chiếu cói và các mặt hàng từ cói ở hầu khắp các xã thuộc huyện Kim Sơn và một số
xã thuộc huyện Yên Khánh và Yên Mô...
Tinh thần yêu nước và cần cù lao động là nét nổi bật nhất của người dân
Ninh Bình. Hơn thế, con người nơi đây còn đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong
lao động, sản xuất và có khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật, vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của địa phương. Vì vậy quá trình phát triển
kinh tế – xã hội của Ninh Bình trong những năm qua đã có những bước phát triển
nhất định.
Dân cư Ninh Bình phân bố không đều, chủ yếu sống tập trung ở vùng nông
thôn do quá trình định canh, định cư trong lịch sử. Cộng đồng dân tộc sinh sống ở
Ninh Bình chủ yếu là người Kinh, Mường, Thổ…, trong đó đông nhất vẫn là người
Kinh chiếm tới 97,9%, dân tộc Mường chiếm 2,1% dân số toàn tỉnh [36, tr.18]. Về
tôn giáo, đại bộ phận người dân Ninh Bình theo đạo Phật, cũng khá đông người dân
theo Công giáo, còn số ít theo các tôn giáo khác. Ngay từ đầu thế kỷ XX, huyện
Kim Sơn đã trở thành một trong những trung tâm Thiên chúa giáo lớn nhất ở nước
ta. Hiện nay đồng bào theo đạo Công giáo ở Kim Sơn đã chiếm tới tỷ lệ 44,5% tổng
dân số toàn huyện.

17


Tuy là tỉnh có xuất phát điểm về kinh tế thấp hơn so với những tỉnh khác
trong khu vực đồng bằng sông Hồng, nhưng trong khoảng thời gian từ năm 1992
đến nay, kinh tế của Ninh Bình đã có những khởi sắc, đặc biệt là ngành công nghiệp
vật liệu xây dựng và du lịch.
Kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, năm 2006 đạt 12,6%, năm 2007 đạt
15%. Công nghiệp là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất: năm 2006 đạt

15,6%, năm 2007 đạt 15,9%. GDP bình quân đầu người từ 6,4 triệu đồng/năm 2006
lên gần 7,9 triệu đồng/năm 2007, trong khi bình quân GDP tính theo đầu người của
các tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng năm 2007 là 6,965 triệu đồng. Như vậy đến
năm 2007 Ninh Bình đã đạt mức GDP tính theo đầu người cao hơn bình quân các
tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng. Tuy vậy, so với yêu cầu và tiềm năng thì
như trong báo cáo Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã đánh giá: “Tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế còn chậm”. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2007: Công nghiệp - xây
dựng chiếm 40%; Nông - Lâm - Ngư nghiệp chiếm 26%; Dịch vụ chiếm 34%.
Nguyên nhân là do tuy công nghiệp đã tăng nhanh nhưng thu hút đầu tư nước ngoài
còn ít, chưa kêu gọi được những tập đoàn kinh tế mạnh, có năng lực lớn đầu tư vào
địa bàn tỉnh. Một số dự án triển khai chậm. Khả năng cạnh tranh của một số sản
phẩm công nghiệp còn yếu. Hiệu quả hoạt động du lịch chưa tương xứng với tiềm
năng và nguồn lực đã đầu tư [124, tr 1].
Sự tăng trưởng của nền kinh tế đã góp phần cải thiện đời sống nhân dân
trong tỉnh trên tất cả các lĩnh vực. Thu nhập bình quân trên đầu người đạt 4 triệu
đồng/năm. Mức chênh lệch giữa thành thị và nông thôn đã ngày càng được rút ngắn.
Nhiều hộ gia đình có thu nhập tương đối cao, đã mua sắm được những tiện nghi đắt
tiền phục vụ cho cuộc sống.
Sự nghiệp giáo dục của tỉnh cũng đạt được những thành tựu mới. Công tác
giáo dục đã thực sự được lãnh đạo chính quyền và nhân dân quan tâm đúng mức.
Hệ thống giáo dục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu ở tất cả các cấp học và
ngành học.

18


Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân cũng có những tiến bộ đáng kể.
Năm 2004 toàn tỉnh đã có 52% số trạm y tế xã, phường có bác sĩ, đạt tỷ lệ 4,3 bác
sĩ/1 vạn dân [36, tr 39].
Hoạt động văn hoá nghệ thuật cũng đạt được những thành công mới. Số buổi

biểu diễn trên địa bàn toàn tỉnh đạt đến con số 100 buổi/năm.
Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế của Ninh Bình nói chung còn yếu, hiệu quả sản
xuất kinh doanh và năng suất lao động thấp, hàng hoá, dịch vụ thiếu sức cạnh tranh.
Số người chưa có việc làm vẫn còn nhiều, nhất là ở khu vực thành thị. Tỷ lệ người
thất nghiệp trên địa bàn tỉnh là 3,94% (năm 2004). Các tệ nạn xã hội như nghiện
hút, tiêm chích, mại dâm có xu hướng gia tăng. Tiềm lực kinh tế của tỉnh tuy dồi
dào nhưng chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển ngành du lịch và dịch vụ chưa tương
xứng với tiềm năng của tỉnh.
Vì vậy đến nay Ninh Bình vẫn còn là một tỉnh nghèo so với nhiều tỉnh thành
khác trong cả nước. Điều đó đặt ra yêu cầu cho lãnh đạo chính quyền các cấp và
nhân dân Ninh Bình cần phải năng động hơn nữa để tìm ra những giải pháp nhằm
từng bước tháo gỡ những khó khăn trên, mà một trong những giải pháp đó chính là
việc đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trên địa bàn toàn tỉnh. Đây chính là
một nút thắt, một khâu chính yếu nhất để vượt qua khó khăn, vươn lên trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
1.2. Lý luận chung về đời sống văn hoá cơ sở và ý nghĩa của việc xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống con người, nhưng là một bộ
phận đặc biệt, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống. C.Mác đã nói “Con người là
tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Như vậy, nếu con người là một tổng thể, một tập
hợp những yếu tố vật chất, tinh thần và những hoạt động của mình để thoả mãn
những nhu cầu vật chất và tinh thần; thì đời sống văn hoá là tổng hợp những yếu tố
hoạt động văn hoá của con người, sự tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo
ra những quan hệ có văn hoá trong cộng đồng người, trực tiếp làm hình thành lối

19


sống của con người trong xã hội ấy. Vì vậy đời sống văn hoá tồn tại như một thành

phần hữu cơ trong đời sống chung của xã hội.
Trong khi đó đơn vị cơ sở là nơi giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; là nơi quần chúng nhân dân lao
động hàng ngày, là địa bàn hội tụ lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, xây dựng nền văn hoá, bồi dưỡng
con người mới, bảo đảm đời sống của nhân dân và tái sản xuất mở rộng. Bởi vậy
việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được coi là một trong những nhiệm vụ cơ
bản và thường xuyên của công cuộc xây dựng nền văn hoá mới và con người Việt
Nam mới. Nó đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng cao của nhân dân. Từ đó nâng
cao mức sống văn hoá tinh thần của con người đi đôi với việc nâng cao mức sống
vật chất.
Cơ sở còn là nơi trực tiếp động viên, giáo dục xã hội và phát triển cá nhân.
Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở nhằm thực hiện nhiệm vụ đưa văn hoá
thâm nhập vào cuộc sống, làm cho văn hoá ngày càng trở thành yếu tố khăng khít
của đời sống xã hội và mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, thành một lực
lượng sản xuất quan trọng. Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở sẽ thực
hiện một phần nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá.
Ngày nay, việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được xác định là một
trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của toàn Đảng và toàn dân. Đồng thời nó
là một bộ phận cấu thành có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần thể
hiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Đơn vị cơ sở
trong việc tổ chức xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được xác định theo tinh thần
NQTƯ 5 (khoá VIII) - Nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc - là nhà máy, công trường, nông
trường, lâm trường, đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ quan, trường
học, bệnh viện, làng, xã, phường, ấp, bản vùng dân cư, gia đình, họ tộc. Đó là
những cộng đồng người có địa bàn sinh sống hoặc lao động, công tác theo một tổ
chức hành chính, kinh tế – xã hội nhất định, có đời sống kinh tế và văn hoá tinh
thần lành mạnh, phong phú; xây dựng được những đơn vị văn minh, trong sạch,


20


vững mạnh. Trong đó thôn (ấp) được coi là địa bàn quan trọng để xây dựng đời
sống văn hoá cơ sở.
Việc coi thôn (ấp) là địa bàn quan trọng để xây dựng đời sống văn hoá cơ sở
bởi vì thôn (ấp) nằm trong cơ cấu truyền thống của xã hội Việt Nam (cơ cấu Nhà Làng – Nước). Từ xưa thôn (ấp) là địa bàn tự quản trong khai thác, sử dụng ruộng
đất, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá
tinh thần của địa phương. Nếu thôn (ấp) được xây dựng tốt sẽ hỗ trợ gia đình trong
việc xây dựng nếp sống, hướng dẫn đời sống đạo đức tinh thần, tạo ra bộ mặt mới ở
nông thôn.
Nếu xây dựng có hiệu quả làng (thôn, ấp) văn hoá, gia đình văn hoá và một
hệ thống văn hoá Nhà nước từ cấp Trung ương đến cấp xã, chúng ta sẽ hình thành
được ba cơ chế điều chỉnh hỗ trợ trong văn hoá:
- Gia đình văn hoá điều chỉnh đời sống văn hoá bằng quan hệ ruột thịt, tình
cảm.
- Làng (ấp) văn hoá điều chỉnh đời sống văn hoá bằng quan hệ dư luận thông
qua những quy ước.
- Hệ thống văn hoá Nhà nước từ Trung ương đến xã điều chỉnh đời sống văn
hoá bằng quan hệ luật pháp.
Tổng hợp cả 3 phương pháp: bằng quan hệ tình cảm, quan hệ dư luận và
quan hệ luật pháp sẽ hình thành một hệ thống điều chỉnh văn hoá hết sức có hiệu
lực, góp phần xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ngày càng tốt đẹp.
Bên cạnh đó, trong xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, quá trình xây dựng đời
sống văn hoá tinh thần phải gắn chặt với xây dựng văn hoá vật chất; gắn hoạt động
văn hoá với thực tiễn sản xuất kinh doanh; làm cho văn hoá thực sự góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Vì những lẽ trên, việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phải có những biểu
hiện sau:
-


Nâng cao trình độ dân trí.

21


-

Có các hoạt động giáo dục văn hoá về nhiều mặt: thông qua hoạt động

của các thư viện, những buổi sinh hoạt ở câu lạc bộ sẽ giáo dục những truyền thống
tốt đẹp, phổ biến kiến thức, trao đổi kinh nghiệm.
-

Có các hoạt động thông tin đại chúng rộng khắp và đều đặn như việc

nghe đài, đọc sách báo, hoạt động của đội thông tin.
-

Có sự chỉ đạo và thực hiện tốt việc xây dựng phong tục mới tốt đẹp,

tạo nên nếp sống mới có đạo lý và có văn hoá.
-

Có phong trào hoạt động văn hoá nghệ thuật theo hai chiều, bao gồm

việc truyền bá những giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc và nhân loại và phát động,
tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào sáng tạo văn hoá.
-


Có những biểu hiện về các mặt thể dục, thể thao, sinh đẻ có kế hoạch,

bảo vệ bà mẹ và trẻ em, nuôi con khoẻ dạy con ngoan và các hoạt động xã hội khác.
Chính sự phong phú của đời sống văn hoá tinh thần, phong tục tập quán của
cơ sở đặt ra yêu cầu phải xây dựng đời sống văn hoá cơ sở như thế nào? Đưa tới
hiệu quả gì? Có ích thực sự cho nhân dân và tiến bộ xã hội không? Nói cách khác là
xây dựng đời sống văn hoá cơ sở có ý nghĩa như thế nào?
Trước hết, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là bước đi ban đầu nhưng hết
sức quan trọng của việc xây dựng nền văn hoá mới và con người Việt Nam mới.
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở nhằm giáo dục xã hội chủ nghĩa đối với người
lao động, từng bước nâng cao trình độ văn hoá và trình độ dân trí cho họ. Bên cạnh
đó, đây còn là kênh truyền bá trực tiếp đến từng người lao động những kiến thức
giúp họ có khả năng tiếp cận với những thành tựu văn hoá và tích cực tham gia vào
các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở sẽ trực tiếp góp phần sáng tạo ra lực lượng sản xuất mới ở cơ
sở.
Đồng thời, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở còn là bước đầu xây dựng ở
khắp nơi một đời sống lành mạnh, hạnh phúc, trong đó mọi người quan hệ với nhau
theo một đạo lý: “Mọi người vì mỗi người, mỗi người vì mọi người”, bước đầu cải

22


tạo và xây dựng một môi trường văn hoá, hướng con người trở thành chủ thể tự giác
của đời sống văn hoá, từ đó trở thành cá nhân phát triển toàn diện, hài hoà.
Việc xây dựng tốt đời sống văn hoá ở cơ sở sẽ tạo điều kiện căn bản cho
nhân dân tự mình gạt bỏ được những trở ngại tinh thần cản trở sự tiến bộ của bản
thân và của xã hội. Chống mê tín, dị đoan không thể chỉ dùng những biện pháp hành
chính, mà chủ yếu bằng cách nâng cao tri thức khoa học, tạo tâm lý ổn định, tin
tưởng vào hiện thực chứ không cầu xin may rủi. Xoá bỏ đồi phong bại tục một cách

triệt để khi tạo ra được sự đổi mới trong thói quen và hành vi, trong cách ứng xử
của mọi người. Như vậy, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở đồng nghĩa với việc
xoá bỏ nguồn gốc sản sinh ra những hủ tục, tập quán xấu và lạc hậu, góp phần tạo
nên diện mạo mới cho cơ sở.
Nói cách khác việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở sẽ tác động trực tiếp
và ngay lập tức tới mọi tầng lớp nhân dân lao động, tới đời sống của mỗi người dân
và mang lại cho họ những yếu tố hạnh phúc của đời sống. Đồng thời nó tạo ra tính
tích cực, chủ động của nhân dân để thúc đẩy, hình thành và phát triển ý thức làm
chủ tập thể về văn hoá của nhân dân.
Bên cạnh đó, việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở sẽ góp phần làm cho
văn hoá thấm sâu vào cuộc sống, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội
(nhất là ở nông thôn) theo hướng Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá (CNH, HĐH),
hình thành một đời sống chính trị tinh thần bền vững; tạo ra một bộ mặt xã hội ngày
càng văn minh, trật tự, ổn định; môi trường văn hoá tinh thần ngày càng lành mạnh
phong phú, nâng cao chất lượng cuộc sống ở mỗi cơ sở. Và đặc biệt, nó còn nâng
cao sức mạnh, khả năng đóng góp của người dân, thúc đẩy hình thành phẩm chất,
năng lực mới của người lao động cho quá trình CNH, HĐH.
1.3. Vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của tỉnh Ninh Bình trước
năm 1998.
Trong thời kỳ bao cấp kéo dài, các địa phương trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
đã lấy cấp xã làm đơn vị để xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Chương trình đó
được áp dụng trên 6 mặt hoạt động bao gồm: thông tin, cổ động, văn nghệ quần

23


×