Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.15 KB, 3 trang )

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh nghiệp

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá
hoạt động kinh doanh hàng
thực phẩm ở doanh nghiệp
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh
nghiệp
Kết quả
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch vụ)
mà còn phải bán được các kết quả đó và quá trình bán hàng với quá trình tạo ra kết quả
luôn không trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể sản xuất được
rất nhiều sản phẩm song lại tiêu thụ được rất ít, như thế không thể nói doanh nghiệp đã
đạt kết quả (mục tiêu). Nếu xét trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của đại lượng sản
xuất kinh doanh không phải là đại lượng được đánh giá dễ dàng vì ngoài những nhân tố
ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường.
Chỉ tiêu doanh thu
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng
dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng
bán, hàng bán bị trả lại, thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp
các hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước và các nguồn thu khác. Doanh thu
thực hiện trong năm từ hoạt động bán hàng và dịch vụ được xác định bằng cách nhân
giá bán với số lượng hàng hoá, khối lượng dịch vụ.
DT = ∑n1 Pi.Qi

DT: tổng doanh thu từ hoạt động bán hàng và dịch vụ
Pi: giá cả một đơn vị hàng hoá hay dịch vụ thứ i
1/3



Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh nghiệp

Qi: Khối lượng hàng hoá hay dịch vụ thứ i bán ra trong kỳ
n: Loại hàng hoá hay dịch vụ
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng
dịch vụ sau khi trừ đi cac khoản giảm trừ gồm các khoản phí thu thêm ngoài giá bán
(nếu có), trợ giá, phụ thu theo quy đinh của Nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối
với hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ, giá trị các sản phẩm đem biếu, tặng, trao đổi
hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp.
Còn doanh thu từ các hoạt động khác bao gồm các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư
tài chính và các hoạt động bất thường. Thu nhập từ hoạt động tài chính gồm các khoản
như: thu từ hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay,
tiền lãi trả chậm của việc bán hàng trả góp, tiền hỗ trợ lãi suất của nhà nước trong kinh
doanh nếu, thu từ hoạt động mua bán trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu…Thu từ hoạt động
bất thường gồm những khoản thu như: thu từ bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa, bán
công cụ, dụng cụ đã phân bổ hết giá trị, bị hư hỏng hoặc không cần sử dụng, các khoản
phải trả nhưng không trả được từ nguyên nhân chủ nợ; thu từ chuyển nhượng, thanh lý
tài sản, nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá
hàng hoá tồn kho; thu do sử dụng hoặc chuyển quyền sở hữu trí tuệ, thu về tiền phạt do
vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản thuế phải nộp được Nhà nước giảm.
Chi phí kinh doanh
Chi phí của doanh nghiệp bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí cho hoạt
động khác. Chi phí hoạt động kinh doanh gồm các chi phí có liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên nhiên vật liệu, khấu hao tài
sản cố định, tiền lương và các khoản chi phí có tính chất lương, các khoản trích nộp theo
quy định của Nhà nước như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí dịch vụ mua ngoài,
chi phí bằng tiền…
Chi phí từ hoạt động khác gồm chi phí hoạt động tài chính và chi phí cho hoạt động bất
thường. Chi cho hoạt động tài chính là các khoản đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp

nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp như chi cho mua trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, chi phí
cho thuê tài sản… Chi phí bất thường là các khoản chi không thường xuyên như chi phí
nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, giá trị tài sản tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ
tiền đền bù của người phạm lỗi và tổ chức bảo hiểm, chi phí tiền phạt do vi phạm hợp
đồng kinh tế.
Trong đánh giá kết quả của sự hạ thấp chi phí người ta có thể sử dụng chỉ tiêu chi phí
trung bình. Chi phí này được xác định trên cơ sở của tổng chi phí với số lượng hàng hoá,
dịch vụ bán ra. Thường thì khối lượng hàng hoá dịch vụ bán ra càng nhiều thì chi phí

2/3


Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh hàng thực phẩm ở doanh nghiệp

trung bình cho một đơn vị sản phẩm càng ít đi. Chi phí lưu thông được kế hoạch hoá
theo 4 chỉ tiêu cụ thể: tổng chi phí lưu thông, tỷ lệ phí lưu thông, mức giảm phí nhịp độ
giảm phí.
Tình hình hoàn thành kế hoạch sản xuất mặt hàng
Để đánh giá kết quả tình hình hoàn thành kế hoạch sản xuất mặt hàng trong kỳ của doanh
nghiệp, có thể dùng thước đo hiện vật. So sánh số lượng thực tế với số lượng kế hoạch
của từng loại sản phẩm chủ yếu, nếu thấy các loại sản phẩm đều đạt hay vượt kế hoạch
sản xuất sẽ kết luận doanh nghiệp đó hoàn thành kế hoạch mặt hàng. do giá trị sử dụng
các loại sản phẩm khác nhau, nên khi tính tỷ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất mặt hàng
không lấy số vượt kế hoạch sản xuất của loại sản phẩm này bù cho số hụt kế hoạch của
loại sản phẩm khác

3/3




×