Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tinht nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 101 trang )

LUẬN VĂN:

Chính sách đối với đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị ở cơ sở
tỉnh Nghệ An


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi chính đảng trong một quốc gia dân tộc muốn xác lập và duy trì được quyền
lực chính trị thì phải có những con người chính trị (đội ngũ cán bộ) được tổ chức chặt chẽ
theo những nguyên tắc và có phương thức hoạt động nhất định. Đội ngũ cán bộ chính là
những người xác lập vị trí chính trị của chính đảng, xây dựng và triển khai những chủ
trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Do đó, công tác cán
bộ nói chung và chính sách cán bộ nói riêng - yếu tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới
sự quyết tâm, tính năng động và tích cực của chính đội ngũ cán bộ - có vị trí quyết định
trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của cách mạng, của Đảng, Nhà nước và dân tộc.
Trong hệ thống cán bộ, thì đội ngũ cán bộ cơ sở có vị trí và vai trò đặc thù quan
trọng. Họ là những người gần dân nhất, trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào cuộc sống, trực tiếp phục vụ nhân dân. Bản chất của Đảng, của chế độ
"của dân, do dân, vì dân" cũng được thể hiện trực tiếp qua đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Do đó
chính sách của Đảng và Nhà nước ta có đến được với dân, có tạo được sức mạnh từ đông
đảo quần chúng nhân dân hay có duy trì được sự ổn định vững vàng để đổi mới phát triển
từ mọi địa phương cơ sở hay không? phụ thuộc trực tiếp vào sự vững mạnh của đội ngũ
cán bộ này.
Đất nước ta đã bước vào công cuộc đổi mới được gần 20 năm qua. Chúng ta đã
thu được những thành quả vô cùng quan trọng trên mọi mặt, đời sống của nhân dân
không ngừng được nâng cao, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm, vị thế của đất
nước ta ngày càng được khẳng định vững chắc. Một trong những nguyên nhân sâu xa tạo
nên những thành quả đó chính là việc Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác cán
bộ, đã có những đổi mới mạnh mẽ chính sách đối với cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ


trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Chúng ta đã bước đầu xây dựng được hệ thống
chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở làm căn cứ (cơ sở) cho các địa phương trên toàn
quốc triển khai thực hiện một cách đồng bộ, bài bản và tương đối sát hợp. Việc ra đời
Nghị quyết TW 5 khoá IX và Nghị định 121/2003/NĐ - CP là minh chứng cho điều đó.
Thực hiện chính sách cán bộ nói chung và chính sách cán bộ trong hệ thống chính
trị cơ sở nói riêng, tỉnh Nghệ An đã có nhiều cố gắng nhằm thực hiện tốt nhất, với hiệu


quả cao nhất những quy định của Đảng và Nhà nước. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến cấp
xã của Nghệ An đã triển khai sâu rộng và thực hiện nghiêm chỉnh những chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Bên cạnh đó,
Nghệ An cũng đã có nhiều chính sách cụ thể đối với đội ngũ cán bộ cơ sở nhằm động
viên sự cố gắng nhằm mục đích làm sao để đội ngũ cán bộ yên tâm công tác phục vụ
nhân dân, góp phần làm cho chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh
Nghệ An không ngừng được nâng cao, ổn định chính trị được giữ vững, kinh tế - xã hội
có những bước phát triển vững chắc, đời sống nhân dân ngày một được nâng cao, sự
đồng thuận xã hội trong nhân dân được củng cố.
Tuy nhiên, không phải mọi việc đã xong xuôi. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa chính sách cán bộ nói chung
và chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Trong số
những bất hợp lý mới nảy sinh khi thực hiện chính sách đối với cán bộ cơ sở trong cả nước
nói chung và ở Nghệ An nói riêng cho thấy còn có nhiều điểm cần phải được tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện.
Mặt khác, cũng có thể thấy lĩnh vực chính sách cán bộ, công chức trong hệ thống
chính trị cơ sở ở nước ta cũng chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo mang tính tổng thể
và toàn diện, đặc biệt dưới góc độ của chu trình hoạch định chính sách. Do đó, khi triển khai
vào thực tiễn, chính sách cán bộ nói chung và chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị cơ
sở bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế.
Điều này đã dược thể hiện trong chính quá trình xây dựng và triển khai thực hiện

chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An. Đó chính
là lý do để tác giả chọn “Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ
sở tỉnh Nghệ An” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những nội dung liên quan đến vấn đề chính sách cán bộ nói chung và chính sách đối
với cán bộ ở cơ sở đã được một số nhà nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau: xây dựng
Đảng, luật học, xã hội học... Các công trình nghiên cứu các tác giả đã được công bố dưới


dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ và các bài đăng
tải trên các tạp chí sách, báo...
Chẳng hạn như: GS-TS Hoàng Chí Bảo (chủ nhiệm) “ Nghiên cứu một số vấn đề
nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển ở nước ta hiện nay “ (đề tài độc lập cấp nhà nước - Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, kỷ yếu khoa học tập I, II, III); PGS-TS Nguyễn Đăng Thành (chủ nhiệm), “
Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam “,
(đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Viện Khoa học chính
trị, 2002); PGS-TS Nguyễn Phú Trọng (chủ biên): “ Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; PGS-TS Bùi Đình Phong: “ Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ “, Nxb Lao động, Hà Nội 2002; tác giả Nguyễn
Đặng “Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”. Bộ lao
động thương binh và xã hội, Nxb Lao động Thương binh Xã hội, Hà Nội 2004; Phan
Công Khâm: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông
Cửu Long hiện nay” (luận án tiến sỹ 2000); Mai Đức Ngọc: “Nâng cao năng lực cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng bắc bộ nước ta hiện nay” (luận văn thạc sỹ
2002)... Ngoài ra còn nhiều công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu đăng tải trên các
sách, báo, tạp chí...
Nhìn chung, trên những bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ
bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm thực tiễn

nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; chu trình hoạch định chính
sách và những quy định cụ thể về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn... Đó là nguồn tư liệu quý giá giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài
của mình.
Việc nghiên cứu về vấn đề chính sách đối với đội ngũ cán bộ hoạt động trong hệ
thống chính trị ở cơ sở dưới góc độ chính trị học, đặc biệt là đối với một tỉnh có nhiều
đặc thù như ở Nghệ An vẫn chưa có tác giả nào thực hiện. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên


cứu vấn đề này với mong muốn góp phần vào luận giải những vấn đề mà lý luận và thực
tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An, luận văn mong muốn góp phần tạo thêm cơ sở lý luận về
thực tiễn cho việc hoàn thiện chính sách đối với cán bộ cơ sở trong tỉnh và hơn nữa là
hoàn thiện chính sách đối với cán bộ cơ sở trong cả nước nói chung.
Nhiệm vụ: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của chính sách cán bộ trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Khảo sát đánh giá thực trạng việc xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ cơ sở
tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống
chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Chính sách cán bộ nói chung và chính sách cán bộ cơ sở có phạm vi nghiên cứu
rất rộng, bao gồm rất nhiều khâu trong tổng thể chu trình chính sách. Do vậy, luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề từ thực trạng của quá trình triển khai thực
hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn (cấp
xã) trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về cán bộ, chính sách cán bộ, vai trò của chính sách cán
bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là các phương pháp khái quát hoá, kết hợp với
các phương pháp khảo sát, điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh... để phân tích những vấn đề
đặt ra.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
ý nghĩa lý luận:
- Góp phần hệ thống hoá những luận điểm cơ bản, lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cán bộ, chính sách cán bộ, chính sách đối
với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở.


- Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vai trò của chính sách đối với nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và dần hoàn thiện chính sách cũng
như việc thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
- Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp các cấp lãnh đạo
của tỉnh Nghệ An trong xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ cơ sở và công tác tổ
chức cán bộ nói chung.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy ở trường chính trị tỉnh và các trung tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở
Một số vấn đề lý luận cơ bản


1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm chính sách
Chính sách là khái niệm thường được đề cập trong khoa học hành chính, nhưng
thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị.
Đã có nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về chính sách và để lại
nhiều cuốn sách và bài báo trên các tạp chí về vấn đề này. Trong đó có nhiều xu hướng
và cách tiếp cận khác nhau, do đó đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách.
Theo các nhà nghiên cứu nước ngoài, ta thấy cách định nghĩa chính sách từ góc
độ là sản phẩm của hoạt động có mục đích của nhà nước.
Ví dụ:- Thomas Dye đặc trưng hoá: "Chính sách công là tất cả những gì nhà nước
chọn làm hoặc không làm" [ 81, tr.1].
Cách thứ 2 - Định nghĩa chính sách như là quá trình của những bước giải quết
những vấn đề công cộng.


- John Deway coi chính sách là một quá trình giải quyết những vấn đề công cộng
gồm 5 giai đoạn! Cảm nhận tình huống vấn đề, xác định vấn đề, hình thành các giải
pháp, lựa chọn một giải pháp và thực thi [53, tr.177].
- Theo quan điểm lý thuyết hệ thống, G. Brewer và P.de Leon định nghĩa:" Chính
sách công là những quyết định quan trọng nhất của xã hội, là những hành động có tính
chức năng dựa trên sự đồng thuận hoặc phê chuẩn của hệ thống” [19, tr.9].
- Theo hướng chú trọng tới mục đích, bản chất của chính sách công, Deborah Store
viết:
Cái mà tôi cho là bản chất của quá trình hoạch định chính sách trong các
môi trường chính trị: Đó chính là các cuộc đấu tranh tư tưởng, hoạch định
chính sách là một cuộc đấu tranh không ngừng trong việc đưa ra các chuẩn
mực cho việc phân loại, giới hạn và xác định các giá trị định hướng hành vi
của con người [20, tr.7].
Căn cứ từ hiện thực chính sách ở nước ta, từ góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà
nghiên cứu trong nước đã đưa ra một số định nghĩa về " Chính sách":

- Từ cách phân biệt "chính sách" theo nghĩa rộng và "chính sách" theo “nghĩa
hẹp”. Trong bài: " những vấn đề đặt ra từ thực tiễn xây dựng chính sách ở nước ta", Tiến
sỹ Nguyễn Hữu Đổng và Tiến sỹ Lê Minh Quân định nghĩa: " Chính sách với nghĩa rộng
(nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể lãnh đạo, quản
lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội) tác động lên đối tượng quản lý nhằm
đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định". Còn "Chính sách"
theo nghĩa hẹp, là một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối, nhiệm vụ trong
một thời gian nhất định" [82, tr.134-135].
- Định nghĩa về chính sách của tiến sĩ Chu Thành phân biệt cụ thể hơn " chính
sách" theo nghĩa bao quát "chính sách lĩnh vực" và "chính sách theo nghĩa hẹp":
Chính sách theo nghĩa bao quát là đường lối, chủ trương quyết định chính
trị để giải quyết công việc quốc gia của một chính đảng, của nhà nước. Chính
sách cũng là chủ trương, quyết định của Đảng, Nhà nước để giải quyết một
lĩnh vực nhất định của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Theo
nghĩa hẹp, chính sách là sự quy định chế độ, thể chế hoá các mối quan hệ lợi
ích, các lợi ích nhóm, bộ phận trong xã hội [82, tr.190].


- Trong bài " mấy khía cạnh lý luận về chính sách", Tiến sỹ Vũ Hoàng Công đưa
ra định nghĩa: “Chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý có tính nhất quán, thể
hiện thái độ, quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động
nào đó trong các lĩnh vực nào đó của một số đối tượng nào đó của xã hội ” [82, tr.200].
- Trong xác định nội hàm của khái niệm chính sách, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Thành
với cách tiếp cận xác lập định nghĩa là ngoài việc xác định những hình thức thể hiện của
chính sách, điều quan trọng là phải chỉ rõ những đặc trưng thực chất của chính sách. Giải
quyết được những khác biệt nhất định các hình thức của chính sách, đó chính là trả lời
câu hỏi: Ai là chủ thể quyết định chính sách ở nước ta, chỉ có Nhà nước ? hay còn Đảng?
hoặc còn là các tổ chức chính trị - xã hội?. Phân tích rõ một đặc trưng cơ bản, thực chất
của chính sách là tập hợp các phương án giải quyết các mâu thuẫn, các xung đột về giá trị
(lợi ích) trong một cộng đồng. Để từ đó đưa ra định nghĩa: "Chính sách là tập hợp những

văn bản theo một hướng nhất định được quyết định bởi chủ thể cầm quyền nhằm quy định
quá trình hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm
chủ thể - đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giá trị" [82,
tr.12].
Từ các công trình của các tác giả nghiên cứu về khoa học chính sách, đã cho chúng
ta thấy được sự thống nhất ở một số điểm cơ bản sau:
- Định nghĩa được đề cập tới đồng nghĩa với “chính sách công” (phân biệt với "
chính sách tư"), chính sách quốc gia tức là những chính sách có ảnh hưởng, tác động đến
toàn bộ xã hội.
- Thực chất chính sách là tập hợp các phương án giải quyết các mâu thuẫn, các
xung đột về giá trị, có thể hiểu nó như là lời giải của bài toán xung đột các giá trị xã hội
trong một cộng đồng, có mục đích cuối cùng là tạo ra một trật tự quan hệ lợi ích mà cộng
đồng mong đợi thông qua ý chí của chủ thể cầm quyền quyết định
- Do chủ thể quyền lực đề ra (Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính
trị).
- Bao gồm quyết định, các văn bản có liên quan lẫn nhau.
- Ngoài những giải pháp mang tính chất chủ trương đường lối vĩ mô thì các văn
bản quyết định này gồm cả những hoạt động thực thi trên thực tế đời sống kinh tế - xã
hội.


- Tập trung giải quyết một lĩnh vực, một vấn đề đang đặt ra trong đời sống chính
trị - xã hội.
- Hướng vào những mục tiêu cụ thể đã xác định bởi một hệ thống tiêu chí.
Có thể thống nhất đưa ra khái niệm về chính sách ở nước ta như sau: Chính sách là
biểu hiện tập trung nhất mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, là tập hợp các văn bản có
tính quy phạmpháp luật của toàn bộ hệ thống chính trị nhằm quy định phương thức hoạt
động của các đối tượng để giải quyết một lĩnh vực nào đó trong một thời gian nhất định
của đời sống kinh tế - chính trị -xã hội đất nước. Là sự quy định chế độ, thể chế hoá các
quan hệ lợi ích, các lợi ích nhóm, bộ phận trong xã hội.

1.1.2. Chính sách đối với cán bộ
Cán bộ là tên gọi rất phổ biến trong xã hội ta. Không chỉ phản ánh chức năng,
nhiệm vụ, đặc trưng của tầng lớp này trong xã hội mà còn thể hiện phẩm chất, những nét
đẹp và tính ưu việt của xã hội ta, đội ngũ cán bộ là hình ảnh tập trung, sinh động nhất của
nhân cách con người Việt Nam. Chính vì thế ngay từ khi Đảng mới ra đời và nhất là từ
ngày thành lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (năm 1945), Đảng và Bác Hồ đã đặc
biệt chú ý tới việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng đòi hỏi cấp bách của
cách mạng. Chính vì vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ với tính chất là “ Gốc của mọi
công việc” cho nên chính sách đối với đội ngũ cán bộ trở thành vấn đề mang tính chiến
lược của sự nghiệp cách mạng. Nó quy định và chi phối khả năng thành công hay thất bại
của những chính sách của Đảng và Nhà nước. Bởi vì xét đến cùng mọi chủ trương, chính
sách đều phải thông qua hoạt động tác nghiệp của đội ngũ này.
Chúng ta đều đã được tiếp cận phạm trù “ Cán bộ”, mặc dù cách dùng từ, cách
hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản có thể quan
niệm một cách chung nhất, đó là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương
vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các
quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng phát triển của
tổ chức, đơn vị.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề chính sách, cũng như vai trò đặc
biệt quan trọng của đội ngũ cán bộ, chúng ta có thể xác lập khái niệm: Chính sách cán
bộ là tổng thể các quan điểm, các nguyên tắc và các quy định thể hiện trong các văn


bản của Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm điều chỉnh
hoạt động, những quyền lợi và nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ, phù hợp với hoàn cảnh
khách quan và những mục tiêu của Đảng, Nhà nước trong mỗi thời kỳ lịch sử.
Hiện nay chính sách cán bộ của Đảng ta bao gồm:
- Chính sách về tiêu chuẩn, tuyển dụng cán bộ.
- Chính sách về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Chính sách bố trí, sử dụng, đề bạt cán bộ.

- Chính sách luân chuyển cán bộ.
- Chính sách đãi ngộ cán bộ (tiền lương, phụ cấp, chế độ hưu, BHXH...).
- Chính sách đảm bảo điều kiện làm việc của cán bộ. v v...
1.1.3. Chính sách đối với cán bộ cơ sở
Trong rất nhiều nội dung có liên quan đến chính sách cán bộ thì chính sách đối với
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở cũng là một nội dung quan trọng.
Cán bộ cơ sở có đặc điểm:
- Hầu hết là dân bản địa, cư trú sinh sống tại địa phương. Đa số cán bộ đều có
quan hệ dòng tộc và quan hệ gắn bó với dân làng, dân phố về mọi mặt kinh tế, văn hoá,
tình cảm với đời sống sinh hoạt.
- Trong bản thân con người cán bộ cơ sở đều chứa đựng các yếu tố: Người dân,
người cùng làng, cùng phố, người đại diện cộng đồng, người đại diện Nhà nước, vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột nhau chi phối các hoạt động của họ và nhất là trong
việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân công đồng - nhà nước.
- Phần lớn đội ngũ cán bộ cơ sở trưởng thành từ những thanh niên “ không thoát
ly” qua các phong trào ở địa phương, nguồn khác là bộ đội sau khi hoàn thành nghĩa vụ
quân sự, sỹ quan quân đội xuất ngũ, một số cán bộ hưu trí, nghỉ chế độ và một số ít tăng
cường từ trên về.
- Do nhiều nguyên nhân, đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo và thường xuyên
biến động, không ổn định, tuổi đời bình quân cao.
Đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò quyết định đến tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị và quá trình phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở. Thực tế cho thấy, địa phương nào
có đội ngũ cán bộ tốt thì ở đó có phong trào và kinh tế - xã hội phát triển tốt.


Cán bộ cơ sở vừa là người đại diện cho Đảng và Nhà nước trong việc quản lý, điều
hành mọi mặt: Chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh ở cơ sở; là người trực
tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, thực thi quyền hành
pháp, cũng như tiến hành tổ chức, triển khai các chương trình kinh tế xã hội ở địa
phương. Mặt khác cán bộ cơ sở cũng là người thường xuyên chăm lo đến mọi mặt trong

đời sống, cả vật chất và tinh thần tới mọi người dân; là người đại diện cho ý chí, quyền
lợi của nhân dân địa phương, luôn đấu tranh và bảo vệ mọi quyền lợi chính đáng của
người dân khi bị vi phạm. Như Bác Hồ từng nói:“Cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Cán bộ cơ sở là đội ngũ thể hiện cụ thể và trực
tiếp nhất chức năng, yêu cầu bản chất này.
Thực tiễn cho thấy rằng chất lượng của đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng đến quá trình
phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. ở xã nào, phường nào có đội ngũ cán bộ tốt thì ở
đó các “ phong trào” đều khá, kinh tế, xã hội phát triển, tình hình an ninh chính trị ổn
định, trật tự an toàn xã hội... đảm bảo. Thực tế đó, ở nước ta đã thành ngạn ngữ: “ Cán
bộ nào thì phong trào đó”.
Lịch sử phát triển của làng xã Việt Nam từ trước đến nay cho thấy, để quản lý làng
xã, chính quyền Nhà nước Trung ương bao giờ cũng nắm rất chắc các chức sắc chủ chốt
trong xã như: Chánh lệnh trưởng, quản giáp (thời họ Khúc), xã chính (thời Trần), xã
trưởng (thời Lê), lý trưởng (thời Nguyễn), xã trưởng, lý trưởng (thời Pháp thuộc) và
thông qua các chức sắc chủ chốt này để thực hiện quyền quản lý, cai trị của chính quyền
cấp trên đối với cấp xã. Chính quyền cấp trên có nắm và quản lý, vươn tới được cơ sở
hay không phụ thuộc vào việc có nắm được các chức sắc chủ chốt của xã hay không.
Cũng chính vì vậy chính quyền cấp trên thường rất quan tâm đến đội ngũ cán bộ xã, đặc
biệt là các chức danh chủ chốt trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ, thưởng,
phạt.
Cán bộ cơ sở là những người sống và hoạt động thường xuyên, liên hệ mật thiết và
trực tiếp với nhân dân, cán bộ tốt hay không tốt đều có tác động trực tiếp đến phong trào.
Do vậy người cán bộ một mặt phải được trang bị đầy đủ kiến thức, trình độ và năng lực
chuyên môn để chủ động, vững vàng trong quản lý điều hành, mặt khác người cán bộ cơ
sở cần có đủ các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức có lối sống trong sạch, lành


mạnh, trung thành với mục tiểu lý tưởng của Đảng, biết hy sinh, gương mẫu để lôi cuốn
quần chúng nhân dân tích cực tham gia lao động sản xuất thực hiện tốt các chương trình,
phong trào phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Những năm đổi mới vừa qua cũng đã chỉ ra rằng sự thành công hay thất bại của
Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở phụ thuộc rất lớn vào đội
ngũ cán bộ cơ sở.“Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế xã hội bắt nguồn
từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”
[21]. Song, toàn bộ hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền, các đoàn thể phối hợp thì
đội ngũ cán bộ ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng. Tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ
này quyết định khả năng hiện thực hoá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước.
Xác định được vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ cán bộ ở cơ sở, chúng ta đang
hướng đến và nỗ lực xây dựng một hệ thống chính sách phù hợp đối với đối tượng này. Từ sự
phân tích trên, chúng ta có thể hiểu chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở như sau: Chính
sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở là một bộ phận của chính sách cán bộ nói chung, thể hiện
trong các văn bản của Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm điều
chỉnh quá trình hoạt động, quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ cơ sở
phù hợp với các tính chất, đặc điểm của đời sống kinh tế -xã hội ở cơ sở.
Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở là một chính sách có
tầm chiến lược quốc gia, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trực tiếp tác động đến sự ổn định, phát
triển về mọi mặt ở cơ sở của Việt Nam hiện nay.
1.2. Vai trò của chính sách cán bộ trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị ở cơ sở
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng
đội ngũ cán bộ cơ sở
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam trong suốt quá trình cách mạng
đã rất coi trọng vấn đề cán bộ. Người cho rằng “cán bộ là cái gốc của mọi việc, vì họ là
người đem chính sách của Đảng và Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng ” [66, tr.269], “khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại


của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra.

Nếu ba điểm ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [66, tr.154]. Bước vào thời kỳ
đổi mới đất nước, thấy rõ vị trí, vai trò của cán bộ, Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm là
phải đổi mới tổ chức, bộ máy và cán bộ. Văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng
định: “ Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải
nắm vững để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng” [30, tr.132].
Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng
ta chỉ rõ: “Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi Đảng ta phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, chú trọng đội ngũ chủ chốt các cấp, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận. Sớm xây dựng cho
được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới”, [26, tr.51]. Nghị quyết TW 3 (khoá VIII)
khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”
[22, tr.66]. Đối với cán bộ cấp cơ sở, Đảng ta nhận định đó là những người trực tiếp tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nghị
quyết TW 5 (khoá IX) chỉ rõ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận
tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ
hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ
chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở [21, tr.167-168].
Đội ngũ cán bộ cơ sở là những người làm việc trong tổ chức Đảng, bộ máy chính
quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng của HTCTCS. Trách nhiệm của đội ngũ cán bộ
này là thay mặt Đảng và Nhà nước trực tiếp lãnh đạo, quản lý xã hội đến tận người dân. Họ
trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực của công dân,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ở cơ sở, động viên quần chúng làm
trọn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Họ là đầu mối liên hệ giữa Đảng với dân, là hiện thân
niềm tin của dân đối với Đảng. Chính thông qua đội ngũ cán bộ này mà ý Đảng lòng dân
được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước ở cơ sở bám rễ, ăn sâu trong quần chúng, tạo
nên quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp xây dựng và củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và chế độ... Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở ngang tầm



nhiệm vụ mới đồng thời củng cố và kiện toàn HTCTCS là nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoan cách mạng.
1.2.2. Hệ thống các văn bản thể hiện chính sách của Nhà nước ta đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở
Từ đầu những năm 1980, các văn bản pháp quy do Chính phủ ban hành và được
áp dụng thực hiện thống nhất trong cả nước. Trải qua 25 năm, đến nay chính sách đối với
hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ cơ sở đã được điều chỉnh, bổ sung và thay đổi;
có thể phân thành 4 giai đoạn cơ bản được đánh dấu bởi các nghị định của Chính phủ. Đó
là:
- Giai đoạn 1981 - 1992:
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 111 - HĐBT ngày
13/10/1981 “ về việc sửa đổi, bổ sung một số chính sách, chế độ đối với cán bộ xã,
phường”. Ra đời trong điều kiện sau khi đất nước thống nhất, chúng ta đang tiến hành
công cuộc tái thiết sau chiến tranh và tiến lên chủ nghĩa xã hội với cơ chế kinh tế tập
trung kế hoạch hoá, những quy định của Quyết định này phù hợp với tình hình thực tiễn
lúc đó. Các chức danh trong bộ máy hành chính chỉ có chức năng quản lý hành chính,
còn trách nhiệm quản lý, điều hành các lĩnh vực kinh tế, xã hội giao cho các HTX, phù
hợp với khối lượng công việc, chế độ phụ cấp sinh hoạt phí cho cán bộ bình quân, đồng
đều theo chế độ cấp thóc và tiêu chuẩn mua hàng. Cán bộ có đủ 15 năm công tác liên tục
khi nghỉ việc đều có chế độ bảo hiểm, do đó cán bộ yên tâm công tác, việc điều động,
thuyên chuyển không gặp khó khăn.
Từ cuối năm 1986, Đảng và Nhà nước thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế, xóa bỏ
cơ chế kinh tế tập trung bao cấp, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường. Năm 1989, nông dân được giao quyền sử dụng đất, HTX giao lại chức năng
quản lý kinh tế - xã hội cho UBND. Trước những yêu cầu thực tiễn mới đặt ra, thì những quy
định của Quyết định 111 - HĐBT tỏ ra bất cập, cần có một chính sách mới đối với đội ngũ
cán bộ cơ sở.
- Giai đọan 1993 - 1997:
Chính phủ ban hành Nghị định số 46-CP ngày 26/3/1993 “ về chế độ sinh họat phí

đối với cán bộ Đảng, chính quyền và kinh phí hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở xã,
phường, thị trấn”.


Nghị định này có nhiều ưu điểm, góp phần tạo động lực cho sự phát triển của đời
sống kinh tế - xã hội. Trong đó phải kể đến việc áp dụng chế độ kiêm nhiệm, giao trách
nhiệm cụ thể cho cán bộ, thực hiện tinh giảm bộ máy, giảm kinh phí hoạt động của các
đoàn thể... Do vậy quỹ ngân sách hoạt động của cơ sở tăng lên, tạo điều kiện thúc đẩy các
phong trào địa phương phát triển. Nhưng khi công cuộc đổi mới bắt đầu đi vào chiều sâu,
cơ chế thị trường phát triển mạnh mẽ, nảy sinh nhiều quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích mới
đan xen, phức tạp hơn. Khối lượng công việc ngày càng nhiều đã làm cho cán bộ cơ sở
không thể đảm đương hết. Cán bộ đủ tiêu chuẩn khi nghỉ công tác chỉ được hưởng chế độ
bảo hiểm một lần, không có chế độ hưu trí... dẫn đến làm cho cán bộ không yên tâm công
tác, vì họ không nhìn thấy quyền lợi, tương lai lâu dài. Trong thực tế đã xuất hiện nhiều
hiện tượng cán bộ “ sống gấp “, tranh thủ, trục lợi khi đương chức, đương quyền, làm
phát sinh nhiều tiêu cực. Thực trạng cán bộ xa dân, công việc của dân bị dồn ứa vẫn chưa
được giải quyết, còn bộ máy chính quyền nảy sinh nhiều tiêu cực, trì trệ làm cho dân bức
xúc, bất bình. Ngày 26/7/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50 - CP về chế độ
sinh hoạt phí đối với các bộ xã, phường, thị trấn. Đây thực chất chỉ là Nghị định bổ
sung thêm cho Nghị định 46 - CP, nhằm điều chỉnh mức phụ cấp sinh hoạt phí đối với
cán bộ cơ sở cho phù hợp với mặt bằng thu nhập chung lúc đó.
- Giai đoạn 1998 - 2002:
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/1998 NĐ/CP ngày 23/01/1998 về: “Sửa
đổi, bổ sung Nghị định 50 - CP ngày 26/07/1998 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí
đối với cán bộ xã, phường, thị trấn”.
Ngày 19/5/1998, Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (Nay là Bộ Nội vụ) và Bộ Tài chính
ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Nghị định 09 - CP.
Quốc hội ban hành Pháp lệnh dân quân tự vệ, quy định chức danh xã đội phó. Bộ
Công an ban hành Thông tư số 40 bổ sung chức danh Phó công an xã và công an viên xã.
Nghị định số 09 - CP quy định tăng số chức danh trong bộ máy (từ 21 - 25), có 4

chức danh chuyên môn phải qua đào tạo cơ bản, quy định cán bộ công tác đủ 15 năm và
có 5 năm hưởng sinh họat phí thì sau khi nghỉ công tác được hưởng bảo hiểm, nếu chưa
đủ tuổi quy định có thể chờ, tăng ngân sách cho các đoàn thể cơ sở... vv. Như vậy, một số
những bất hợp lý, mâu thuẫn của Nghị định 46 - CP đã được Nghị định 09 - CP cơ bản
giải quyết.


Tuy vậy, sau 4 năm thực hiện Nghị định 09 - CP đã bộc lộ một số hạn chế, vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề, nhiều bất hợp lý như: Sự phân công giữa các chức danh, có
nhiều chức danh nội dung công việc nhiều (chủ tịch UBND, bí thư, văn phòng UBND,
các cán bộ địa chính...vv.), trong khi đó nhiều chức danh lại quá rỗi việc (phó công an xã,
xã đội phó, phó chủ tịch HĐND...); vấn đề tính thâm niên công tác còn bất hợp lý (quy
định nếu cán bộ có thời gian công tác gián đọan trên 12 tháng thì không được tính thời
gian công tác trước đó); bộ máy nhân sự tăng lên kéo theo qũy lương, ngân sách chi
thường xuyên tăng, trong khi đó các nguồn thu ngân sách của địa phương không tăng,
nhiều nơi còn có xu hướng thu hẹp lại, đã làm cho ngân sách bị mất cân đối nghiêm
trọng, ngân sách giành cho họat động hầu như không có. Mặc dù NĐ-09 cũng đã quy
định một số chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, công tác phí, mai táng
phí, khen thưởng... nhưng vẫn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa có tác dụng thu hút cán
bộ trẻ, được đào tạo cơ bản về cơ sở công tác...
- Giai đọan 2003 - nay:
Trong tháng 10 năm 2003 Chính phủ đã ban hành 2 Nghị định về chính sách đối
với cán bộ cơ sở, đó là:
- Nghị định số 114/2003 NĐ/CP ngày 10/10/2003 “ về công tác cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn”.
- Nghị định số 121/2003/ NĐ - CP ngày 21/10/2003 “ về chế độ, chính sách đối
với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn”.
Trong quá trình thực thi 2 Nghị định trên kèm theo một số văn bản pháp quy khác
như: Nghị định số 107/2004/ NĐ - CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ “ quy định số
lượng phó chủ tịch và cơ cấu thành viên UBND các cấp”; Nghị định số 204/2004/NĐ-CP

ngày 14/12/2004 của Chính phủ “về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức và lực lượng vũ trang”; Thông tư số 03/2004/ TT - BNV ngày 16/01/2004 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định 114 của Chính phủ; Thông tư liên tịch số
01/2005/TTLT-BNV-BTC ngày 05/01/2005 của bộ Nôi vụ và bộ Tài chính về “ hướng
dẫn thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức
”; Nghị định số 184/2004/NĐ-CP ngày 02/11/2004 của Chính phủ quy định chi tiết việc
thi hành Pháp lệnh Dân quân tự vệ; Quyết định số 04/2004/QĐ - BNV ngày 16/01/2004


của Bộ Nội vụ” Về việc hành hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn”; và cùng một số văn bản liên quan khác (đã ban hành trước đó) như:
Điều lệ bảo hiểm ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày26/01/1995 của Chính phủ
và Nghị định số 01/2003/Nđ-CP ngày 09/01/2003 “về sửa đổi, bổ sung một số của Điều
lệ Bảo hiểm xã hội ”; Điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số
58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 “về chế độ bảo hiểm y tế đối với cán bộ, công chức,
viên chức và lực lượng vũ trang”; Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 161/2003/QĐTTg, ngày 04/8/2003 “về quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở”; “Phê duyệt định
hướng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã phường, thị trấn đến năm
2010”; Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg, ngày 04/9/2003 v/v ban hành quy chế “ một
cửa” tại cơ quan hành chính ở địa phương; và các quy định liên quan khác...
Qua gần hai năm thực hiện cho thấy NĐ-121/CP và NĐ-114/CP có nhiều đổi mới,
tiến bộ hơn hẳn so với các Nghị định trước đây, đặc biệt được đội ngũ cán bộ cơ sở hào
hứng đón nhận và là nguồn động viên thiết thực đối với họ. Những nội dung của NĐ
khoa học hơn, có nhiều điều mới, quy định cụ thể, sát hợp, đáp ứng tốt hơn đối với
ĐNCBCS và cơ bản đã giải quyết được những bất hợp lý, mâu thuẫn của NĐ-50/CP,
NĐ-09/CP.
Nghị định 121/CP và NĐ 114/CP được xây dựng trên cơ sở quy định rõ về số
lượng, tiêu chuẩn (tuổi, trình độ...), chế độ lương (hệ số lương cao hơn...), phụ cấp, bảo
hiểm, chức năng, nhiệm vụ, chế độ đào tạo, bồi dưỡng... cho từng chức danh thuộc các
đối tượng cán bộ chuyên trách, công chức và định hướng giao cho cấp Tỉnh quy định
chính sách, chế độ cán bộ không chuyên trách cấp xã và cán bộ ở thôn, bản, khối phố.

Đặc biệt, NĐ-204/CP đã quy định chuyển chế độ tiền lương đối với cán bộ chuyên trách
cơ sở sang hưởng chế độ lương mới cao hơn mức quy định tại NĐ-121/CP (có hệ số,
thang bậc...lương cụ thể) cho từng chức danh. Song, so với yêu cầu mới đang đặt ra đối
với HTCTCS và ĐNCBCS ở nước ta thì một số nội dung được quy định tại các Nghị
định trên vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, khó khắc phục ngay được, thậm chí phát sinh
mâu thuẫn mới.
Chỉ riêng phần chế độ đãi ngộ có thể thấy: Xuất hiện mâu thuẫn về mức lương,
thời gian nâng lương, cách tính thời gian tham gia BHXH... và các quyền lợi khác đối với


cán bộ chuyên trách so với công chức ở cơ sở còn chênh lệch, chưa công bằng, mặc dù
họ cùng trong một môi trường công tác như nhau, trong khi đó theo quy định thì rõ ràng
nhiệm vụ và trách nhiệm của cán bộ chuyên trách (chủ chốt) đòi hỏi cao hơn, nặng nề
hơn, phức tạp và phải chịu áp lực hơn; mức phụ cấp của cán bộ không chuyên trách là
quá thấp, các chế độ khác đối với họ còn bị thiệt thòi; quy định mức hưởng 5% phụ cấp
tái cử từ nhiệm kỳ thứ 2 (cùng và không cùng chức vụ) đối với cán bộ chuyên trách
không thống nhất giữa NĐ-121/CP và NĐ-204-CP, vì vậy xẩy ra một số trường hợp “
chức vụ thì lên nhưng lương thì xuống ”...v.v. Từ tính chất đặc thù của cơ sở, từ “thuộc
tính” vốn có cho thấy: Cán bộ chuyên trách thường “gắn kết bền vững” với cơ sở, nếu
phát triển thì cũng thường chỉ trong khung cấp xã, còn Công chức thường mang tính “
hành chính”, “ thoát ly”cơ sở, tương lai phát triển rộng hơn,... Do vậy, gây ra những vấn
đề trong tư tưởng đối với đội ngũ CBCS, ảnh hưởng làm giảm động lực phấn đấu, trách
nhiệm, mức độ hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ này.
1.2.3. Tác động của chính sách cán bộ trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị cơ sở
Hệ thống chính trị ở cơ sở là toàn bộ các thiết chế về chính trị bao gồm tổ chức
Đảng, chính quyền, Nhà nước và các đoàn thể chính trị- xã hội được tổ chức và quy định
hoạt động theo các nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau, nhằm thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và thực thi quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở. Là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước Việt Nam XHCN, do vậy, hệ

thống chính trị cơ sở cũng mang đầy đủ những đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống.
Ngoài ra, xét trên hai khía cạnh là địa vị pháp lý và điều kiện thực tế, hệ thống chính
trị cơ sở còn có những đặc điểm:
- Là cấp gần nhất với cộng đồng dân cư, do đó tổ chức cũng như cơ chế hoạt động
có tính tự quản cao, thường chịu sự chi phối bởi các quan hệ khác (phong tục, tính
ngưỡng, huyết thống, địa vị...).
- Thẩm quyền pháp lý xét trong toàn bộ hệ thống là cấp tổ chức thực hiện đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ở các cơ sở.


- Là cấp có bộ máy đơn giản nhất, có đội ngũ biến động nhất, ít tính chuyên nghiệp
và trực tiếp chịu sự chi phối của nhân dân và cũng là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu
cầu bức xúc của dân chúng, những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống kinh tế-xã hội.
Với những đặc điểm đã nêu của hệ thống chính trị cơ sở, với các thành tố tạo nên,
cũng là tổ chức cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam XHCN, là nền tảng chính trị vững
chắc ở cơ sở.
Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện HTCT ở cơ sở được thực hiện trên các mặt sau:
- Xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, quy tắc, chuẩn mực của các mối quan hệ và hoạt
động của các bộ phận cấu thành của HTCT cơ sở.
- Xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ, công chức của HTCT cơ sở.
Xây dựng và hoàn thiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở có mối quan hệ với mặt
thứ ba này. Qua thực tiễn, có thể thấy chính sách đối với cán bộ cơ sở đã, đang và sẽ có tác
động trên các khía cạnh sau:
a- Thu hút những người có trình độ, năng lực và nhiệt tình về công tác tại cơ sở,
đồng thời loại bỏ cán bộ không đủ tiêu chuẩn khỏi các vị trí công tác.
ở nơi làm được điều này thì HTCT có thêm sức mạnh. Tiếc rằng thực tế trong cả
nước chứng minh rằng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở chủ yếu được hình thành một cách tự phát.
Nghiên cứu nguồn gốc của các cán bộ cơ sở cho thấy phần lớn họ là những người vì lý do
này khác không thể thoát ly khỏi địa phương, là những người vốn là bộ đội xuất ngũ, hoặc

cán bộ công nhân viên đã về hưu, nghỉ việc trở về địa phương. Số là thanh niên có trình độ
đại học tự nguyện trở về quê nhà làm cán bộ cơ sở rất hiếm hoi. Đó là lý do khiến cho đội
ngũ cán bộ cơ sở phần lớn độ tuổi cao, phần lớn trình độ học vấn dưới đại học, phần lớn
công tác với trạng thái tâm lý bất đắc dĩ (nhất là cán bộ trẻ).
Tình hình trên gây cản trở lớn cho việc nâng cao chất lượng cán bộ ở cơ sở thu hút
người có đức, có tài phục vụ lâu dài cho cơ sở.
b- Tạo điều kiện và khuyến khích cán bộ không ngừng nâng cao trình độ, năng lực
công tác.
Trình độ học vấn của cán bộ, năng lực tổ chức, điều hành, lãnh đạo, chỉ đạo của cán
bộ là yếu tố làm nên chất lượng của HTCT cơ sở. Nếu làm được điều này thì chính sách


đối với cán bộ cơ sở sẽ góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ cơ sở và do đó
chắc chắn nâng cao chất lượng của HTCT cơ sở. Tuy nhiên cũng phải thấy phần lớn đội
ngũ cán bộ cơ sở ở nước ta chưa được tạo điều kiện học tập. Bằng chứng là số lượng cán
bộ đương chức được tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, về quản lý
hành chính nhà nước, về pháp luật... còn chưa nhiều. Ngay ở các địa phương quan tâm nhất
thì chương trình, nội dung giảng dạy cho đối tượng này cũng chưa được thiết thực. Việc tự
học để nâng cao trình độ mới chỉ dừng lại ở số ít.
c- Khuyến khích cán bộ làm việc tận tuỵ, có trách nhiệm, trong sạch, gắn bó với
nhân dân.
Một đội ngũ cán bộ thạo việc, tận tuỵ, có tinh thần trách nhiệm là điều mong muốn
và là điều tối quan trọng để có một HTCT vững mạnh. Thực tế đội ngũ cán bộ cơ sở nói
chung là tốt. Nhưng cũng phải thấy cái tốt chủ yếu bắt nguồn từ những nguyên nhân ngoài
chế độ, chính sách, nghĩa là từ ý thức chính trị, từ danh dự, từ trách nhiệm với làng xóm
quê hương... Sự tác động của chính sách thông qua tiền lương, các chế độ đãi ngộ khác đối
với cán bộ cơ sở để họ có được những điều như trên còn rất hạn chế.
1.3. Một số yếu tố tác động, chi phối trong xây dựng và thực hiện chính sách
đối với đội ngũ cán bộ cơ sở
Trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách nói chung và chính sách đối với

cán bộ cơ sở nói riêng có những nhân tố khách quan và chủ quan. Khách quan như trình độ
kinh tế và truyền thống văn hoá- chính trị, hoàn cảnh quốc tế và trong nước... Chủ quan là
những điều thuộc về sự tính toán, sự chủ ý của những người hoạch định và thực hiện chính
sách.
Thứ nhất, yếu tố chính trị:
Bất kỳ một chính sách nào của Nhà nước đều mang tính chính trị, có nghĩa là nó căn
cứ vào đường lối chính trị và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cầm quyền, phục vụ đường lối
chính trị và tư tưởng đó.
Trong xã hội ta, việc xây dựng và triển khai thực hiện chính sách đối với đội ngũ
cán bộ trước hết phải nhằm đảm bảo giữ vững quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về giai cấp
công nhân và Đảng tiên phong của nó trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảm
bảo được lợi ích cao nhất và quan trọng nhất là quyền lực tối cao thuộc về đông đảo nhân


dân. Đội ngũ cán bộ ở cơ sở - là đối tượng đặc biệt quan trọng mà các chính sách của Đảng
và Nhà nước đang tập trung hoạch định và xây dựng phải đáp ứng được những yêu cầu
đảm bảo quyền lực chính trị xuống tận cơ sở, thực hiện tốt khả năng tuyên truyền hệ tư
tưởng, quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là đảm bảo việc hoạch định và
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, các phương án quản lý xã hội một cách tốt
nhất.
Thứ hai, yếu tố kinh tế:
Bất cứ một quyết sách nào cũng phải dựa trên các năng lực kinh tế quốc gia hoặc
dựa trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc trong phạm vi từng lĩnh vực, từng địa phương
với quy mô, bình diện hẹp hơn. Chưa nói đến chính sách đối với đội ngũ cán bộ ngay cả
những chính sách tưởng chừng như không liên quan đến kinh tế, như quốc phòng - an ninh,
văn hoá - xã hội hay thực hiện quy chế tổ chức ở cơ sở... cũng không thể tách rời các điều
kiện kinh tế. Hiểu một cách đơn giản nhất, trước hết là khả năng của ngân sách cấp cho
hay khả năng huy động các nguồn lực vật chất để thực hiện chính sách.
Yếu tố kinh tế là biểu hiện nội dung bảo đảm lợi ích vật chất đối với đội ngũ cán bộ
cơ sở. Và điều này lại phải tính đến trong mặt bằng thu nhập quốc dân trong phạm vi quốc

gia nói chung và trong phạm vi địa phương nói riêng.
Thực hiện cải cách cơ bản chế độ tiền lương cán bộ, công chức, coi chính
sách tiền lương là chính sách đầu tư cho con người, cho phát triển kinh tế - xã
hội và là một giải pháp hạn chế những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong đội
ngũ cán bộ. Từng bước thực hiện tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương nhất là tiền tệ
hoá vào trong các khoản chi phí nhà ở, phương tiện thông tin, đi lại... cải cách
hệ thống thang bảng lương trên cơ sở phân định rõ tính chất và đặc điểm lao
động của các loại cán bộ, công chức; điều chỉnh bất hợp lý về bội số và hệ số
trong các thang lương, bảng lương, sửa đổi, bổ sung các quy địnhvề chế độ phụ
cấp theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, chế độ phụ cấp
làm việc ở nơi xa xôi, miền núi, hải đảo... [23, tr.234].
Nội dung kinh tế ở đây chính là yêu cầu về mặt kinh tế mà thông qua hoạt động
của đội ngũ cán bộ cũng như tác dụng của chính sách cán bộ cơ sở đưa lại đối với đời sống
nhân dân cũng như lợi ích đem lại cho Nhà nước. Đời sống nhân dân trước hết là “ăn, mặc,


ở, đi lại” là những yêu cầu tối thiểu nhất mà xã hội đáp ứng, sau đó mới tính đến chuyện
“làm chính trị”.
Đối với chính sách cán bộ cơ sở, mục đích kinh tế thể hiện ở mục tiêu phát triển nền
kinh tế, thúc đẩy những năng lực kinh tế nhất định của từng điạ phương, thông qua đó mà nâng
cao mức sống cho nhân dân, cải thiện mọi điều kiện sinh hoạt xã hội, làm sao từng bước đưa
cuộc sống nhân dân đi đúng quỹ đạo đã được xác định (dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằndân chủ- văn minh).
Thứ ba, yếu tố pháp lý:
Là những yếu tố cần thiết phải có để cho ra đời một chính sách. Đối với bất kỳ
chính sách nào thì trước khi được ban hành đều phải nghiên cứu dựa trên các yếu tố, các
nguyên tắc pháp lý. Khi đã được ban hành thì toàn bộ nội dung của nó, một mặt phù hợp,
hài hoà yêu cầu của các nhóm lợi ích (từ chủ thể nắm quyền lực đến các đối tượng khác
nhau), mặt khác thể hiện rõ sự tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật, thể hiện
những yếu tố có tính qui phạm về mặt pháp lý mà bản thân chủ thể ra quyết định cũng phải
tuân thủ.

Chính sách đối với cán bộ cơ sở là hệ thống các văn bản qui định mục đích và hoạt
động của đội ngũ cán bộ ở cơ sở, trước hết dựa trên nguyên tắc mà Hiến pháp đã ban hành,
thông qua các qui định cụ thể cho từng loại đối tượng để xây dựng thành một hệ thống các
tiêu chí tiêu chuẩn, quyết định nhiệm vụ quyền hạn cũng như lợi ích của từng loại cán bộ.
Hệ thống luật pháp do Nhà nước ban hành ở nước ta là sự thể chế hoá cương lĩnh,
chiến lược và định hướng chính sách của Đảng ta. Vì vậy hệ thống các chính sách không
những phải căn cứ vào những quan điểm, đường lối của Đảng mà còn phải tuân thủ những
qui phạm pháp luật được thể chế hoá từ những quan điểm, đường lối chính trị đó. Mặt khác
bản thân các chính sách mới được ban hành lại tạo ra các lĩnh vực điều tiết mới của hệ
thống pháp luật, thông qua đó góp phần thúc đẩy hệ thống pháp luật ngày càng bao quát,
quản lý rộng rãi, chặt chẽ và hoàn thiện hơn.
Thứ tư, yếu tố tâm lý xã hội:
Yếu tố tâm lý tác động đến chính sách cán bộ ở cơ sở bao gồm:
- Tâm lý từ phía chủ thể ra quyết định (cấp trên)
- Tâm lý từ chủ thể thực hiện (đội ngũ cán bộ....)
- Tâm lý từ khách thể xã hội (thái độ của quần chúng)


Để tránh khuynh hướng độc đoán, chuyên quyền, thiếu dân chủ trong việc xây dựng
chính sách cần có quan điểm cho phép người đứng đầu có quyền quyết định những vấn đề
thuộc lĩnh vực của mình trong một thời điểm nhất định. Đối với các cá nhân trong tập thể,
cần có chế độ bảo lưu ý kiến cũng như xem xét một cách nghiêm túc những vấn đề mới đặt
ra, mặc dù nó xuất hiện nhiều khi chỉ từ ý kiến của thiểu số. Tránh tình trạng dân chủ
chung chung, phong trào, hời hợt và thiếu sáng tạo, đột phá. Tuy nhiên, trước khi có quan
điểm này, thì quan điểm chủ đạo và chỉ đạo là tập trung trí tuệ tập thể, phát huy dân chủ
trong mọi lúc, mọi nơi nhằm hoạch định và xây dựng những chính sách thiết thức và hiệu
quả nhất.
Trong thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở, bản thân họ những người
trực tiếp làm việc trong hệ thống chính trị cơ sở là những người thực thi chính sách cũng
như trực tiếp tác nghiệp trong đời sống nhân dân. Chính vì vậy ngoài năng lực, trình độ và

ý thức chính trị của mỗi con người chủ thể ra chính sách cần phải nghiên cứu những đặc
tính tâm lý của từng loại đối tượng như: Cán bộ ở vùng núi cao, dân tộc thiểu số, cán bộ ở
vùng có đạo (trong đạo thì có các đạo giáo khác nhau) hoặc cán bộ là người theo các tôn
giáo, cán bộ ở vùng nông thôn nông nghiệp, cán bộ là người ở thành thị...
Nghiên cứu và vận dụng đúng đặc tính tâm lý của từng loại đối tượng cán bộ sẽ giúp
cho cán bộ tự tin và thuận lợi trong việc thực thi nhiệm vụ và ngược lại nếu không tính đến
vấn đề này sẽ rất khó khăn cho cán bộ, thậm chí là phản tác dụng.
Thái độ của quần chúng nhân dân trong đại đa số các trường hợp phản ánh mức độ
phù hợp của chính sách đối với lợi ích của nhân dân (đương nhiên phải loại trừ trường hợp
quần chúng bị kẻ xấu kích động, lôi kéo lợi dụng). Thái độ của dân chúng (tổ chức kinh tế,
văn hoá, chính trị, tôn giáo hoặc dân cư một địa phương, vùng...) nếu đồng tình với chính
sách sẽ là thuận lợi cho chính sách đi vào thực tế, thực thi có hiệu quả, còn nếu dân chúng
thờ ơ hay phản đối sẽ trở thành những trở ngại to lớn trong việc thực thi chính sách. Chính
sách cán bộ ở cơ sở nếu phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, những con người được
nhân dân tin yêu tín nhiệm nếu được bố trí đúng vị trí, sở trường và được đối xử công bằng
sẽ trở thành động lực thúc đẩy mọi hoạt động phối kết hợp cũng như các hoạt động cần
thiết phải huy động sức dân.


Trường hợp chính sách mà nhà nước đưa ra đi ngược lại, làm nguy hại đến lợi ích,
đời sống của dân chúng đều có thể dẫn đến những xung đột chính trị, trở thành điểm nóng,
thậm chí biến thành vũ trang chính trị, bạo loạn lật đổ... Do vậy, khi ban hành một chính
sách, một chủ trương không thể không xem xét đến nguyện vọng của đại đa số quần chúng
nhân dân, đến nguyện vọng cũng như tâm lý xã hội của các nhóm lợi ích khác nhau.
Kết luận chương 1
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổng hợp những ý kiến đóng góp của các nhà
khoa học, kết hợp lý luận với thực tiễn, chương 1 của Luận văn đã cố gắng hệ thống hoá,
góp phần làm rõ một số khái niệm “công cụ” liên quan đến chính sách đối với đội ngũ cán
bộ ở cơ sở. Từ đó đã phân tích về vai trò, tác động của chính sách cán bộ trong việc xây

dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở. Cũng ở chương này, Luận văn đã đi sâu làm
rõ một số yếu tố tác động, chi phối trong xây dựng và triển khai thực hiện chính sách đối
với đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Những khía cạnh vừa nêu đã giúp luận chứng một số vấn đề cơ bản liên quan tạo
tiền đề để đánh giá về thực trạng chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
ở cơ sở tỉnh Nghệ An hiện nay.
Chương 2
Thực trạng chính sách đối với đội ngũ cán bộ
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở
tỉnh nghệ an hiện nay

2.1. Tình hình kinh tế- xã hội và chính trị tỉnh Nghệ An
2.1.1. Khái quát về kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế- xã hội và chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hoạch
định, triển khai thực hiện chính sách nói chung và chính sách đối với đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Chính vì vậy, trước khi xem xét đánh giá thực
trạng chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An,
luận văn cần khái quát về tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh Nghệ An.


Vị trí địa lý: Nghệ An nằm ở khu vực trung tâm Bắc miền Trung, có toạ đội địa lý
từ 18035’ đến 200 vĩ độ Bắc và từ 103050’ đến 1050 kinh độ Đông, cách thủ đô Hà Nội
297 Km về phía Bắc, cách cố đô Huế 360 Km về phía Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh
Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào,
phía Đông giáp Biển Đông.
Địa hình: phức tạp, bị chia cắt bởi các hệ thống núi đồi, sông suối, hướng nghiêng
từ Tây-Bắc xuống Đông-Nam. Địa-Kinh tế Nghệ An rất đa dạng về miền sinh thái, có đủ
các vùng núi cao, trung du, đồng bằng, đô thị, ven biển, biên giới và hải đảo.
Khí hậu: Nghệ An nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt. Mùa nắngnóng kèm theo gió lào, nhiệt độ nhiều ngày lên cao tới 38-400c gây khô hạn kéo dài,
thường có mưa lớn kèm theo lụt bão. Mùa lạnh thường kèm theo hanh, khô và rét đậm.

Đất đai: Diện tích đất tự nhiên là 16.487 km2, trong đó 3/4 là miền núi, vùng cao.
Diện tích đất có giá trị nông nghiệp là 18,7 vạn ha, trong đó có 3 vạn ha đất đỏ Bazan có
khả năng trồng các loại cây công nghiệp; 115vạn ha có khả năng lâm nghiệp,trong đó có
60 vạn ha rừng với trữ lượng gỗ 40 triệu m3.
Điều kiện và tiềm năng phát triển kinh tế- xã hội:
Dân số: tỉnh Nghệ An có gần 3 triệu người, mật độ trung bình là 180 người/km2.
Trong đó, số người trong độ tuổi lao động là 1,7 triệu người, hàng năm được bổ sung trên
3 vạn lao động trẻ, trong đó 15% được đào tạo nghề. Số người được đào tạo chủ yếu
thuộc đồng bằng, đô thị, còn ở miền núi cao không đáng kể.(theo điều tra số lao động có
trình độ chuyên môn từ cao đẳng chiếm 1,3%, số có trình độ đại học trở lên là 0,78%).
Trên địa bàn Nghệ An có 7 dân tộc anh em cùng sinh sống, người kinh chiếm 85% dân số
sống hầu hết trên địa bàn Tỉnh, tập trung chủ yếu ở đồng bằng, thành phố, thị xã, thị trấn;
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 15% dân số(Thái, H’mông, Khơ mú, Thổ, Ơ đu, Đan lai)
chủ yếu sống rải rác ở miền núi, vùng cao.
Về hành chính: Tỉnh Nghệ An có 19 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố
Vinh, thị xã Cửa Lò, 10 huyện miền núi: Quế phong, Kỳ Sơn, Tương Dương, Quỳ Châu,
Quỳ Hợp, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương và 7 huyện đồng
bằng: Đô Lương, Yên Thành, Nam Đàn, Hưng Nguyên; ven biển là Quỳnh Lưu, Diễn
Châu, Nghi Lộc. Có 469 đơn vị hành chính cấp xã gồm 434 xã, 18 phường,17 thị trấn,


×