Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Phân tích tình hình triển khai và khả năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm an sinh giáo dục (BH ASGD) ở công ty bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.15 KB, 62 trang )

STT Tên nước

Tổng DT phí BH(triệu $)

Co’ cấu phí BH (%)
Nhân thọ

1

Mỹ

2

Nhật

3

Đức

4

Anh

5

Pháp

Phi nhân thọ

Phầnsử
I: ra


Những
vấn
đề triển
lý luận
chung
về BHNT.
522,468
41,44
58,56
Lịch
đời và
phát
hiểm
nhân thọ.
LỜIcủa
MỞbảo
ĐẦU
Phần II: Giới thiệu chung về sản phẩm BH ASGD của Công ty bảo
73,86
26,14
hiểm
nhân
thọ

Nội.
BHNT
là nay,
sự320,14
cam
kếtđề

giữa
người
thammục
gia bảo
Ngày
vấn
conngười
ngườibảo
là hiểm
một và
trong
những
tiêuhiểm
quan trọng
Phần III: Phân tích thực trạng và triển vọng của nhiệm vụ BH
107,403
39,38
60,62
hàngtrong
đầu
mà người
chúng
tatycần
mụcgia
tiêu(hoặc
chiếnngười
lược
ASGD

Côngtham

bảo
hiểm
nhân
thọ
Hàđảm
Nội. bảo

đó
giaphải
bảophấn
hiểmđấu
sẽ để
trả
cho
ngườichotham
phát triển
vững
của
quốc
gia.
Điều
đó đòi
hỏi35,43
mỗicóchúng
tasựphải
Phần
IV:
Một
sômột
kiến

nghị
nâng
cao
hiệu
quả
BH
ASGD
hưởng
thụ bền
quyền
lợi
bảo
hiểm)
một
sốnhằm
tiền
khi
những
kiệndành
đãở
102,360
64,57
(Nguồn:
Tổng
công
ty
bảo
hiểm
Việtnhất
Namđịnh

tháng
8/ỉ996)
công
ty
bảo
hiểm
nhân
thọ

Nội.
sự quan
đáng được
cho con
bởi hoặc
lẽ chính
làmđiểm
chủ
định
trướctâm
xảyxứng
ra (người
bảo em
hiểmmình
bị chết
sống trẻ
đếnem
mộtsẽthời
84,303
56,55
43,65

tương
lai
đấtngười
nước:
“Trẻ
em
hôm
thế phải
giới ngày
mai”.bảo hiểm đầy đủ, đúng
2. định)
Sụcủa
racòn
đời
và phát
triển
BHNT
ởhiểm
Việt
Nam.
nhất
tham
gia
bảonay
nộp phí
Ở cách
nước khác,
ta, BHNT
còn quá
là một

lĩnh vực
mới
mẻ.
Tuy rằng
trước năm
hạn. Nói
BHNT
trình
hiểm
cácphát
sự kiện
Mặt khác,
khi
đời làsống

hộibảo
ngày
càng
triển có
thìliên
nhuquan
cầu đến
bảo
1954

miền
Bắc
những
người
dân

làm
việc
cho
Pháp
đã
được
bảo
hiểm

sinh
mạng,
cuộc
sống

tuổi
thọ
của
con
người.

ra
đời

một
lẽ
tự
nhiên
đảm an toàn và điều kiện phát triển toàn diện cá nhân ngày càng cao. Đồng
một
số giaứng

đình đãcầuđược
hưởng của
quyền
của các hợp đồng BHNT này. Các
nhằm
conlợi
người.
thời điđáp
liền vớinhu
nó là khách
những quan
biến cố rủi
ro
ngày càng nhiều thêm. Chúng tồn tại
hợp đồng này đều do các công ty của Pháp thành lập.
ngoàisửý ramuốn
củaBHNT
con người
luôn đe doạ đến đời sống của họ. Nhân loại xưa
Lịch
đời của
khá sớm.
và Sự
nay
bằng
những
pháp
khác
tránh,
Trong

nămbiện
đầuBHNT
thập kỷ
70,
miền cứu
Nam trợ,
côngphòng
ty Hưng
Việt tiết
đã
1.
ra
đòi
vànhững
phát
triển
của
trên
thếởnhau:
giói.
kiệm...nhằm
hạnsốcác
chế
những
tổn
song
trên
một
góc(ASGD);
độ

nàotriển
đó
thìhiểm
các
triển
khai
loại
hình
bảo
hiểm:
an xét
sinh
giáo
bảoBHNT
Đốimột
với
nước
trên
thếthất
giới,
đặc
biệt

cácdục
nước
phát
biện pháp
này
còn
hạn

chế.đã
ưu điểm
của ngắn
mình
bảo năm)
hiểm
trường
sinh;
bảo
hiểm
tử kỳmẻ.
5, Nó
10,
20Với
nămnhững
trong
một
thời
(1-2
không
còn là
vấn
đề nhiều
mới
được
triển khai
một gian
cách
phổ biến.
Hình

nhân
thọ dân
(BHNT)
đã chưa

góploại
phần
cực
vào
việc
nên
người
hầu như
biếtnăm
về
hìnhtích
hiểm
này.
thức
BHNT
đầu
tiên
ra đang
đời
1583
0 bảo
Luân
Đôn,
khi giải
một quyết

nhómnhững
người vấn
tự
đề
bức
xúc
nói
trên.
nguyện góp tiền cho một người giữ và thoả thuận sẽ trả tiền cho ai đó trong
Năm 1987 Bảo Việt tổ chức nghiên cứu đề tài: “ Lý thuyết về BHNT và
nhóm chẳng
may
qua đời trong
vòng
năm.
Cho đến
nămmang
1759tính
mô rủi
hình
Thực
chất,
là loại
hìnhmột
bảo
hiểm
người
ro
sự vận dụng
thực

tế ởBHNT
Việt Nam”.
Trong
đề tài
này,con
nhóm
nghiên cứu
đã tổng
công
ty
BHNT
đầu
tiên
ra
đời

Châu
Mỹ
nhưng
công
ty
chỉ
bán
hợp
đồng
theolýqui
luật “Số
đông
số ít”trên
đồngthếthời

một đồng
biện pháp
tiết kiệm
hợp
thuyết
cơ bản
màbùBHNT
giớinóđãcòn
áp làdụng,
thời phân
tích
BHNT
cho
các
con
chiên
trong
nhà
thờ
của
họ.
Năm
1762

Anh,

hình
có kế điều
hoạch.kiện
Mục

đíchtế của
trả sốkhai
tiềnBHNT
rất lớnởcho
gianăm
bảo
những
kinh
- xãBHNT
hội đểlà triển
Việtngười
Namtham
những
công
ty
BHNT
hoàn
thiện
ra
đời.
Đây

công
ty
BHNT
đầu
tiên
bán
các
hợp

hiểmthập
vào kỷ
đúng
cần khai
ngay BHNT
cả khi có
họ lúc
mớichưa
tiết thực
kiệm hiện
đượcđược
một bởi
khoản
tiền
cuối
80. lúc
Việchọtriển
vì tình
đồng
BHNT
rộng
rãi
cho
nhân
dân

áp
dụng
nguyên
tắc

phí
BH
không
nhỏ kinh
dưới tếdạng
phí nước
bảo hiểm.
gia bảo
hiểm
sẽ thập
địnhđổi
kỳ
hình
- xãđóng
hội của
ta cònMỗi
gặpngười
nhiều tham
khó khăn.
Bước
sang
kỷ
trong
suốt
thời
hạn
BH.
đóng
phí cơbảo
tronghoá

mộtloại
thời
gian
thoả thuận
trước
(Thời
hạn nhu
bảo
90,
trong
chếhiểm
đa dạng
hình
kinhđãdoanh
bảo hiểm
phục
vụ cho
cầu
phátvào
triển
kinh
tế

hội
đặc
biệt

đảm
bảo
cho

nền
kinh
tế
thị
trường
hiểm)
một
quỹ
lớn
do
công
ty
BH
quản

(Quỹ
BH).
Trong
quá
trình
bảo
Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung,
được
triển
ổn
định,
góp
phần
thác
mọiMỗi

tiềmcông
đầuđều
tư thiết
phát
hiểm,phát
quỹkhông
này tạo
ra
một
khoản
lời
cho
bảo
hiểm
vànăng
công
ty bảo
hiểm

BHNTđã
ngừng
phát
triển
vàkhai
hoànnhà
thiện.
ty cho
BHNT
triển
.nhiệm

Bộmình
Tài
chính
phép
triển
khai
“Bảo
hiểm

tráchcho
trả những
tiền
BHcho
cho phẩm
người Bảo
được
bảo
có sự
xảy
ra. sinh
kế
sản
mangViệt
đặchiểm
thù khi
riêng
đểcốđáp
ứng
nhumạng
cầu tài

nhân” thời hạn 1 năm. Đến cuối năm 1995 đã có trên 500.000 người tham gia
chính đa Mặc
dạng dù
củabảo
từng
khunhân
vực dân
cư đời
và phù
hợptavới
sáchnhưng
kinh nước
tế - xãta
hiểm
thọ ra
ở nước
gầnchính
5 năm
bảo hiểm với tổng số phí trên 10 tỷ đồng. Ngày 20/3/1996 Bộ Tài chính đã ký
hội
Chính
vậy, doanh
của thực
BHNT
luônrachiếm
50%
chưacủa
thutừng
hút quốc
được gia.

nhiều
ngườivì tham
gia. Dosốvậy,
tế đặt
ở Việttrên
Nam

quyết định số 281TC/TC-NH cho phép Bảo Việt triển khai 2 loại hình BHNT:
doanh
số
của
ngành
BH;
riêng

Đông
Nam
Á
con
số
này
đã
lên
tới
73,8%.
làm thếcónào
hút được
số và
đông
tham gia BHNT để cho quỹ này đủ

BHNT
thờiđể
hạnthu
5 năm,
10 năm
bảo người
hiểm ASGD.
lớn và hiệu quả sử dụng nó có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Đây là một vấn
Để quản
quỹvàBHNT
có sựhiệu
đã ký quyết định số
đề gặp nhiều
khó lý
khăn
cần được
quanquả,
tâmBộ
củaTài
toànchính
xã hội.
568/QĐ/TC-CB ngày 22/6/1996 thành lập công ty BHNT trực thuộc Tổng
Bàng 1: Cơ cáuthức
phí BHNTvấn
của 5 thi
lởn trình
nhát thế
giới năm Công
1993
đó,trường

qua
quá
bảo
công ty BảoNhận
hiểm Việtđược
Nam và đề
là công
ty BHNT
duythực
nhấttậpở tại
Việt Namtytriển
hiểmBHNT.
nhân thọ
chỉmột
dẫnbước
tận tình
củamới
cáctrong
cán bộ
trong triển
côngcủa
ty,
khai
Sự Hà
kiệnnội,
nàyđược
đánhsựdấu
ngoặt
sự phát
em đãBHNT.

chọn đề
triển khai
khả năng
phát
triển
ngành
Kểtàitừ “Phân
đó đếntích
nay,tình
cônghình
ty BHNT
khôngvàngừng
cải tiến
và hoàn
của nghiệp
bảophẩm
hiểm của
an sinh
giáo
dục (BH
Côngcác
ty bảo
hiểm
thiện
những vụ
sản
mình
nhàm
phụcASGD)
vụ tốt ởhơn

khách
hàng và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Năm 1999, khi Bộ Tài chính cho
nhân thọ Hà Nội”. Việc nghiên cứu đề tài này giúp đỡ em rất nhiều trong
phép mở thị trường bảo hiểm Việt Nam để hội nhập với thị trường bảo hiểm
lĩnh vực bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng.
khu vực và thế giới đã có nhiều công ty BHNT 100% vốn nước ngoài như:
I.

431


AIG, Prudential, Chinfon-Manulife được thành lập hay mở văn phòng đại diện
tại Việt Nam và một công ty liên doanh giữa Bảo Minh-CMG (úc) xuất hiện
đã chứng tỏ sự sôi động và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong
thời gian tới.
II. Sự cần thiết và tác dụng của BHNT.
1. Sự cần thiết của BHNT.
Hiện nay, xu hướng quốc tế hóa - xã hội hóa các lĩnh vực kinh tế - xã hội
ngày càng được đẩy mạnh. Bên cạnh việc đáp ứng các nhu cầu của đời sống
thì vấn đề bảo vệ con người một cách toàn diện là mối quan tâm của nhiều
nước trong đó có Việt Nam nơi có những thành tựu tiến bộ không ngừng về
kinh tế - xã hội mà đời sống và điều kiện con người ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì vẫn khó tránh khỏi
những vấn đề ngoài tầm kiểm soát của mỗi người như rủi ro về bệnh tật, tai
nạn.... Mặc dù, con người đã áp dụng mọi biện pháp khác để phòng và giảm
thiểu các nguy cơ rủi ro: cứu trợ, tiết kiệm. Song xét trên một góc độ nào đó
các biện pháp này còn nhiều hạn chế. Với những ưu điểm của mình, BHNT đã
và đang tích cực vào việc giải quyết vấn đề bức xúc nói trên.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu

khá quan trọng: nền kinh tế tăng tnrỏng cao; đời sống nhân dân được nâng
cao. Do đó nhu cầu về bảo hiểm của người dân ngày càng lớn và đa dạng hơn.
Đặc biệt đã từ lâu người Việt Nam đã biết tiến hành các hoạt động bảo hiểm;
ý thức bảo hiểm đã đi vào đời sống hàng ngày và trở thành truyền thống quý
báu. Trong quá trình sản xuất người lao động luôn gặp phải những rủi ro về tai
nạn, ốm đau., làm mất khả năng lao động, mất nguồn sống, con cái mất nơi
nương tựa hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm
bảo cuộc sống. Do vậy, tất yếu người lao động phải lập quỹ bảo hiểm thích
hợp đủ lớn để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình sau này. Ngoài
BHXH thông qua thị trường bảo hiểm người lao động còn có thể tham gia
BHNT phòng khi gặp rủi ro bất ngờ hoặc lúc tuổi già về hưu.
BHNT là loại hình bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm có kế hoạch vừa
đảm bảo phân tán rủi ro. Mục đích chính của BHNT là trả số tiền rất lớn ngay
khi người tham gia bảo hiểm mới tiết kiệm được số tiền nhỏ. Quỹ bảo hiểm
được hình thành trên cơ sở đóng góp chung của cộng đồng người tham gia,
trong quá trình sử dụng nó tạo ra khoản lời cho nhà bảo hiểm và dùng để trả
tiền bảo hiểm khi có sự cố xảy ra. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội
BHNT đã góp phần vào tốc độ phát triển GDP. Khi kinh tế phát triển làm cho
đời sống nhân dân tăng là nó cũng tạo nên 1 lóp người có thu nhập cao trong
5


xã hội. Với mức thu nhập này, họ có thể tiến hành đầu tư vào nhiều lĩnh vực
khác nhau nhằm phân tán rủi ro trong đó có BHNT.
Một trong những vấn đề lớn thu hút sự quan tâm rộng rãi của xã hội
hiện nay là vấn đề xã hội hoá giáo dục. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư
cho tương lai và có hiệu quả nhất. Vì vậy, đối với mỗi gia đình việc giảm chi
tiêu hôm nay để lo lắng cho tương lai, cho việc giáo dục con cái mình là một
biện pháp hết sức thiết thực và có ý nghĩa. Do đó, đòi hỏi cần phải có biện
pháp tiết kiệm có kế hoạch để giúp mọi người thực hiện mục tiêu này. BHNT

sẽ giúp các gia đình lo cho trẻ em đến khi trưởng thành có một khoản tiền lập
nghiệp hoặc đi học đại học.
Hơn nữa, việc chăm sóc ngày càng tốt hơn những người về hưu, người
già là trách nhiệm của toàn xã hội, nó vừa mang ý nghĩa đạo đức, văn hoá sâu
sắc vừa thể hiện trình độ văn minh của xã hội. Xã hội càng phát triển thì xu
hướng con cái tách khỏi bố mẹ càng tăng làm cho số lượng người cao tuổi
không có chỗ dựa khi đến tuổi già ngày càng tăng. Do vậy, khi còn trẻ còn
kiếm được tiền thì xu hướng giành một khoản tiền khi về già ngày càng tăng
đặc biệt là những người đang làm việc tại những nơi mà chưa có BHXH; thậm
chí rất nhiều người muốn bên cạnh chế độ BHXH họ còn có một khoản thu
nhập thêm. BHNT đã đáp ứng được nhu cầu đó của họ.
Bên cạnh yếu tố tiết kiệm, BHNT còn mang tính rủi ro. Khoa học kỹ
thuật phát triển; cuộc sống con người ngày càng được hiện đại nhưng bên cạnh
đó nó cũng đem lại cho con người nhiều rủi ro hơn: ô nhiễm môi trường làm
cho sức khoẻ giảm, khả năng mắc bệnh cao, chi phí cho thuốc men tăng;
phương tiện giao thông nhiều trong khi đường sá không nâng cấp kịp thời làm
tai nạn xảy ra nhiều. Mặt khác nền kinh tế thị trường tạo sự cuốn hút con
người vào công việc làm cho họ ít quan tâm đến nhau. BHNT lúc này là chỗ
dựa vững chắc để bù đắp những mất mát giúp người tham gia vượt qua những
khó khăn.
Đối với mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp thì tính mạng của người chủ là
quan trọng. Nó ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình thậm chí đến sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Do đó nhu cầu bảo đảm cho sự ổn định của
gia đình và doanh nghiệp ngày càng đặt lên hàng đầu và hợp đồng BHNT sẽ
giúp họ thực hiện việc đó.
BHNT còn giúp gắn bó những người xa lạ với nhau, làm cho họ quan
tâm chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau lúc hoạn nạn; thể hiện tính nhân đạo giữa con
người với nhau. Trên thực tế, chính những người tham gia bảo hiểm đã giúp
nhau thông qua một bên trung gian đó là nhà bảo hiểm. Người ta lên án cơ chế
thị trường làm cho con người sống lạnh lùng, ích kỷ, xa rời các đạo đức truyền



thống thì chính BHNT đã tạo ra một phong cách sống mới ở đó mọi người
quan tâm đến nhau và giúp đỡ chính mình. Con cái lo lắng quan tâm đến cha
mẹ; ông bà cha mẹ quan tâm tạo điều kiện cho con cháu khôn lớn và thành
đạt. Điều đó vô hình chung đã làm cho mọi người quan tâm xích lại gần nhau;
xã hội ổn định và văn minh hơn. Chính vì vậy, BHNT ra đời là cần thiết khách
quan đối với cuộc sống mỗi người và nó có vai trò quan trọng trong việc phát
triển và hỗ trợ cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2. Tác dụng của BHNT.
BHNT ra đời bên cạnh ý nghĩa đối với từng cá nhân, từng gia đìng, nó còn
có ý nghĩa như một giải pháp hữu hiệu góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược
kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau:
a. Ý nghĩa đối với từng cá nhân và sia đình:
BHNT ra đời nhằm bảo vệ cho các cá nhân và gia đình chống lại sự bất
ổn về tài chính gây ra bởi các rủi ro bất hạnh :
-

Trường hợp chẳng may một thành viên gia đình gặp rủi ro qua đời hay
người trụ cột của gia đình gặp rủi ro bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn,
ốm đau, qua đời làm giảm (mất) thu nhập để lại gánh nặng nghĩa vụ
chưa kịp hoàn thành như trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, lo việc
học hành cho con cái, trả nợ các khoản vay thế chấp.... thì BHNT sẽ
luôn đứng bên cạnh “khách hàng” để giúp họ mau chóng ổn định cuộc
sống đồng thời thay mặt người quá cố (là trụ cột gia đình) làm nốt
nghĩa vụ của mình. Rõ ràng BHNT thực chất là sự san sẻ rủi ro giữa
người tham gia bẩo hiểm đồng thời thể hiện sự quan tâm, lo lắng của
người chủ gia đình đối với con cái hay người phụ thuộc.

-


Trong trường hợp rủi ro không xảy ra thì thông qua các sản phẩm
BHNT như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, ASGD.. người tham gia bảo hiểm
sẽ nhận được số tiền bảo hiểm lớn hơn đã định. Số tiền này được sử
dụng cho những mục đích khác nhau như: nâng cao mức sống lập
nghiệp; cưới xin., vào lúc đáo hạn hợp đồng và đương nhiên trong suốt
thời gian hợp đồng họ đã được bảo hiểm. Như vậy, BHNT là một biện
pháp để thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với từng
gia đình.
b. Ỷ nghĩa đối với xã hôi.
BHNT là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn dỗi
trong nhân dân để đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
7


đất nước nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất
cao.
-

Đế thực hiện chủ trưong “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiên đại hóa vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh” thì nước ta
cần nguồn vốn lớn để đầu tư và phát triển. Vì vậy, chúng ta cần khai
thác tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển song chúng ta phải thấu
suốt tư tưởng chỉ đạo của Đảng: “Vốn trong nước là quyết định, vốn
bên ngoài là quan trọng”. Bên cạnh các hình thức huy động vốn như:
khuyên khích các thành phần kinh tế đầu tư trực tiếp để phát triển sản
xuất kinh doanh, thu hút các nguồn vốn nước ngoài... thì BHNT cũng
là một trong những biện pháp huy động tiền nhàn rỗi trong nhân dân
có hiệu quả. Chính vì vậy, nếu huy động được mọi tầng lớp nhân dân
tham gia BHNT một cách tự giác thì đây là nguồn vốn đầu tư dài hạn

có hiệu quả góp phần giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi
suất cao trong điều kiện khó khăn hiện nay.
Không những thế BHNT còn góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Do vốn đầu tư ban đầu cho một công ty BHNT rất lớn nên khi các
công ty bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động, nguồn vốn đầu tư của họ
sẽ tham gia vào thị trường vốn của nước sở tại cung cấp vốn cho các
dự án phát triển kinh tế. Hơn nữa, cũng do đặc thù của loại hình
BHNT là thời hạn bảo hiểm dài vì vậy nguồn vốn do công ty BHNT
cung cấp cho nước sở tại là nguồn vốn dài hạn. Như vậy, BHNT phát
triển cũng là một hình thức thu hút vốn nước ngoài khá hiệu quả.

-

BHNT góp phần tạo lập nên một phong cách tập quán sống mới.Tham
gia BHNT thể hiện một nét sống đẹp đó là biết tự lo lắng cho tương lai
của mình và quan tâm đến tương lai của người thân đồng thời góp
phần giáo dục con em mình về đạo đức tính tiết kiệm cần cù và sống
có trách nhiệm đối với người khác.

-

BHNT góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như: xóa đói giảm
nghèo, bù đắp những tổn thất bất hạnh trong cuộc sống và góp phần
giải quyết gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động về hưu
và người già.

-

BHNT góp phần việc làm cho những người lao động để góp phần phát
triển kinh tế. Đây là những đóng góp rất đáng kể của BHNT cho sự

phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.

III. Giới thiệu chung về các sản phẩm BHNT.
1. Đặc trưng của sản phẩm BHNT.
8


- Sản phẩm BHNT là sản phẩm có định hình:
Sản phẩm BHNT trước hết là sự bảo đảm về mặt vật chất trước rủi ro
cho khách hàng và kèm theo nó là các dịch vụ hỗ trợ có liên quan.
Vào thời điểm bán sản phẩm chủ yếu mà các công ty bảo hiểm cung
cấp là lời hứa lời cam kết bất thường hay trả tiền bảo hiểm của nhà
bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm hay người người được bảo hiểm
sống đến một độ tuổi nhất định. Đó là những sản phẩm vô hình mà
người bán không thẻ cảm nhận được bằng giác quan và không thể chỉ
ra được mầu sắc kích thước của nó. Người mua buộc phải tin vào lời
hứa của người bán.
- Sản phẩm BHNT là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch”.
Sản phẩm BHNT khác với các sản phẩm thông thường ở chỗ nó chỉ là
một lời hứa, lời cam kết của nhà bảo hiểm đối với khách hàng khi xảy
ra sự cố bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm
xác định. Do vậy, lời hứa này cũng bấp bênh và xê dịch theo thời gian
bởi vậy khi mua bảo hiểm khách hàng có muốn xảy ra sự cố có thiệt
hại để hưởng số tiền bảo hiểm hay trả tiền bảo hiểm và từ thời điểm
mua đến thời điểm biết thực sự “ giá sử dụng” của sản phẩm BHNT là
khoảng thời gian có thể là khá dài: sản phẩm tiết kiệm và hưu trí
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có “chu trình sản phẩm kinh doanh
đảo
ngược”.
Các doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước mà họ nhận phí

bảo hiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện
nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do vậy
không tính toán được hiệu quả chính xác của một sản phẩm bảo hiểm
vào thời điểm bán sản phẩm.
- Sản phẩm BHNT là sản phẩm dễ bắt chước.
Một hợp đồng BHNT dù là bản gốc cũng được cấp bằng phát minh sáng
chế và không được bảo hộ về bản quyền, về lý thuyết, mọi doanh
nghiệp đều có thể bán một cách hợp pháp những hợp hợp đồng là bản
sao của đối thủ cạnh tranh ngoài trừ tên và các tờ tuyên truyền quảng
cáo.
2. Các sản phẩm BHNT:
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác. Đối với nhữn người
người tham gia mục đích chính của họ là bảo vệ tài chính cho gia đình và
9


những người phụ thuộc khác tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ
của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai ...
Do vậy người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT , thực
chất là đa dạng hoá các loại hoạt động nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu
cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, có bốn loại hình BHNT cơ
bản.
- Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn:
Nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Số tiền
bảo hiểm chí được thanh toán trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong
trong thời hạn bảo hiểm. Nếu người được bảo sống qua thời hạn bảo hiểm sẽ
không được thanh toán bất cứ khoản nào. Độ dài của thời hạn bảo hiểm khác
nhau. Tuy nhiên, ngày nay thời hạn bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm sinh
mạng có thời hạn ít khi dưới một năm. Đặc điểm cơ bản của loại sản phẩm
này là:

+ Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết trong thời
hạn được bảo hiểm.
+ Phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm và đóng định
kỳ.
+ Thời hạn bảo hiểm được xác định theo năm và theo tuổi.
+ Không có giá trị giải ước.
- BHNT trọn đời:
Đây là loại hình bảo hiểm có thời hạn không xác định và số tiền bảo
hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm chết. BHNT trọn đời kết hợp hai
yếu tố tiết kiệm với rủi ro trong khi bảo hiểm sinh mạng có thời hạn chỉ bao
gồm yếu tố rủi ro mà không trả thêm bất cứ quyền lợi bảo hiểm nào.
Một số đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này:
+ Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người được bảo hiểm chết.
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.
+ Phí bảo hiểm được đóng định kỳ và không thay đổi.
- BHNT hỗn hợp:
Hợp đồng BHNT hỗn hợp đảm bảo rằng số tiền bảo hiểm được trả mà


nếu còn sống. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn họp đồng thì
số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho người hưởng thụ quyền lợi bảo hiểm vào
ngày người được bảo hiểm chết.
Một số đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này:
+ Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết trong
thời hạn bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm còn sống.
+ Thời hạn bảo hiểm xác định thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm ...
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời
gian đóng phí.
+ Có giá trị giải ước.
- Bảo hiểm trợ cấp hưu trí:

Công ty BHNT có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ hàng tháng hay quí cho
người được bảo hiểm cho đến khi chết.
Đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này là:
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định
+ Phí bảo hiểm đóng 1 lần.
+ Trả trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm từ khi ký hợp đồng cho
đến khi chết.
3. Tính ưu việt của các sản phẩm BHNT:
- Thứ nhất: Tính đa mục đích của BHNT.
Đối với các loại hình bảo hiểm khác; người tham gia bảo hiểm chỉ có
mục đích là khi xảy ra rủi ro được trả một số tiền đủ lớn để bù đắp các khoản
chi phí. Còn khi tham gia BHNT, ngoài mục đích trên người tham gia chắc
chắn sẽ nhận lại được một khoản tiền đã định trước khi hết hạn họp đồng hoặc
là vào đúng lúc họ cần nhất. BHNT tạo ra khoản thu nhập cho gia đình người
tham gia bảo hiểm trong trường hợp người tham gia bảo hiểm là người trụ cột
gia đình bị tử vong. Hơn nữa, hợp đồng BHNT còn là vật thế chấp để người
được bảo hiểm có thể vay của ngân hàng khi tiến hành hoạt động kinh doanh
... Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nên loại hình này có thị trường
ngày càng rộng và được nhiều người quan tâm.
Thứ hai: BHNT là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự
kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng (sống và chết).
11


mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm) cho
người bảo hiểm, ngược lại người bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn
(số tiền bảo hiểm) cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận
trước khi có sự kiện xảy ra. Số tiền BH này được trả cho người được bảo hiểm
đạt đến một độ tuổi nhất định được ấn định trong hợp đồng hoặc số tiền này
được trả cho thân nhân và gia đình người được BH khi không may họ mất sớm

ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí
bảo hiểm. Chính vì vậy, BHNT vừa mang tính bảo hiểm vừa mang tính rủi ro.
Thứ tư: Trong BHNT không áp dụng nguyên tắc bồi thường mà áp dụng
nguyên tắc khoán.
Nguyên tắc khoán trong BHNT có một lợi thế đặc biệt đối với người
được bảo hiểm. Bởi vì, cùng một người được bảo hiểm có thể tham gia BHNT
trong nhiều nghiệp vụ và nhiều hợp đồng khác. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
mà những sự kiện này được bảo hiểm ở tất cả các hợp đồng; các nghiệp vụ thì
số tiền chi trả cho người được BH hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ
được cộng lại. 0 đây không có sự kiếm lời từ bảo hiểm vì các khoản chi trả tỉ
lệ với các khoản phí phải nộp.
Thứ năm: Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố vì vậy quá
trình định phí khá phức tạp:
Trong một nền kinh tế động, phí BHNT phụ thuộc chủ yếu vào các yếu
tố: số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia bảo hiểm; lãi suất đầu tư; độ tuổi của
người được BH ... Thế nhưng, khi định giá phi bảo hiểm nhân thọ , một số yếu
tố nêu trên phải giả định như tỉ lệ chết; tỉ lệ huỷ bảo hiểm; tỉ lệ lạm phát... Vì
thế quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của
mỗi loại sản phẩm; phân tích dòng tiền tệ; phân tích chiều hướng tăng của một
sản phẩm trên thị trường nói chung.
Thứ sáu: BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định.
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng
phát triển là điều kinh tế xã hội phải phát triển.

CO’

sở chủ yếu để BHNT ra đời và

IV. Quy trình triển khai sản phẩm BHNT:

Năm 2000, là năm đánh dấu sự hình thành và phát triển của thị trường
BHNT Việt Nam bởi sự xuất hiện của nhiều công ty BHNT nước ngoài: AIG,
Prudential, Chinfon-Manulife và liên doanh: Bảo Minh - CMG (úc) cùng với
Bảo Việt - Công ty bảo hiểm nhà nước đang cùng nhau chiếm lĩnh thị trường
BHNT trong nước. Để mở rộng thị phần các công ty phải ra sức đa dạng hoá
sản phẩm bảo hiểm để phục vụ các nhu cầu khác của các tầng lớp dân cư trong


xã hội. Một việc làm cần thiết để sản phẩm ra đời dễ chấp nhận là công ty
hiểm cần nghiên cứu kĩ các quy trình triển khai các sản phẩm BH nhằm
rộng chủng loại mặt hàng sản phẩm đang có để tăng thêm tính hấp dẫn
sản phẩm và đưa ra các nghiệp vụ mới để bổ sung phần còn thiếu trong
chủng loại sản phẩm đang có của công ty.

bảo
mở
của
các

Quy trình triển khai một sản phẩm bao gồm các bước:
+ Xác định sản phẩm (thường là sản phẩm mới)
+ Khai thác sản phẩm đó.
+ Đề phòng và hạn chế tổn thất.
+ Giám định và bồi thường.
Thiết kê sản phẩm mới:
Sản phẩm BHNT mới là sản phẩm BHNT chưa có trong danh mục
nghiệp vụ BH hiện hành hoặc là loại nghiệp vụ đã có trong danh mục nhưng
đặt thêm loại có mức độ trách nhiệm mới và phí mới hoặc kết họp vài ba loại
cũ thành một loại mới.
Để đưa ra sản phẩm mới được người tiêu dùng chấp nhận thì công ty

phải chú trọng nghiên cứu thị trường; tăng tính độc đáo của sản phẩm và đặc
biệt công ty phải tăng tính đồng bộ của danh mục sản phẩm tức phải có sản
phẩm đại trà, sản phẩm cao cấp, sản phẩm thường xuyên và sản phẩm thời vụ.
Quy trình xác định sản phẩm mới được công ty bảo hiểm đánh giá vì
đây là bước để giúp người tiêu dùng có khả năng nhận biết được sản phẩm
mới. Trong bước này công ty cần:
+ Đặt tên sản phẩm mới tránh sự nhầm lẫn với tên sản phẩm đã có.
+ Quy định các điều khoản bảo hiểm, các mức trách nhiệm.
+ Tính mức phí cơ bản và các mức phí tương ứng với các điều khoản
bảo hiểm.
2. Khai thác sản phẩm mói:
Đây là khâu quan trọng nhằm đưa sản phẩm mới trở thành sản phẩm
hoàn thiện đến với người có nhu cầu. Nó gồm 4 bước:
13


+ Lập hợp đồng và hoàn tất các thủ tục khác.
Do đặc thù của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không định hình do vậy
vấn đề cốt lõi nhất là công ty bảo hiểm phải tìm hiểu được nhu cầu khách
hàng xem họ cần gì để tiến hành tổ chức tuyên truyền quảng cáo. Mỗi nghiệp
vụ BHNT thì chúng ta sẽ có cách nắm bắt nhu cầu cũng như tuyên truyền
quảng cáo khác nhau:
Công tác cung cấp thông tin chi tiết cho khách hàng là một trong những
biện pháp chiếm được lòng tin của khách hàng nhất. Với sản phẩm BHNT
công ty có thể dựa vào những thông tin mà khách hàng cung cấp: tuổi, giới
tính, thu nhập để giới thiệu với khách hàng sản phẩm phù hợp với họ tăng uy
tín đối với khách hàng.
Chào phí có tác động rất mạnh đối với khách hàng do vậy đòi hỏi công
ty cần đi sâu vào điều kiện thực tế của từng khách hàng và giải thích cho họ rõ
với mức phí này phù hợp với thực tiễn của họ, tránh trường hợp huỷ hợp đồng

hay dừng đóng phí trong một thời gian.
Khi khách hàng có ý định tham gia bảo hiểm thì công ty có trách nhiệm
lập hợp đồng và hoàn tất các thủ tục khác nếu có.
Đế khai thác sản phẩm mới có hiệu quả công ty có thể khai thác theo hai
hướng đó là:
+ Khai thác trực tiếp: do cán bộ công ty làm
+ Khai thác gián tiếp: do đại lý hoặc công ty môi giới làm
3. Đề phòng và hạn chẻ tổn thất:
Một số người tham gia bảo hiểm cho rằng khó có thể xảy ra tổn thất do
họ thiếu kiến thức về điều kiện tự nhiên ; vệ sinh an toàn thực phẩm... do vậy
trước khi chuẩn bị hợp đồng, công ty cần xem xét kỹ đối tượng được bảo hiểm
để phát hiện những chi tiết đáng ngờ hoặc những điều kiện không phù họp với
qui định bảo hiểm. Trong BHNT các công ty cần quan tâm đến tình trạng sức
khoẻ của khách hàng cũng như lối sống của họ. Công ty cần thuyết phục
khách hàng cần thực hiện một số biện pháp đề phòng rồi mới ký hợp đồng.
Khi hợp đồng đã ký kết, chưa xảy ra tổn thất thì các công ty BHNT cần
tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho khách hàng trong trường hợp rủi ro.
Ngược lại, khi đã xảy ra tổn thất thì công ty cần có các biện pháp hạn chế tổn

14


Đây là khâu quyết định uy tín của công ty. Nó diễn ra theo hai xu
hướng: khách hàng đòi bồi thường nhều và công ty bồi thường đúng. Nếu
chúng ta xử lí không đúng sẽ làm mất lòng khách hàng, giảm uy tín của công
ty nên với mọi tổn thất được khách hàng thông báo đều phải được giám định
một cách nhanh chóng để các tang vật và vật chứng không bị phân tán và
trong quá trình giám định phải tạo bầu không khí tin cậy và họp tác giữa người
được bảo hiểm và người giám định viên nhưng tuyệt đối không đưa bất kỳ
cam kết nào về số tiền bồi thường hoặc nói cho khách hàng cách thanh toán số

tiền bồi thường để tránh trường họp lạm dụng bảo hiểm. Trong BHNT cần
xem xét kỹ nguyên nhân gây ra rủi ro: tự sát; khai sai thương tật, thưong tích
tránh trường hợp gian lận, trục lợi bảo hiểm.
Sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ giám định nếu tổn thất thuộc phạm vi
bảo hiểm thì cán bộ bảo hiểm có trách nhiêm hoàn tất các thủ tục trả tiền bảo
hiểm nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Ngược lại, nếu tổn thất không thuộc
phạm vi bảo hiểm thì cán bộ bảo hiểm phải lập công văn thông báo từ chối bồi
thườngvà giải thích cho khách hàng.
Trên đây là bốn bước để hoàn thành tố công tác triển khai một sản
phẩm bảo hiểm. Hy vọng rằng một sản phẩm ra đời sẽ được người tiêu dùng
thừa nhận và sử dụng nó.
V. Thị trường bảo hiểm nhân thọ.
1. Đặc trưng của thị trường BHNT:
Thị trường bảo hiểm nhân thọ là nơi diễn ra hoạt động trao đổi giữa người bán
bảo hiểm và người mua bảo hiểm và có thể có các tổ chức trung gian.
Các đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm nhân thọ:
+ Cung cầu và giá chấp nhận của thị trường BHNT
+ Cạnh tranh và liên kết
+ Thị phần.
a. Cung cầu và giá chấp nhân của thỉ trường BHNT.
Cung của thị trường BHNT là hoạt động của các công ty BHNT nhằm
cung cấp các dịch vụ BHNT. Trước năm 1999 cung của thị trường BHNT rất
nghèo nàn bởi chỉ có duy nhất Bảo Việt hoạt động trong lĩnh vực BHNT, còn
đến nay thị trương bảo hiểm Việt Nam đã có 5 doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ gồm: Bảo Việt; Prudential; Bảo Minh - CMG;
15


và số lượng các đơn bảo hiểm tăng nhanh. Có thể nói cung của thị trường
BHNT Việt Nam rất phong phú và đa dạng.

Cầu là mong muốn sự bảo đảm của cá nhân và tập thể. Cầu của BHNT
là cầu “bị động”. Đối với các cá nhân, cầu bảo hiểm phụ thuộc vào mức sống,
dân trí; còn đối với doanh nghiệp, cầu bảo hiểm phụ thuộc vào qui mô sản
xuất. Ớ nước ta hiện nay, BHNT mặc dù đã được người dân biết đến tương đối
nhiều nhưng đế thực sự hiểu về nó thì rất ít người biết. Khi nền kinh tế tăng
trưởng tạo ra một bộ phận dân cư có thu nhập cao trong xã hội ngoài khoản
tiền sử dụng chi tiêu hàng ngày họ còn có khả năng để ra một khoản khác để
tiến hành đầu tư. Một cách đầu tư có hiệu quả là tham gia BHNT. Họ sẽ có
những lựa chọn các công ty bảo hiểm thông qua hoạt động quảng cáo; khả
năng khai thác của cán bộ công ty; tính ưu việt của mỗi loai sản phẩm nhân
thọ... Năm 2000, đánh dấu sự hình thành và phát triển của thị trường BHNT.
Các công ty ra sức tuyên truyền quảng cáo. Tuy nhiên đối với các công ty bảo
hiểm nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (vốn nước ngoài) đều
“mượn” danh nghĩa về vốn và kinh nghiệm của công ty mẹ. Vốn họ đem đi
đầu tư tại Việt Nam chỉ ở mức khiêm tốn (vài triệu $) và với chi phí quảng
cáo, giới thiệu sản phẩm của mình bằng nhiều cách họ giới thiệu những khách
hàng tiềm năng các sản phẩm của mình qua những hình ảnh đẹp, câu nói ấn
tượng... và trong lĩnh vực quảng cáo này rõ ràng các doanh nghiệp nước ngoài
hơn hẳn các doanh nghiệp Việt Nam về qui mô và chất lượng chương trình. Vì
vậy, người tham gia bảo hiểm Việt Nam sẽ có những lựa chọn sai lầm về các
công ty BHNT; loại hình BHNT phù hợp. Để tránh tình trạng trên, người tham
gia bảo hiểm Việt Nam cần trang bị cho mình một kiến thức khái quát về lĩnh
vực bảo hiểm; xét kỹ các điều khoản, điều kiện của hoạt động BHNT trước khi
ký quyết định tham gia một loại hình bảo hiểm nào đó đặc biệt khi mà cầu về
BHNT ngày càng lớn.
Khi cung và cầu bảo hiểm gặp nhau thì giá cả được ấn định. Với mỗi
loại hình bảo hiểm có rất nhiều mức trách nhiệm khác nhau cho nhiều người
có thể lựa chọn. Mỗi công ty bảo hiểm sẽ thiết kế ra một biểu phí cho công ty
mình.
Từ khi ra đời đến năm 1999 trên thị trường bảo hiểm chỉ có một công ty

bảo hiểm nhân thọ duy nhất vì vậy công ty này độc quyền về lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ. Bước sang năm 1999 có 5 công ty BHNT hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam. Sự có mặt của các công ty này đã làm nóng lên thị
trương BHNT Việt Nam, hơn nữa sự tham gia vào thị trường của các công ty
bảo hiểm nhân thọ này cũng khởi đầu cho quá trình phân chia thị trường. Đây
chính là thời điểm các công ty BHNT cạnh tranh gay gắt để nâng cao uy tín và
16


giành thị phần. Bởi sau khi thị trường được phân chia xong, khả năng mở rộng
thị phần đối với mỗi công ty là rất khó khăn. Thực trạng trên đòi hỏi các công
ty phải có một cách nhìn mới trong chiến lược kinh doanh. Vì vậy, Bảo hiểm
nhân thọ Hà Nội đã đề ra phương châm: “ Phục vu khách hàng tốt nhất để phát
triển” và tiến hành một số biện pháp cải tiến, đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ
đặc biệt là chất lượng phục vụ khách hàng nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu
ngày càng phong phú và khắt khe của khách hàng.
Sons song với quá trình cạnh tranh là quá trình liên kết. Với thị trường
BHNT ngày càng sôi động đòi hỏi các công ty phải liên kết với nhau để tồn tại
và phát triển. Hiện nay, Việt Nam đã có một công ty BHNT liên doanh đó là
Bảo Minh - CMG giữa một bên là Bảo Minh (Việt Nam) với một bên là CMG
(úc).
b. Thi phần của công ty bao hiểm.
Thị phần là phần thị trường bảo hiểm mà công ty bảo hiểm chiếm hữu
được và thị phần của các công ty bảo hiểm là do cạnh tranh mà có. Muốn mở
rộng thị phần thì phải thu hẹp thị phần của công ty bảo hiểm khác hoặc mở
rộng thị trường thực tế bằng cách đánh vào các bộ phận không tiêu dùng tương
đối bằng quảng cáo, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hoá sản
phẩm bảo hiểm và có thể đánh vào bộ phận không tiêu dùng tuyệt đối bằng
cách đa dạng hoá sản phẩm.
2. Các yếu tô tác động đến sụ phát triển của thị trường của BHNT.

Năm 2000 là năm khởi đầu đánh dấu sự cạnh tranh thực sự trong các
hoạt động về kinh doanh về BHNT trên thị trường Việt Nam. Các công ty ra
sức chiếm lĩnh thị phần của nhau do vậy công tác mở rộng thị trường có ý
nghĩa quyết định đối với mỗi công ty.
Các công ty bảo hiểm sẽ tự thiết kế cho mình một mô hình tổ chức phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi phòng ban trong công ty. Mô hình này
chống lại sự cồng kềnh, quan liêu. Nó phải đem lại sự linh hoạt, chính xác
trong các quyết định đưa ra đảm bảo nắm được đúng thời cơ của thị trường.
Có như vậy công ty bảo hiểm mới mở rộng thị phần của mình.
Một yếu tố đóng góp quan trọng trong việc mở rộng thị phần của công
ty BHNT đó là đội ngũ lao động trong công ty. Hiện nay, một mặt các công ty
đa dạng hoá sản phẩn, mặt khác các công ty cũng luôn coi trọng việc đào tạo
và đào tạo lại cán bộ nhất là loại hình bảo hiểm nhân thọ - loại hình bảo hiểm
mới. Nhu cầu BHNT ở Việt Nam hiện nay còn ở dạng tiềm năng, do vậy thị
trường BHNT còn nhiều thay đổi trong tương lai. đội ngũ đại lý của các công
ty không ngừng được nâng cao về chất lường và số lượng vì việc phân bố sản
17


phẩm BHNT chủ yếu được thực hiện thông qua các đại lý. Các nhân viên này
phải được trang bị đầy đủ các kiến thức về sản phẩm BHNT, có năng lực thực
sự, phải tự tin khi đứng trước khách hàng... . Trong nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh là tất yếu nhưng có lẽ tuyển nạp và sử dụng đại lý trên cơ sở tăng
hoa hồng và các điều kiện vật chất khác giữa các công ty bảo hiểm hoặc phải
là biện pháp hữu hiệu mà việc tuyển dụng và đào tạo thường xuyên là cách tốt
nhất để mỗi công ty có một đội ngũ giỏi thu hút số khách hàng lớn nhằm mở
rộng thị phần của mình.
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “vô hình” do vậy công việc quảng cáo
được coi trọng để giúp người dân thực sự hiểu về nó. Hiện nay, cầu về BHNT
rất lớn nhưng mọi người vẫn còn lo ngại về loại hình này nên quảng cáo để

giúp cho mọi người hiểu và giúp cho thị trường BHNT phát triển.
Các yếu tố về kinh tế - xã hội phát triển cũng là nhân tố giúp thị trường
BHNT phát triển. Khi kinh tế - xã hội phát triển nhu cầu BHNT sẽ phát triển
theo vì nhu cầu BHNT xuất hiện sau các nhu cầu khác. Nhu cầu của người dân
càng phong phú và đa dạng thì nhu cầu BHNT cũng đa dạng theo xuất hiện
nhiều loại hình bảo hiểm mới. Tới lúc đó thị trường BHNT thực sự phát triển
và hoàn thiện.
VI. Kỉnh nghiệm triển khai BHNT ở một sô nước.
ỉ.Kinh nghiệm triển khai BHNT ở Trung Quốc.
Trung Quốc là một nước có dân số đông do vậy nhu cầu về BHNT là rất
lớn. Vào đầu những năm 1990, Công ty Bảo hiểm Nhân Dân Trung Quốc
(PICC) là nhà cấp đơn bảo hiểm dặc quyền ở Thượng Hải. Ngày nay với việc
mở cửa thị trường bảo hiểm, PICC đang phải đối đầu với gần chục các đối thủ
cạnh tranh khác. Sự xuất hiện của việc cạnh tranh mới này làm cho thị phần
của PICC giảm đi. Năm 1998, khi ngành công nghiệp BHNT trở thành khu
vực sinh lợi nhiều nhất và tăng nhanh nhất trong ngành kinh tế bảo hiểm ở
Thượng Hải, thì công ty BHNT PICC đã đạt mức thu nhập tăng mạnh với con
số 2,6 tỉ nhân dân tệ.
Việc tự do hoá ngành bảo hiểm ở Trung Quốc được khởi đầu bằng tập
đoàn bào hiểm kinh tế Mỹ (AIG). AIG là công ty bảo hiểm đầu tiên được cấp
giấy phép king doanh BHNT và phi nhân thọ ở Thượng Hải và sau đó là
Quảng Châu. AIA là chi nhánh của công ty AIG đã đưa vào một hệ thống các
đại lý tại trung Quốc đang khơi dậy nhu cầu mua BHNT hiện nay còn tiềm ẩn
trong số các khách hàng đầy cẩn trọng ở Trung Quốc và thức tỉnh các nhà bảo
hiểm trong nước lao vào hành động. Tuy 1Ĩ1Ở cửa thị trường bảo hiểm nhưng
Trung Quốc vẫn hạn chế tầm hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài.
18


2. Kinh nghiệm triển khai BHNT ở Thái Lan.

Thái Lan là nước mở cửa thị trường BHNT vào năm 1993. Sau 6 năm,
thị trường bảo hiểm Thái Lan có tổng số 110 công ty bảo hiểm trong đó có 10
công ty bảo hiểm nước ngoài (5 nhân thọ; 4 phi nhân thọ; 1 công ty bảo hiểm
có tính chất tổng họp). Cho đến nay, hoạt động của thị trường BHNT được coi
là thành công dựa trên những kinh nghiệm sau:
+ Đẩy mạnh việc mở cửa thị trường trong nước theo cách thức từng
bước và chia thành nhiều giai đoạn nhằm giảm bớt sự chèn ép từ công
ty bảo hiểm nước ngoài đối với hoạt động bảo hiểm trong nước.
+ Xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh và vững chắc đã chấn chỉnh
hoạt động của thị trường bảo hiểm.
+ Phải thực hiện quản lý chuyên nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
+ Nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng phục vụ của cán bộ
công nhân viên công ty bảo hiểm.
+ Phải nâng cao một cách thiết thực mức độ thông thoáng và uy tín
trong kinh doanh

19


PHẦN II
GIỚI THIỆU VỂ SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC
CỦA CÔNG TY BHNT HÀ NỘI
I. Hệ thông sản phẩm BHNT của Công ty BHNT Hà Nội
Từ ngày thành lập đến nay, công ty BHNT Hà Nội không ngừng cải tiến
và hoàn thiện hệ thống sản phẩm BHNT nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa
dạng và phong phú của khách hàng. Nhanh chóng tạo được chỗ vững chắc trong
điều kiện cạnh tranh hiện nay.
20



Ở rộng diện BH; có nhiều trách nhiệm cho khách hàng lựa chọn mặt khác công
ty còn ban hành những sản phẩm BHNT mới. Đó là:
+ BVNC1/1999: Bảo hiểm trọn đời.
+ BVND1/1999: Niên kim nhân thọ.
cùng hai điều khoản bổ sung đó là:
+ BVNR3/1999: Bảo hiểm sinh kỳ thuần tuý.
+ BVNR4/1999: Bảo hiểm tử kỳ.
Đến cuối năm 2000, công ty cho ra đời sản phẩm bảo hiểm tử kỳ nhóm
(BVNG/2000). Đây là sản phẩm độc quyền hiện nay trên thị trường BHNT Hà
Nội có được. Do vậy công ty cần có những biện pháp tích cực để thu hút số
lượng người tham gia ngày một nhiều.
n. Bảo hiểm An Sinh Giáo Dục của Công ty BHNT Hà Nội
1. Hợp đồng bảo hiểm:
Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng kinh tế và là văn bản thoả thuận trong đó
một bên cam kết trả một khoản tiền để nhận được sự giúp đỡ, bồi thường của bên
kia. Như vậy, qua định nghĩa trên ta có thể thấy rõ trong hợp đồng bảo hiểm có
hai đối tác đó là người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm và mỗi bên có thể
có rất nhiều thành viên.
Kết cấu của một họp đồng bao gồm:
-

Giấy yêu cầu bảo hiểm: là một văn bản trong đó người tham gia bảo hiểm phải
có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ các thông tin một cách trung thực về các vấn đề
liên quan đến đối tượng được bảo hiểm và các rủi ro có liên quan. Giấy yêu cầu
bảo hiểm thường mô tả đối tượng được bảo hiểm; mô tả rủi ro có thể gặp phải;
tên, địa chỉ người tham gia; lý lịch đối tượng được tham gia bảo hiểm; giá trị
bảo
hiểm; số tiền bảo hiểm; thời hạn bảo hiểm và cuối cùng là cam đoan của người
tham gia bảo hiểm. Thông qua giấy yêu cầu bảo hiểm; công ty bảo hiểm sẽ

thẩm
định đánh giá rủi ro xem có chấp nhận bảo hiểm không. Nếu chấp nhận bảo
hiểm công ty sẽ thông báo cho người tham gia bảo hiểm và tiến hành tĩnh phí
ngược lại công ty phải giải thích rõ ràng cho người tham gia bảo hiểm hiểu. Tuy
nhiên giấy yêu cầu bảo hiểm chưa phải là cam kết của hai bên nhưng nội dung
của nó là cơ sở của hoạt động bảo hiểm.

-

Giây chứng nhận bảo hiểm tạm 21
thời: Có hiệu lực trong một thời gian ngắn


Hợp đồng bảo hiểm là họp đồng mang nhiều tính chất đó là: song phưong, thoả
thuận, tán thành, ngẫu nhiên, phải trả tiền và trung thực tuyệt đối do vậy nó phải
được trình bày rõ ràng mạch lạc, tránh sự mập mờ. Trong hợp đồng bảo hiểm cần
phải ghi rõ các điều khoản rủi ro loại trừ cho người tham gia bảo hiểm hiểu,
tránh trường hợp hiểu sai sau này.
Sau khi thiết lập xong hợp đồng bảo hiểm, công ty phải sao làm hai hoặc ba bản
để một bản gửi cho khách hàng.
Hiệu lực của một hợp đồng bảo hiểm phụ thuộc vào đối tượng được bảo hiểm;
khả năng của các bên: đó là khả năng tài chính và khả năng pháp lí. Và một hợp
đồng bảo hiểm có hiệu lực khi và chỉ khi có sự chấp nhận của hai bên dựa trên
nguyên tắc trung thực tuyệt đối. Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực kể từ ngày công
ty nhận được số phí bảo hiểm đầu tiên theo yêu cầu từ phía người tham gia bảo
hiểm.
2. Đôi tượng bảo hiểm:
Trong hợp đồng bảo hiểm an sinh giáo dục tại công ty BHNT Hà Nội quy định:
-


Người tham gia bảo hiểm: Công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60; là
người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí
BH.

-

Người được bảo hiểm: Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 được Bảo
Việt chấp nhận bảo hiểm theo điều kiện và điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.

-

Người hưởng quyền lợi bảo hiểm: có thể là người tham gia bảo hiểm hoặc
người được bảo hiểm hoặc thân nhân của người được bảo hiểm. Nó sẽ được quy
định rõ ràng trong họp đồng bảo hiểm.

3. Phạm vi bảo hiểm:
Xuất phát từ những đặc trưng của BHNT mà phạm vi bảo hiểm gắn liền với cuộc
sống của con người. Do vậy, người ta phân rủi ro làm hai loại: rủi ro được bảo
hiểm (sự kiện được bảo hiểm) và rủi ro loại trừ (sự kiện không được bảo hiểm).
-

Rủi ro chỉ có thẻ được bảo hiểm khi có các điều kiện:
+ Rủi ro đó phải đảm bảo số đông các rủi ro tương tự: nhà bảo hiểm sẽ
không nhận bảo hiểm cho một rủi ro duy nhất vì khi đó quan hệ giữa nhà
bảo hiểm với người được bảo hiểm sẽ trở thành trò cá cược.
+ Phải là biến cố bất ngờ không cố ý.
+ Tổn thất có thể xác định được và có thể tính toán được.
22



+ Khả năng xảy ra tổn thất có thể xác định được.
+ Phí bảo hiểm hợp lí về mặt kinh tế.
Có thể phân biệt rủi ro được bảo hiểm thành 3 loại:
- Rủi ro còn sống: người được bảo hiểm sống hết hạn hợp đồng bảo hiểm.
- Rủi ro tử vong: rủi ro này có thể phát sinh do tai nạn hoặc bệnh tật.
- Rủi ro thương tật: phát sinh trong trường hợp người được bảo hiểm bị tai
nạn bị thương tật bộ phận hoặc toàn bộ vĩnh viễn.
Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong BHNT còn có quy định về rủi ro
loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro này nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà
bảo hiểm mặt khác gián tiếp giáo dục với mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật, tôn
trọng pháp luật: tự có ý thức đề phòng và hạn chế tổn thất.
Trong bảo hiểm, các rủi ro loại trừ là những rủi ro xảy ra do một số nguyên nhân
sau:
- Hành động cố ý của người được bảo hiểm; người tham gia bảo hiểm
hoặc người thừa kế hợp pháp.
- Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm; người tham gia
bảo hiểm.
- Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu bia; ma
tuý hoặc các chất kích thích tương tự.
- Do động đất, núi lửa.
- Do chiến tranh, bạo động...
4. Trách nhiệm và quyên lợi của các bên:
Trách nhiêm của các bên:
-Về phía người tham gia bảo hiểm:
+ Phải có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm: đây là trách nhiệm chính của
người tham gia bảo hiểm. Khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sở xác định
thời điểm ban đầu có hiệu lực hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm phải

23



cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng; thực hiện tốt
công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
+ Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm khai báo tổn thất khi có tổn
thất rủi ro xảy ra. Người tham gia bảo hiểm (người được hưởng quyền lợi
bảo hiểm của người thừa kế hợp pháp) phải khai báo cụ thể tình hình của
sự cố tổn thất đó; tình hình sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty
bảo hiểm. Đồng thời, họ phải cung cấp đầy đủ thông tin cho công ty để
công ty có căn cứ giám định và thanh toán tiền bồi thường bảo hiểm kịp
thời.
-Về phía công ty bảo hiểm:
Công ty bảo hiểm là một bên trong hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định thì họ có
trách nhiệm thu phí; lập và sử dụng quỹ bảo hiểm. Đồng thời công ty có trách
nhiệm chi trả số tiền bảo hiểm khi có sự cố bảo hiểm xảy ra đối với người được
bảo hiểm.
* Ouxêti lơi bảo hiểm:
- Trường hợp người được bảo hiểm tròn 18 tuổi, khi hợp đồng bảo hiểm đáo hạn,
Bảo Việt sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm được cam kết trong
hợp đồng.
-

Trường hợp người được bảo hiểm chết trước ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn,
Bảo Việt sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp.

- Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết:
+ Do xảy ra tai nạn sau 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực,
Bảo Việt sẽ dừng thu phí bảo hiểm tử kỳ thu phí bảo hiểm tiếp theo sau
ngày xảy ra tai nạn. Trường hợp xảy ra tai nạn trước thời gian 1 ngày nói
trên; Bảo Việt sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho người thừa kế
hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ.

+ Do các nguyên nhân khác (trường hợp tự tử và nhiễm HIV)
> Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm, Bảo Việt sẽ hoàn trả cho
người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm đã
nộp và hợp đồng này sẽ bị huỷ bỏ.
> Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực 1 năm trở lên Bảo Việt sẽ dừng thu phí
bảo hiểm kể từ ngày đó đến ngày thu phí tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai
nạn và hợp đồng vẫn được duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm.

24


> . Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chứa đủ 2 năm, Bảo Việt sẽ hoàn trả cho
người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm đã
nộp và hợp đồng nay sẽ bị huỷ bỏ.
> . Khi hợp đồng bảo hiểm có đủ hiệu lực từ 2 năm trở lên, Bảo Việt sẽ dừng
thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo sau ngày xảy ra tai nạn
và hợp đồng vẫn được tiép tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm.
-

Trường họp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị thương tật
toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn:
+ Người tham gia bảo hiểm do xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm sau
1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, Bảo Việt sẽ dừng thu phí
từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo sau ngày xảy ra tai nạn. Trường hợp người
tham gia bảo hiểm xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm trước 1 ngày nói
trên; Bảo Việt sẽ dừng thu phí và hoàn lại 80% số phí cho người tham gia
bảo hiểm và họp đồng bị huỷ.
+Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai
nạn xảy ra sau một ngày kể từ khi họp đồng bảo hiểm có hiệu lực, Bảo
Việt sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số

tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn. Trường
họp tai nạn xảy ra trước 1 ngày nói trên, Bảo Việt hoàn trả 80% số phí bảo
hiểm đã nộp cho người tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm sẽ bị
hủy. Ngoài những quyền lợi mà người tham gia bảo hiểm (người được bảo
hiểm) chắc chắn sẽ nhận được như trên thì hàng năm tuỳ thuộc vào kết
quả hoạt động thông tin; công ty bảo hiểm sẽ chia thêm 1 khoản lãi cho
hợp đồng và thông báo cho người tham gia bảo hiểm vào ngày kỷ niệm
hàng năm của hợp đồng bảo hiểm ở năm thứ 5, thứ 10, thứ 15 hoặc khi
thanh toán giá trị giải ước hoặc vào ngày thanh toán bảo hiểm trong trường
hợp bị chết và trả cho được bảo hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng.

-

Trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày nộp bảo hiểm đầu tiên, người tham gia bảo
hiểm có quyền từ chối hoặc tiếp tục tham gia bảo hiểm và họ được nhận lại
100% số phí đã nộp.

- Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm có
quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn và được nhận lại một số tiền
(gọi là giá trị giải ước). Nếu người tham gia bảo hiểm do không đủ khả năng
tài chính để tiếp tục đóng phí thì vẫn có thể duy trì hợp đồng bảo hiểm với số
tiền bảo hiểm giảm...
5. Sô tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm :
25


Số tiền bảo hiểm chính là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với
người được bảo hiểm. Trong BHNT (cụ thể là bảo hiểm an sinh giáo dục) công
ty bảo hiểm đưa ra nhiều mức với số tiền bảo hiểm khác nhau đé khách hàng lựa
chọn số tiền phù họp với mình nhất.

Phí bảo hiểm :
BHNT là loại hình mang tính chất dài hạn; mang tính tiết kiệm và rủi ro
do đó quá trình định phí bảo hiểm rất phức tạp.
Phí BHNT phải được xác định sao cho tất cả các khoản thu trong tương lai
của công ty bảo hiểm từ khách hàng phải đủ trang trải các khoản chi phí và
khoản tiền bảo hiểm phải trả đồng thời và phải đảm bảo được mức độ lợi nhuận
của công ty. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là mục tiêu chính của các công
ty BHNT.
Phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm. Nó gồm hai phần: phí
thuần và phí hoạt động.
-

Phí thuần: Trong BHNT được xác định theo nguyên lí cân bằng thu chi. Trong
đó số chi chỉ bao gồm tiền bảo hiểm tử vong và số tiền chi trả khi hết hạn hợp
đồng ngoài ra không bao gồm các khoản chi nào khác.

-

Phí hoạt động: Trong BHNT thường gồm ba phần.
+ Phí khai thác hợp đồng mới (hoa hồng đại lí; kiểm tra y tế; chi phí phát
hành hợp đồng bảo hiểm...).
+ Chi phí thu phí.
+ Chi phí hoạt động (chi phí quản lí hợp đồng; chi phí hành chính...).

Cách xác định phí:
a. Phí thuần:
Hợp đồng bảo hiểm an sinh giáo dục là loại hợp đồng chia lãi nên yếu tố cơ bản
tác động lên phí đó là tỉ lệ chết thực tế và lãi suất đầu tư.
Bảng tỷ lệ tử vong là căn cứ để công ty ra quyết định quan trọng trong quá trình
định phí BHNT. Tỷ lệ tử vong là tỷ số giữa số người chết trong một khoảng thời

gian nhất định trên tổng số người sống tại một thời điểm khởi đầu khoảng thời
gian đó. Tỷ lệ tử vong thực tế thấp hơn dự kiến thì phần chênh lệch này là một
trong những cơ sở để nhà bảo hiểm tính toán lãi chia thêm cho khách hàng khi
26


Độ tuổi cuối cùng trong bảng là độ tuổi không ai còn sống. Bảng tỷ lệ tử vong
thường sử dụng các ký hiệu sau:
x: Độ tuổi
lx :

Số người sống tại độ tuổi X

dx : Số người tử vong giữa độ tuổi X và (x+1)
qx : Tỷ lệ tử vong ở độ tuổi X
px : Tỷ lệ sống ở độ tuổi X
Qua bảng tỷ lệ tử vong ta có đưa ra số lượng những người còn sống ở lứa
tuổi X sau n năm. Từ đó có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của
một người ở độ tuổi X sau n năm.
nQx = ỈỴ ỈJC+n
:xác suất của một người ở độ tuổi X chết trong vòng một

K

năm.
Các bảng tỷ lệ tử vong có đặc điểm là tỷ tử vong tăng dần theo độ tuổi cuối cùng
của bảng tỷ lệ tử vong bao giờ cũng có tỷ lệ tử vong bằng 1.
Hợp đồng BHNT có đặc điểm dài hạn và thu phí định kì do vậy nhà bảo
hiểm sau khi thu phí sẽ tiến hành đầu tư để thu lợi nhuận. Nếu đầu tư phí có hiệu
quả thì phí bảo hiểm ngày càng giảm làm tăng tính cạnh tranh của công ty trên

thị trường.
Trong nền kinh tế có rất nhiều loại lãi suất thì các công ty BHNT thường
sử dụng lãi suất kĩ thuật để tính phí. Lãi suất này thường được tính trên co sở
bình quân của một số lãi suất điển hình trong nền kinh tế (lãi suất ngân hàng; lãi
suất đầu tư; lãi suất tiết kiệm...). Tuy nhiên đối với những công ty BHNT thọ mới
thành lập kinh nghiệm còn ít thì thường xác định mức kỹ thuật xác định thấp hơn
mức lãi suất kỹ thuật của các công ty khác cùng loại để đảm bảo kinh doanh
chắc chắn, ổn định.
Ngoài ra, còn một số các nhân tố khác ảnh hưởng đến phí bảo hiểm: số
tiền BH; thời hạn bảo hiểm; cách thức nộp phí...
Xuất phát từ tính chất phức tạp của quyền lợi bảo hiểm trong hợp đồng
BHNT nên khi xác định phí bảo hiểm người ta phải tính đến từng trường hợp cụ
thể:
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng: (P,)
27


p =c-^v "
K
Trong đó:
x: Tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu nhận bảo hiểm.
lx: Số người được bảo hiểm.
l(x+n): Số người được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng,
1 v: Thừa số chiết khấu.

1+/
i: Lãi suất kĩ thuật.
C: Số tiền bảo hiểm.
n: Thời hạn hợp đồng.
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước

khi hết hạn họp đồng.
/7-1

A=I

^x+k ỵ p"

v

(*+l/2)

k=0

Trong đó:
k: Năm hợp đồng k.
P": Phí toàn phần.
d(x+k): Số người được bảo hiểm chết trong năm họp đồng k.
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương
tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn:
Theo quy định của nhiệm vụ này khi người được bảo hiểm bị thương tật
c
P3 =

•ẵ ĩỉ.^ - ị n - k \ v

k

Trong đó:
Tx+k: Số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm
hợp đồng k.

b. Phí hoạt động:
Phí hoạt động bao gồm:
28


×