Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

bào chế và chế biến đông dược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.12 KB, 145 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nền Y học cổ truyền nước ta có lịch sử lâu đời và phong phú gắn liền với cuộc đấu
tranh xây dựng và giữ nước của dân tộc. Từ xa xưa, cha ông ta đã biết sử dụng nguồn
dược liệu quí báu của đất nước để phòng và chữa bệnh.
Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã đúc kết được pho kinh nghiệm từ thực tiễn
cuộc sống về kiến tạo, khai thác, chế biến và sử dụng nguồn dược liệu song song với sự
hình thành của pho lý luận về y lý, phương thuốc, phương pháp bào chế, chế biến thuốc.
Những danh y nổi tiếng đã xuất hiện sáng chói, xuất chúng trong suốt quá trình phát
triển của lịch sử dân tộc như: Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh, thế kỷ 13), Trần Nguyên Đào
(thế kỷ 14), Nguyễn Trực (thế kỷ 15), Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác - thế kỷ 18)
và hàng chục danh y khác như Chu Văn An, Hoàng Đôn Hoà, Nguyễn Đình Chiểu....
Từ khi nước ta giành được độc lập năm 1945, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là
" y học hiện đại kết hợp chặt chẽ với y học cổ truyền ". Chính phủ mà trực tiếp là Bộ Y
tế không ngừng mở rộng và phát triển y học cổ truyền, trân trọng các phương thuốc cổ
truyền, bào chế thuốc theo phương pháp của y học cổ truyền.
Pho kiến thức về y lý, phương thuốc, vị thuốc và cách bào chế thuốc đã được các nhà
y học phương đông từ cổ chí kim tập hợp đến nay với một khối lượng khổng lồ. Việc
hiểu biết về đông dược là một yêu cầu bắt buộc đối với các thầy thuốc y học cổ truyền.
Thuốc là một trong những vũ khí quan trọng nhất mà thầy thuốc cần có để phòng và tiêu
diệt bệnh tật cho người bệnh và cộng đồng.
Học môn bào chế và chế biến đông dược, các thầy thuốc tương lai cần nắm vững
những kiến thức cơ bản về đặc điểm, phương pháp bào chế, tính dược và công năng chủ
trị của vị thuốc. Đặc biệt là hiểu biết về vị thuốc dưới ánh sáng của khoa học hiện đại.
Mỗi một vị thuốc chỉ chứa một hàm lượng mỗi hoạt chất là rất nhỏ bé, nhưng bào chế
đã tạo ra cho nó sự vĩ đại trong việc vai trò của người phòng bệnh, chữa bệnh và nâng
cao thể trạng của con người.
1


Giáo trình gồm bốn chương với nội dung như sau:
Chương 1: Đại cương bào chế đông dược


Chương 2: Thủ thuật và kỹ năng bào chế và chế biến đông dược
Chương 3: Chuyên luận bào chế, chế biến vị thuốc
Chương 4: Một số dạng đông dược thường dùng
Lần đầu tiên biên soạn, chúng tôi không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Mong được sự đóng góp của độc giả để giáo trình ngày càng được hoàn thiện.
Hà Nội, ngày 04 tháng 09 năm 2010
DS. Nguyễn Thị Hải
TS. Nguyễn Văn Quân

2


CHƯƠNG I

ĐẠI CƯƠNG BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC
(4 tiết)
MỤC TIÊU
1. Trình bày được khái niệm cơ bản và bản chất của bào chế, chế biến thuốc
2. Hiểu, phân tích và trình bày được mục đích của bào chế, chế biến thuốc
3. Nắm vững và trình bày được các yêu cầu của bào chế đông dược
4. Trình bày được mối quan hệ giữa bào chế thuốc và thất tình hoà hợp
NỘI DUNG
I – KHÁI NIỆM VỀ BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.
1.1. Định nghĩa
Theo y học hiện đại:
Bào chế học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về kỹ thuật điều chế các dạng
thuốc nhằm mục đích phòng và chữa bệnh cho người
Môn bào chế cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản về kỹ thuật điều
chế, kiểm tra, bảo quản các dạng thuốc.
Tuy nhiên, bào chế đông dược không chỉ bao gồm các dạng thuốc mà còn bao

gồm cả các vị thuốc.
Bào chế đông dược là sử dụng chế hoá cơ học, chế hoá lý hoá hoặc sinh
tổng hợp nhằm thay đổi hình dạng, lý tính, dược tính của các nguyên liệu có
nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc khoáng vật để đáp ứng yêu cầu
của quá trình sản xuất, bảo quản, kinh doanh, nâng cao hiệu quả phòng bệnh,
điều trị bệnh và nâng cao thể trạng con người.

3


Bản chất của bào chế chủ yếu gồm chế hoá lý hoá và chế hoá cơ học.
Bản chất chế hoá cơ học là lực tác động như: Thái, bào, tán, rây... nhằm thay
đổi hình dạng, kích thước, hình dáng, bề mặt tiếp xúc, hình khối v.v.. của thuốc
Bản chất chế hoá lý hoá là quá trình tác động của các yếu tố vật lý như nhiệt
độ, áp suất, ánh sáng kèm theo đó là các quá trình hoá học xảy ra (pH, thuỷ phân,
bay hơi, thăng hoa, loại trừ, tổng hợp v.v..). Hoả chế, thuỷ chế, thuỷ hoả hợp chế,
rán dầu, khúc, chế sương thuộc chế hoá lý hoá. Nó bao gồm các phương pháp bào
chế như: Sao trực tiếp, sao có thêm chất trung gian truyền nhiệt, trích ( tẩm rượu,
giấm, gừng, mật, muối, đồng tiện, nước vo gạo, hoàng thổ, nước đậu đen...), thuỷ
phi (nghiền dược liệu trong nước), thuỷ bào, hơ, chích, đốt, lùi, nung, sắc, ngâm,
hãm, hầm, nấu, đồ, chưng, ủ, làm trong v.v...
Tuy nhiên trong quá trình bào chế, hai cơ chế chế hoá lý hoá và chế hoá cơ
học thường được sử dụng xen kẽ với nhau.
Nói chung bào chế, chế biến thuốc là công việc biến đổi tính chất thiên nhiên
của dược liệu thành những vị thuốc có giá trị phòng bệnh và trị bệnh tốt nhất
Tóm lại: Chế biến thuốc cổ truyền là phương pháp tổng hợp của việc dùng
nước - lửa, phụ liệu để làm cho vị thuốc từ trạng thái thiên nhiên trở thành trạng
thái có thể sử dụng để phòng, trị bệnh và nâng cao thể trạng cho con người.
1.2. Nội dung nghiên cứu môn bào chế
Nội dung nghiên cứu của môn Bào chế Đông dược là tất cả những vấn đề đặt

ra trong quá trình chế biến của các dược liệu thành các chế phẩm và dạng thuốc,
sao cho các thành phẩm đó dễ bảo quản, kinh doanh, tiện sử dụng và phát huy tối
đa phòng bệnh và chữa bệnh
Như vậy, nội dung nghiên cứu của môn bào chế là rất rộng và dựa trên các vấn
đề cơ bản sau đây:
- Nâng cao kỹ thuật trên cơ sở cải tiến phương pháp bào chế cổ điển dựa trên
những thành tựu của khoa học, công nghệ
- Nghiên cứu triển khai từ qui mô phòng thí nghiệm đến qui mô công nghiệp
4


- Nghiên cứu để tìm ra các tác dụng mới, các dạng thuốc mới, bảo quản thuốc
tốt hơn.
- Nghiên cứu về kiểm nghiệm và bảo quản các dạng thuốc nhằm bảo đảm chất
lượng thuốc.
1.3. Mối liên quan giữa môn bào chế với các môn khoa học khác
Bào chế học là môn khoa học ứng dụng, vì vậy đòi hỏi người ứng dụng phải có
những kiến thức các môn khoa học cơ bản và các môn học chuyên môn nghiệp vụ
khác. Có thể khẳng định rằng Bào chế học là tổng hợp những phát minh có giá trị
của các ngành khoa học kỹ thuật khác. Mối liên quan giữa bào chế với các môn
khoa học khác được thể hiện qua sơ đồ sau:
Vật lý,
toán,
Hóa lí,
Hóa hữu cơ,
Hóa phân tích,
Hóa dược,
Quản lý dược,
Kinh tế
Bảo quản


Bào chế

Vi khuẩn học,
Độc chất học
Sinh hóa học,
Dược lí học
Thực vật,
Dược liệu,
Phương tễ,
Công nghiệp dược

II - MỤC ĐÍCH BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC.
2.1. Làm thuốc sạch và đảm bảo vệ sinh an toàn dược phẩm
Các tạp chất vô cơ và hữu cơ lẫn lộn trong dược liệu cần phải loại bỏ bao gồm:
nấm mốc, mối mọt, cát, sỏi, đất, xác thực vật chết v.v.....
Các loại không phải là dược liệu (tinh chế dược liệu) và những thành phần hoá
học được đưa vào khi trồng trọt và bảo quản thuốc men; các vi sinh vật luôn phải
loại trừ trong quá trình sơ chế, bào chế, chế biến dược liệu và thuốc.
Bỏ bớt các bộ phận không cần thiết của dược liệu để vị thuốc tinh khiết hơn,
5


lựa chọn được đúng bộ phận dùng: Mạch môn bỏ lõi; Ve sầu bỏ đầu, chân; Ngưu
tất bỏ đầu, Kim anh bỏ hạt, Bỏ vỏ tang bạch bì, bỏ rễ phụ tử......
Hơn nữa, trong cùng một dược liệu có thể phải tách ra các bộ phận dùng khác
nhau với tác dụng thậm chí trái ngược nhau như Ma hoàng (rễ và thân), Trắc bá
diệp (lá và hạt); Câu kỷ tử (vỏ rễ và quả)....
Ngoài ra để dễ sử dụng, tránh được các mùi vị khó chịu, giúp cho việc chiết
xuất (hãm, ngâm, sắc...) thuận lợi, nâng cao chất lượng dược liệu, chất lượng

thuốc và hiệu quả điều trị.
2.2. Tạo vị thế hàng hoá đặc biệt cho thuốc
Thuốc là hàng hoá đặc biệt. Việc bào chế, chế biến thuốc giúp đạt những tiêu
chuẩn qui định.
- Tạo ra vị thuốc có hình dáng, màu sắc đẹp, mùi vị thơm ngon hơn;
- Tạo tính hấp dẫn của vị thuốc, tính tiện lợi, tính hiệu quả trong việc sử dụng
và lưu chuyển.
- Xây dựng vị thế cho thuốc cao hơn trong lòng ngưòi tiêu dùng, thoả mãn nhu
cầu của người tiêu dùng, biến nó trở thành một hàng hoá đặc biệt trên thương
trường, có tính cạnh tranh cao, được y học hiện đại công nhận.
Ví dụ: Nhân xâm đóng hộp, Tam thất, Linh chi tán, Lục vị ẩm, một số chế
phẩm khác
Có thể phân chia vị thuốc đến kích thước, hình dáng hợp lý, tiện lợi, phù hợp
với thói quen người tiêu dùng. Ví dụ: Thuốc dạng phiến, dạng khúc, dạng bột...
2.3. Tạo ra tác dụng chữa bệnh mới cho thuốc.
Bào chế, chế biến một số vị thuốc có thể thay đổi tác dụng tạo ra các tác dụng
mới ngoài tác dụng vốn có của nó. Ngoài ra còn một số thuốc khi ở dạng nguyên
liệu thì không có tác dụng trị bệnh, chỉ có tác dụng trị bệnh và đưa làm thuốc sau
khi đã bào chế theo phương pháp riêng. Đó chính là biện pháp làm tăng hoặc giảm
tính âm, tính dương của thuốc.
6


Ví dụ:
- Bồ hoàng sống có tác dụng hoạt huyết, thán sao có tác dụng chỉ huyết.
- Táo nhân, Tâm sen để sống gây mất ngủ; sao đen có tác dụng an thần gây ngủ.
- Sài hồ có tác dụng (khuynh hướng) thăng đề, sau khi chế với dấm có tác dụng
giáng.
- Sinh địa (sống) vị đắng, ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lương huyết;
sau khi chế biến thành Thục địa. Thục địa này có vị ngọt, tính ôn, có tác dụng bổ

âm, bổ huyết (thay đổi cả khí và vị).
- Tóc chỉ làm thuốc cầm máu sau khi đốt tồn tính.
- Mẫu lệ, Cửu khổng, Trân châu mẫu nung hoặc tôi trong dấm có tác dụng cố
tinh sáp niệu.
- Xuyên sơn giáp sao cách cát hoặc nướng đến khi chín phồng đều được dùng
để hoạt huyết, giải độc, tiêu mủ.
- Thạch cao sống có tác dụng sinh tân chỉ khát, thanh nhiệt tả hoả nhưng sau
khi nung chủ yếu chỉ được dùng ngoài.
2.4. Tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc
Đây là mục đích trọng tâm của bào chế.
Theo lý luận chung, các chứng bệnh sinh ra đều xuất phát từ yếu tố nội thương
hoặc ngoại thương hoặc bất nội ngoại thương có liên quan đến các tạng phủ, vinh
vệ, khí huyết, đường kinh lạc, vùng bị bệnh..... không vượt quá qui nạp của âm
dương ngũ hành. Nhiều phương pháp chế biến thuốc khác nhau, phụ liệu khác
nhau để tăng tác dụng (hiệu lực) của thuốc và tạo cho thuốc có màu sắc, mùi vị
tương ứng với hành trong thuyết ngũ hành. Đây là giải pháp nhằm tăng tính quy
kinh của vị thuốc.
- Tăng tác dụng của thuốc ở tỳ, vị thì chế biến để vị thuốc có màu vàng, vị
ngọt, mùi thơm. Để tăng tác dụng kiện tỳ: Chế biến thuốc sao vàng, sao với Cám
gạo, sao với Hoàng thổ, Bích thổ, nước vo gạo, chích Mật ong, chích đường, chích

7


nước Cam thảo...Ví như tăng tác dụng kiện tỳ của Bạch truật thì chế với cám,
hoàng thổ hoặc sao vàng. Hoài sơn sao vàng; Hoàng kỳ trích mật....
- Tăng tác dụng của thuốc ở thận, bàng quang thì chế biến để vị thuốc có màu
đen, vị mặn. Qui kinh Thận: Chế biến thuốc với nước Muối, nước Đậu đen. Ví
dụ : Tăng tác dụng bổ thận của Hà thủ ô thì chế biến với nước đậu đen, Đỗ trọng
và Cẩu tích với muối.; Thục địa chưng; Hoa hoa thán và Trắc bách diệp thán sao

để cầm máu với ý nghĩa “đen chỉ huyết”....
- Tăng tác dụng của thuốc ở phế thì chế để vị thuốc có vị cay, màu trắng. Qui
kinh Phế: Chế biến thuốc với nước Gừng, nước Phèn chua, nước Cam thảo... Ví
dụ: Bán hạ, đẳng sâm chế dịch nước gừng. Rễ dâu bóc lấy vỏ, bỏ vỏ ngoài tạo
Tang bạch bì...
- Tăng tác dụng của thuốc ở tâm thì chế biến để vị thuôc có vị đắng, màu đỏ.
Qui kinh Tâm: Chế biến thuốc với nước Đồng tiện.
- Tăng tác dụng của thuốc ở can, đởm thì chế biến để vị thuốc có vị chua, màu
xanh. Qui kinh Can: Chế biến thuốc với Dấm. Ví dụ Hương phụ, Sài hồ, Huyền hồ
chế dấm....
Trên đây chính là phương pháp tăng tính qui kinh của vị thuốc, làm cho tác
dụng và chỉ định chữa bệnh của vị thuốc được mở rộng.
- Để dẫn thuốc phía trên để thăng đề, cần chế biến thuốc với rượu (như chế
Xuyên khung, Đại hoàng, Thăng ma...)
Một số chú ý quan trọng:
a/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh
bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh. Ví dụ:
Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị, không thể chế
biến để bổ can thận.
b/ Việc sử dụng các phụ liệu để chế biến thuốc phải phù hợp với tính qui kinh
bản thân vốn có của thuốc, không bừa bãi làm thay đổi tính chất qui kinh.
Ví dụ: Bạch truật qui vào kinh tỳ, vị. Chế biến để tăng tác dụng kiện tỳ vị,
8


không thể chế biến để bổ can thận.
c/ Người ta thường không dùng các phụ liệu làm ảnh hưởng tới tác dụng của
thuốc.
Ví dụ: Thuốc bổ thận dương tẩm Cam thảo sẽ hạn chế các thuốc đó qui kinh
thận; Ngưu tất là thuốc cố hạ, đi xuống phía dưới cơ thể nếu tẩm với nước Cam

thảo là thuốc cố trung sẽ làm cho Ngưu tất không phát huy tác dụng ở hạ tiêu.
d/ Có thể làm giao tính qui kinh của vị thuốc.
Ví dụ: Để giúp cho tâm thận giao nhau thì chế Hoàng liên với nước Nhục quế
hoặc ngược lại và nhằm mục đích dẫn dương vào âm, để tâm thận giao nhau giúp
vị thuốc có thêm tác dụng an thần gây ngủ.
e/ Để tăng thêm “vị” cho các thuốc về khí, về dương như thuốc bổ khí kiện tỳ,
thuốc bổ thận dương ... thường phải chế biến về vị.
Ví dụ: - Thuốc bổ thận dương thường tẩm thêm với muối ăn có “vị mặn” để
chúng có đủ cả khí lẫn vị cho thận làm cho tăng tác tác dụng của chúng đối với thận.
- Các thuốc bổ khí kiện tỳ cần bổ sung thêm vị nên chúng thường được chích
Mật ong, chích đường, sữa để có thêm vị ngọt.
Như vậy, khí và vị thường hỗ trợ nhau để tăng sức cho vị thuốc
2. 5. Giảm độc tính và tạo đường dùng mới cho thuốc
Hầu hết các dược liệu độc phải bào chế để giảm độc trước khi dùng cho người
bệnh.
Thuốc độc trong y học cổ truyền được chia làm hai loại: Loại có tác dụng
mạnh gây nguy hiểm đến tính mạng người dùng (tương đương như độc bảng A và
các thuốc gây nghiện) như Phụ tử, Hoàng nàn, Mã tiền... và loại khác gây kích
ứng ngứa, nôn... như Bán hạ, Nam tinh, Ráy...
Giảm độ độc tức là giảm mức độ độc gây nguy hiểm cho tính mạng, hoặc gây
kích ứng gây ngứa, buồn nôn.v.v... cho người sử dụng.
Muốn đạt điều đó, người ta phải sử dụng các phương pháp chế biến như:

9


2.5.1. Hoả chế
Dùng nhiệt độ để giảm độc tính của vị thuốc
Ví dụ: Sử dụng nhiệt độ cao từ 200˚C - 250˚C để phân huỷ chất độc trong
dược liệu như đối với Mã tiền..., sấy ở nhiệt độ trên 190˚C Bán hạ sẽ mất vị ngứa.

Chất độc bị phân huỷ theo 3 cơ chế sau:
- Nhiệt phân: Do độ cao phân huỷ một số thành phần hoá học cấu tạo nên vị
thuốc; các chất khác nhau sẽ bị phân huỷ ở mức độ khác nhau; men sinh học bị
giảm hoặc mất hoặt tính khi nhiệt độ tăng cao tới 100°C.
- Bay hơi: Một số chất dễ bay hơi như tinh dầu, một số chất có cấu tạo ester
- Thăng hoa: Antranoid, một số chất trong nhóm alcaloid (cafein...)
2.5.2. Thuỷ chế
Dùng nước hoặc phụ liệu ngâm, tẩm.... vị thuốc sẽ hạn chế được tác dụng bất
lợi theo cơ chế loại trừ hoặc thuỷ phân.
- Loại trừ: Sử dụng nước hoặc dịch phụ liệu hoà tan hoạt chất độc và một số
thành phần khác.
Độ tan của thành phần hoá học phụ thuộc vào độ pH của dịch ngâm. Alcaloid
dạng muối tan trong dịch có pH acid, coumarin tan tốt trong dịch có pH kiềm.
Ví dụ: Dịch ngâm nước vo gạo làm giảm hàm lượng alcaloid độc trong Hoàng
nàn, giảm ngứa của Ráy, giảm tanin và antranoid trong Hà thủ ô đỏ.
- Thuỷ phân: Nhiều thành phần có cấu trúc dễ bị thuỷ phân bởi nước (khi
ngâm hoặc ủ) thành chất khác.
Ví dụ: Thông qua các phương pháp bào chế, chất Aconitin trong Ô đầu (độc
bảng A) bị thuỷ phân thành Benzoylaconin có độ độc giảm 400 - 500 lần so với
Aconin, riêng Aconin có hàm lượng giảm 1000 - 2000 lần.
Sau khi bào chế sẽ tạo thêm hai vị thuốc mới là Phụ tử gồm Bạch phụ tử và
Hắc phụ tử (độc bảng B).

10


2.5.3. Thuỷ hoả hợp chế:
Ở nhiệt độ cao có dịch phụ liệu (chưng, cất, nấu.... để giảm nhanh độc tính) dễ
chuyển hoá thành phần chất độc trong dược liệu như đối với Phụ tử, Bán hạ.
Các phụ liệu được sử dụng bào chế với các vị thuốc độc để giảm độc như Cam

thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Magie clorid ( MgCl2), nước đảm ba...;
Các phụ liệu dùng bào chế để giảm vị ngứa trong thuốc như nước vôi, nước
Tro bếp, Gừng tươi , nước vo gạo, nước phèn chua..;
Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây nê trệ, đầy bụng như Sa
nhân, Sinh khương, rượu;
Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây táo bón như nước vo gạo,
Mật ong.
Tuy nhiên, chế biến không hợp lý có thể làm giảm hoạt chất dẫn tới làm giảm
chất lượng vị thuốc và giảm hiệu lực chữa bệnh của thuốc.
2. 6. Giảm tác dụng không mong muốn của thuốc.
Một số vị thuốc có thành phần hoá học gây tác dụng không có lợi cho người
bệnh như antranoid, saponin triterpenic, chất nhầy ... Các chất này thường gây ỉa
chảy ở người đang rối loạn tiêu hoá, một số tinh dầu gây kích ứng dạ dày. Thậm
chí một số chất gây tác dụng ngược lại với tác dụng của hoạt chất. Việc chế biến
có thể làm giảm hoặc mất tác dụng này là cần thiết để tăng hiệu lực trị bệnh, tăng
độ an toàn cho người bệnh.
Ví dụ: Quyết minh tử dùng sống sẽ gây ỉa chảy, liều cao có thể tả hạ, sau khi
sao vàng thì thuốc có tác dụng nhuận hạ và giáng áp, sao cháy có tác dụng an thần.
Đó là do quá trình sao thuốc, một số hoạt chất mang tính dương, dạng ô xy hoá,
tồn tạo tự do. Dạng này, các hoạt chất có tác dụng kích thích thành ruột. Sau khi
sao, chúng chuyển sang dạng khử, dạng liên kết và mang tính âm nên giảm hoặc
mất tác dụng kích thích thành ruột.
Mỗi vị thuốc thường có nhiều tác dụng khác nhau, trong bệnh cảnh của người

11


bệnh này thì nó là tốt, nhưng trong bệnh cảnh của bệnh nhân khác trở thành tác
dụng bất lợi, chế biến có thể làm giảm tác dụng bất lợi này.
Ví dụ: Thục địa bổ âm, bổ huyết sinh tân dịch. Khi dùng cho người bệnh tâm,

tỳ hư thì sẽ gây đầy chướng bụng, rối loạn tiêu hoá. Nếu sao khô thì sẽ hạn chế tác
dụng này (giảm bớt tuỷ trong thuốc để tránh hiện tượng tương thừa).
Bạch truật có tác dụng kiện tỳ táo thấp. Khi dùng cho người âm hư nội nhiệt,
nếu chế với nước vo gạo sẽ giảm tính " ráo" của thuốc.
2.7. Thay đổi tính (khí) vị, từ đó thay đổi tác dụng của thuốc
Tính vị là hai đặc trưng của vị thuốc và biểu hiện xu hướng và cường độ tác
dụng của thuốc. Các yếu tố có thể gây ra thay đổi khí vị của thuốc như nhiệt độ
(sao, nướng...), phụ liệu (tính chất của phụ liệu...)
- Tăng tính ấm, giảm tính hàn bằng phương pháp hoả chế, thuỷ hoả hợp chế
hoặc dùng các phụ liệu tính ôn như sa nhân, gừng, rượu...
Ví dụ: Sinh địa vị đắng, hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt lương huyết. Thục địa
(chế từ Sinh địa) vị ngọt, tính hơi ôn, tác dụng bổ âm, bổ huyết.
- Giảm tính đại nhiệt, đại hàn có thể chế bằng cách ngâm trong dịch nước vo
gạo, nước cam thảo hoặc sao đen...
2. 8. Ổn định tác dụng của thuốc
Phương pháp sao, sấy khô (nhiệt độ khoảng 50 - 70°C) làm giảm độ ẩm tránh
phân huỷ thành phần hoạt chất của thuốc và tiêu diệt được men, nấm mốc gây hại
cho thuốc.
Ví dụ: Hoa hoè sao qua, có thể hạn chế sự phân huỷ Rutin trong hoa, duy trì tốt
tác dụng lương huyết, hạ huyết áp.
Tương tự đối với vị thuốc Hoàng cầm
Ngoài ra, để ổn định các dược liệu có chứa Glycozid (tránh Enzym tác động
xấu), người ta thường áp dụng phương pháp này.

12


2. 9. Giảm tính bền vững cơ học, tăng khả năng giải phóng hoạt chất
Điều đó có nghĩa là tăng hiệu lực của thuốc, thuận lợi cho việc sử dụng.
Ví dụ: Cửu khổng, mẫu lệ nung ở nhiệt độ cao (vô cơ hoá) để tán bột.

Nhiệt độ có thể làm giảm độ bền cơ học.
2.10. Bảo quản thuốc được tốt hơn
Do qua chế biến, thuốc có thể tránh được mối mọt, men mốc. Cụ thể:
- Làm khô hoặc giảm độ ẩm của vị thuốc.
- Làm thay đổi tính chất của một số thành phần hoá học dễ gây nấm mốc như
pectin, chấy nhầy, tinh bột, chất đường, chất béo... và diệt nấm mốc
- Diệt men (làm mất hoạt tính của men ở nhiệt độ cao) có trong thuốc để ổn
định thuốc. Ví dụ: Nhiệt độ cao làm mất hoạt tính của men glycosidase, bảo vệ
thành phần glycosid
- Tạo thành lớp bảo vệ (Hoàng kỳ chích mật ta được ra lớp màng caramen hoá
ở bên ngoài tạo thành lớp bảo vệ ngăn hạn chế vi khuẩn, ký sinh, côn trùng xâm
nhập).
III. MỘT SỐ YÊU CẦU CỦA BÀO CHẾ, CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC
3.1. .Các yêu cầu cơ bản của bào chế, chế biến đông dược
* Theo Trần Gia Mô (1562) đời Minh (Trung Quốc) có nói:" Bào chế cốt ở
chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị".
Do đó, người bào chế phải thực hiện bào chế đúng kỹ thuật, thích hợp.
* Phải đảm bảo hình thức mẫu mã, chất lượng (phẩm chất) sản phẩm.
* Người bào chế phải nắm vững về tính dược của thuốc, tương tác thuốc, tương
tác giữa thuốc và phụ liệu, yêu cầu trạng thái phẩm chất của từng sản phẩm (vị
thuốc, bài thuốc) đáp ứng yêu cầu điều trị.
3.2. Các trường hợp tương tác của dược liệu cần nhớ trong quá trình bào
chế cũng như sử dụng thuốc
13


3.2.1. Đơn hành
Dùng riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa bệnh của
nó. Ví dụ bài Độc sâm thang
3.2..2. Tương tu (tác dụng hiệp đồng)

Nhiều vị thuốc có tính vị tương tự nhau, khi phối hợp thì tác dụng điều trị tốt
hơn.
- Kim ngân hoa phối hợp với Liên kiều tăng tác dụng sức thanh nhiệt, giải độc
dùng tốt hơn trong các bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng...
- Sinh địa phối hợp với Huyền sâm sẽ làm tăng tác dụng lương huyết, chỉ
huyết, tư âm.
- Hoàng liên dùng cùng Liên tâm tăng tác dụng thanh tâm hoả.
- Đại hoàng dùng cùng Mang tiêu tăng tác dụng tả hạ lên nhiều lần so với dùng
riêng từng vị.
- Hoàng bá dùng cùng Tri mẫu thì tác dụng tư thận giáng hoả được chắc chắn.
- Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí được tăng cường.
- Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.
- Bạch truật phối hợp với hoàng cầm để tăng hiệu lực an thai
- Thương truật phối hợp với Hoàng bá để tăng tác dụng thanh nhiệt táo thấp.
- Hoàng kỳ phối hợp với phòng phong tăng công hiệu củng cố vệ khí
- Bán hạ giúp sài hồ dẫn thuốc vào kinh thiếu dương
- Hương phụ giúp đào nhân để tán ứ huyết giảm đau....
3.2.3. Tương uý
Vị thuốc này ức chế độc tính của vị thuốc kia
Ví dụ: Bán hạ uý Sinh khương.
Bản thân Bán hạ có độc, uống gây ngứa cổ muốn kêu to, nôn lợm.
Bán hạ dùng với Sinh khương thì Sinh khương làm mất tính kích thích họng
của Bán hạ, đồng thời làm hết tác dụng phụ của Bán hạ như buồn nôn, lợm giọng,

14


trừ đờm. Chính vì vậy, trong chế biến người ta dùng Sinh khương để chế Bán hạ
(Khương bán hạ).
- Nhân sâm uý Ngũ linh chi;

Tuy nhiên, dùng Đảng sâm phối ngũ với Ngũ linh chi sẽ có tác dụng ích khí
kiện tỳ, hoá ứ hành trệ để chữa viêm teo dạ dày mạn kèm sa niêm mạc dạ dày (thể
tỳ hư huyết ứ) đều thu kết quả cao.
- Hoàng liên (vị hàn) phối hợp với Nhục quế (vị nhiệt), tuy đối lập nhau nhưng
lại có tác dụng giao lưu giữa tâm và thận.
- Đinh hương uý Uất kim;
Mang tiêu (Nha tiêu, Huyền minh phấn) uý Tam lăng, Lưu huỳnh
Thuỷ ngân uý Thạch tín, Ba đậu ;
Ô đầu (thảo ô) uý Tê giác;
Lang lộc uý Mật đà tăng;
Quan quế uý Thạch chi
Tuy nhiên có một số tương uý vẫn dùng được như Phòng phong và Hoàng kỳ
nhằm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể.
Tương uý hay được áp dụng trong việc bào chế thuốc độc và ngay trong điều
trị bệnh.
3.2.4. Tương ác
Là vị thuốc này kiềm chế tính năng, tác dụng của vị thuốc kia.
Ví dụ: Hoàng cầm vị đắng tính hàn tương ác Sinh khương vị cay tính ấm
Khi dùng chung tính hàn của Hoàng cầm sẽ kiềm chế tính ấm của Sinh
khương....
Sa sâm ố Phòng phong;
Sơn thù ố Cát cánh
3.2.5. Tương sử
Là tổ hợp tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc khác nhau về tính vị. Ví dụ: Hoàng

15


Liên vị đắng tính hàn tương sử Ngô thù vị cay tính ấm chỉ nôn; Mộc hương vị cay tính
ấm tương sử với hoàng liên vị đắng tính lạnh

- Liên kiều vị đắng tính hàn tương sử (dùng chung) Ngô thù du vị cay tính ấm để
chỉ nôn (cầm nôn) tăng lên. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước
bọt và dịch vị. Trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.
- Hoàng kỳ dùng cùng Bạch linh làm tác dụng bổ ích tỳ khí và lợi tiểu được
tăng cường.
- Đại hoàng dùng cùng Hoàng cầm làm tăng tác dụng tiết nhiệt.
- Xuyên khung, thương truật giúp Ô dược thuận
3.2.6. Tương sát
Là sự triệt tiêu tính độc của nhau. Chủ yếu áp dụng để giải độc.
Phòng phong trừ độc của Thạch tín,
Đậu xanh trừ độc của Ba đậu.
Ngũ vị tử sát Ô đầu; dùng chung tạo ra chất độc mới
Bạch chỉ sát Hùng hoàng
Hoạt thạch sát Hùng hoàng....
Vì vậy, vận dụng tương sát để giải độc khi bị ngộ độc Asen hoặc Ba đậu...
3.2.7. Tương phản
Là tổ hợp tương tác giữa hai vị thuốc gây ra phản ứng không tốt hoặc gây
thêm độc tính cho cơ thể.
Hai vị thuốc khi dùng riêng thì lành, dùng chung thì phản nhau mãnh liệt.
Các cặp vị thuốc tương phản cần ghi nhớ.
Ba đậu phản Khiên ngưu (Hắc sửu, Bạch sửu);
Cam thảo phản Cam toại; Đại kích, Nguyên hoa, Hải tảo.
Hải tảo, Bạch cập phản Bán hạ;
Bối mẫu, Qua lâu nhân, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm phản Ô đầu;
Đại kích phản Nguyên hoa.

16


Các loại sâm (Nhân sâm, Sa sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Khổ sâm...) và các vị

thuốc Tế tân, Bạch thược đều phản khắc vị Lê lô (Veratrum nigrum).
Về nguyên tắc các vị thuốc tương phản nhau thì không thể dùng chung với
nhau được.
Điều đó cần hết sức chú ý và nắm vững.
Ví dụ: Dùng Tế tân với Lê nô sẽ gây mù mắt cho người bệnh, hoặc Nguyên
hoa là vị thuốc có khả năng lợi thuỷ nhưng khi dùng với Cam thảo không những
không có tác dụng lợi thuỷ mà lại làm tăng tính độc của Nguyên hoa.
Ngũ vị tử khi dùng chung với Ô đầu sẽ tạo ra chất độc mới có hại.
Tuy nhiên, trong thực tế một số người có kinh nghiệm đã lợi dụng tính chất
tương phản của một số vị thuốc để chữa bệnh.
Ví dụ: Cam thảo phản Cam toại song người ta đã dùng chính hai vị thuốc này
(trong bài Cam toại tán) với mục đích trục đờm ẩm.
Tóm lại, khi tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần lưu ý tới
bảy tình huống trên. Cần khai thác mặt tốt của chúng vào việc chữa bệnh và chế
biến thuốc; đồng thời phải hết sức tránh các trường hợp tương phản, tương ác.... để
tránh các hậu quả có thể xảy ra khi dùng thuốc cũng như tác dụng kém của thuốc
Trong thực tế nên phối ngũ thuốc theo tương tu, tương sử, nếu có vị độc phải
khử độc dùng phép tương ố (tương ác), tương sát, tương uý (huý).
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Phân biệt đúng / sai các câu hỏi sau bằng cách koanh tròn vào chưa A cho
câu hỏi đúng và chữ B cho câu hỏi sai?
1. Hoa hòe khi hái về cần phải phưoi và sao ngay ở nhiệt độ dưới 100° C .

A-B

2. Không có phương pháp bào chế Thảo quyết minh để thuốc có tác dụng nhuận
hạ ………………………………………….......……………………………..A - B
Câu 2: Trình bày các tiêu chuẩn của thuốc sạch
Câu 3: Trình bày các cơ chế làm giảm độc tính của thuốc


17


Câu 4: Trình bày các phương pháp nhằm tăng tính qui kinh của thuốc
Câu 5: Tại sao Bào chế giúp tăng vị thế của thuốc trong lòng người tiêu dùng.
Câu 6: Phân biệt sự khác nhau sử dụng thất tình hoà hợp trong bào chế và trong
kê đơn thuốc
Câu 7: Mục đích của Hoàng kỳ chích Mật ong?
Câu 8: Kể tên các thuốc sau khi bào chế cho tác dụng ngược lại tác dụng ban đầu
vốn có của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trung Hoà, Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hoá năm 2000
2. Nguyễn Xuân Sinh, Phùng Hoà Bình, Dược học cổ truyền – Giáo trình
Đại học Dược Hà Nội, NXB Y học 1999 và 2006
3. Đỗ Tất Lợi, Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học năm 2000

18


CHƯƠNG II
THỦ THUẬT VÀ KỸ NĂNG
BÀO CHẾ VÀ CHẾ BIẾN ĐÔNG DƯỢC

BÀI 1

DỤNG CỤ CHẾ BIẾN THUỐC VÀ TIÊU CHUẨN THUỐC CHÍN
(1 Tiết)
MỤC TIÊU
1. Trình bày được các dụng cụ bào chế thông thường
2. Trình bày được các dạng thuốc

3. Nắm vững và trình bày được các tiêu chuẩn thuốc chín, nhất là tiêu chuẩn
cảm quan
NỘI DUNG
1. Các dụng cụ bào chế thông thường.
Các dụng cụ thông thường bao gồm:
- Bàn chải (lông, tre, đồng):
- Rây
- Giần, sàng
- Chõ dùng để đồ thuốc
- Dao thái (thép, đồng, tre, nứa)
- Cóng

19


- Dao cầu dùng để thái thuốc
- Chảo dùng để sao thuốc. Chảo to có thể dùng để chưng thuốc
- Dao bào
- Siêu (đất, men ) càng tốt dùng để sắc thuốc
- Cối, chày dùng để tán thuốc
- Thuyền tán dùng để tán thuốc
Trong sản xuất công nghiệp hiện đại, các dụng cụ chế biến thuốc đang được cơ
giới hoá với công nghệ cao như dùng máy nghiền, máy sàng, hệ thống chiết
xuất ... và nhiều sản phẩm đã mang màu sắc của thuốc hiện đại.
2. Các dạng thuốc đông dược hiện nay
Nó bao gồm dạng bào chế ở thể rắn và dạng thuốc bào chế ở thể lỏng
2.1. Dạng thuốc ở thể rắn bao gồm
- Thuốc phiến (dùng phổ biến nhất)
- Chè thuốc
- Thuốc sắc

- Thuốc cốm
- Thuốc tán (thuốc bột)
- Thuốc hoàn (cứng, mềm)
- Viên nang (cứng, mềm)
- Viên bao phim (có đường, không có đường)
- Đơn
- Thuốc đĩnh
2.2. Dạng thuốc ở thể mềm và lỏng bao gồm :
- Rượu thuốc
- Cao dán
- Cao thuốc
- Thuốc đạn
20


- Thuốc cao xoa
- Dầu thuốc
Gần đây đã thấy xuất hiện dạng thuốc viên nén (uống, ngậm), viên nang cứng
và mềm (capsul), thuốc dạng khí dung, dạng tiêm mà thành phần là dược liệu.
3. Tiêu chuẩn thuốc chín (đã chế biến)
Thuốc chín có thể dùng điều trị trực tiếp cho người bệnh dưới dạng thuốc
thang, thuốc chè và các dạng bán thành phẩm khác.
Tiêu chuẩn dựa vào cảm quan và một số chỉ tiêu:
- Kích thước: Phải hợp lý về độ dày, chiều rộng, chiều dài tuỳ thuộc vào cấu
tạo và đặc tính tự nhiên của vị thuốc.
- Màu sắc, mùi vị: Phải đặc trưng cho mỗi vị thuốc, mỗi phương pháp chế
biến...
- Tỉ lệ vụn nát không quá 15% so với khối lượng thuốc.
- Độ ẩm tối đa khoảng 10 - 15% (cá biệt 7% hoặc 18%)
- Tiêu chuẩn kiểm nghiệm hoá học: Theo tiêu chuẩn ngành hoặc cơ sở

Theo tổ chức Y tế thế giới, thuốc y học cổ truyền cần có một số tiêu chuẩn sau:
+ Tên khoa học cây thuốc, người và cơ sở xác định tên cây.
+ Bộ phận dùng;
Nơi thu hái cây thuốc (vùng sinh thái, khí hậu...);
Cơ sở chế biến khi thu hoạch;
Tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, tồn dư một số chất vô cơ;
+ Về hoá học: Định tính, định lượng thành phần hoá học đặc trưng, chất điểm
chỉ (hoạt chất hoặc không phải là hoạt chất).
CÂU HỎI
Câu 1. Trình bày các dụng cụ thô sở sử dụng trong bào chế
Câu 2: Trình bày tiêu chuẩn thuốc chín

21


BÀI 2

PHỤ LIỆU
(2 tiết))
MỤC ĐÍCH
1. Hiểu và trình bày được vai trò của từng phụ liệu trong bào chế, chế biến
vị thuốc
2. Trình bày được mục đích sử dụng các phụ liệu trong bào chế, chế biến
vị thuốc
NỘI DUNG
1. Định nghĩa
Phụ liệu là những chất có thể là nước, thuốc hay dung dịch có tác dụng cơ bản làm
giảm độc tính hay tính mãnh liệt của thuốc hoặc giảm tác dụng không mong muốn
hoặc hiệp đồng tác dụng với vị thuốc cần chế biến.
Như vậy những chất trơ không có tác dụng phòng và chữa bệnh thì chỉ gọi là chất

trung gian, chất màu, tá dược trơ..v.v.. mà thôi.
Các tỷ lệ giữa thuốc và phụ liệu được trình bày trong tài liệu này là tỷ lệ thật về
khối lượng giữa dược liệu với chất tạo nên phụ liệu.
Ví dụ : Ðại phúc bì (thịt quả cau) ngâm ngập trong nước sắc Cam thảo tỷ lệ
100:2 ; tức là ngâm 100 gam Ðại phúc bì trong nước sắc chứa đủ 2 gam Cam thảo.
2. Các phụ liệu
2.1.1 Rượu
Tính vị qui kinh: Vị cay, ngọt, tính nhiệt có độc;
Tác dụng: Thông huyết mạch (dãn mạch ngoại biên, giảm thân nhiệt), tán thấp
khu phong.
22


Thành phần hoá học: Alcol ethylic và một số chất thơm.
Mục đích sử dụng:
- Giảm tính lạnh, tăng tính ấm, tăng tác dụng thăng đề của thuốc; dẫn thuốc lên
bộ phận phía trên cơ thể (thượng tiêu) và ra ngoài bì phủ, vào phế.
- Tăng sự hấp dẫn của thuốc,
- Tăng tính hoà tan của một số hoạt chất trong dược liệu vào Rượu sau đó tan vào
thuốc sắc ( tăng sự hấp thu thuốc). Bởi lẽ, Rượu là một dung môi hữu cơ dễ hoà tan
các thành phần hoá học.
- Bảo quản thuốc: Do có khả năng làm đông vón một số thành phần dễ gây
nấm mốc như chất nhày, pectin...
Áp dụng: Vỏ Núc nác, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm, Bạch thược (dưỡng
huyết điều kinh), Xuyên khung, Đương qui...; Đại hoàng phiến; Đảng sâm phiến;
Địa cốt bì; Cẩu tích, Đương qui phiến; Hoàng cầm phiến, Hoàng kỳ phiến, Ngưu
tất phiến, Thăng ma phiến, Sài hồ phiến, Ba kích...
1.2.2. Gừng:
Tính vị qui kinh: Vị cay, tính ôn, vào tỳ, vị, phế kinh;
Tác dụng: Phát tán phong hàn, ôn trung hoà vị, chỉ nôn.

Thành phần hoá học: Gừng chứa tinh dầu, chất cay, nhựa, tinh bột.
Mục đích:
- Làm giảm tính hàn (Trúc lịch..), tăng tính ấm vị thuốc (Sinh địa), làm cho vị
thuốc chủ thăng chủ tán tức đưa khí vị của thuốc lên thượng tiêu hoặc ra phần biểu
do tác dụng gây giãn mạch của Gừng.
- Dẫn thuốc vào phế, tỳ, vị; ôn trung tiêu, nên có tác dụng chỉ nôn.
Làm thuốc có tác dụng giảm ho (Bán hạ), bổ khí, ôn bổ phế (Sa sâm, Đảng
sâm, Cát cánh, ...), kích thích tiêu hoá và của thuốc.
- Giảm tác dụng gây nề trệ của một số vị thuốc sinh tân dịch (Huyền sâm, Sinh
địa, Mạch môn, Thiên môn, Sa sâm, ...) và bài thuốc (Lục vị địa hoàng hoàn)

23


- Giảm tính kích ứng, giảm độc tính của một số vị thuốc gây ngứa (Bán hạ,
Nam tinh).
Áp dụng: Bán hạ, Mạch môn, Thiên môn, Sinh địa chế thục, các loại Sâm,
Thạch xương bồ; Hậu phác....
1.2.3. Muối
Tính vị qui kinh: Vị mặn, ngọt, tính hàn, vào tâm, thận, vị kinh.
Tác dụng: Giáng khí nghịch, giảm đau, sát trùng, nhuyễn kiên, kích thích ăn uống
Thành phần hoá học: Natri clorid ( NaCL ) và một số nguyên tố vi lượng.
Mục đích: - Tăng sự dẫn thuốc vào kinh thận, hạ tiêu ( dẫn thuốc đi xuống ),
làm cho vị thuốc tác dụng mạnh hơn đối với thận, bàng quang (lợi niệu do tham
gia quá trình trao đổi chất điện giải).
- Giải độc và nhập vào huyết mà nhuận táo, làm mềm khối u rắn (nhuyễn kiên )
- Bảo quản thuốc, hạn chế mốc mọt.
Áp dụng: Nhóm thuốc liên quan tới thận ( nhất là thuốc bổ thận dương): Cẩu
tích, Ba kích, Đỗ trọng, Trạch tả, Hoàng bá, Tục đoạn, Huyền sâm phiến; Hương
phụ; Ngưu tất phiến; Tỳ giải; Bạch mao căn, Bạch thược, Bạch truật ...

Hoàng kỳ tẩm muối sao nhằm bổ thận và tăng tác dụng chữa băng đới.
1.2.4. Dấm thanh
Tính vị qui kinh: Vị chua, tính lương, không độc;
Tác dụng: Lý khí huyết, tiêu thũng, giảm đau.
Thành phần hoá học: Acid axetic 4 - 5%; men thuỷ phân tinh bột.
Mục đích: - Tăng qui kinh can đởm cho vị thuốc, vì dấm chua sẽ làm a cid hoá
một số hợp chất hoá học trong vị thuốc, biến nó thành muối dễ tan trong nước,
làm dễ chiết xuất chúng ra khỏi thuốc. Dấm vị nhập can.
- Giảm tính kích thích của một số vị thuốc.
- Tăng tác dụng chỉ thống (Huyền hồ, Cù túc xác...), tăng tác dụng hành khí,
hoạt huyết, tăng tính năng thu liễm và làm êm dịu vị thuốc.
24


Áp dụng: Sài hồ, Hượng phụ, Cù túc xác, Nga truật, Miết giáp, Mẫu lệ, Đan
sâm; Bạch chỉ, Huyền hồ; Bạch thược ...
1.2.5. Đồng tiện
Tính vị qui kinh: Vị mặn, tính hàn, vào tâm, thận kinh;
Tác dụng: Tư âm, giáng hoả, thanh nhiệt, giải độc, trục ứ, sinh tân.
Thành phần: Sắc tố, chất chứa ni tơ, chất vô cơ, nội tiết tố, men, vitamin...
Mục đích: - Tăng tính âm (tư âm), bớt tính ráo, tăng tính nhuận cho vị thuốc,
lợi cho chức năng của thận.
- Bổ xung chất điện giải do nó chứa nhiều chất như vitamin, hormon, muối..
- Tăng sự dẫn thuốc vào máu và giáng hoả.
- Tăng tác dụng hành huyết, tiêu ứ.
Áp dụng: Hương phụ, Nga truật, Phụ tử...
1.2.6. Nước vo gạo (mễ trấp, mễ cam trấp)
Tính vị qui kinh: Vị ngọt, chua, qui tỳ vị kinh
Tác dụng: Khử mùi tanh, mau phân huỷ dược liệu, bài độc, kiện tỳ và kích
thích tiêu hoá.

Thành phần hoá học: Chứa vitamin PP, vitamin B1, một số khoáng chất như
sắt, đồng
Mục đích: - Giảm bớt tính ráo, nóng hoặc độc của vị thuốc
- Kích thích tiêu hóa, tăng tác dụng kiện tỳ, hoà vị; tăng tính nhu nhuận.
Ví dụ: Bạch truật: Để sống thanh thấp nhiệt, sao Hoàng thổ thì bổ tỳ, an thai,
chỉ ẩu; sao mật thì bổ tỳ, nhuận phế; tẩm nước vo gạo sao thì chống chớ và ăn
chậm tiêu ở trẻ ; sao cháy thì chỉ huyết, ấm trung tiêu.
Áp dụng: Thương truật, Bạch truật, Hoàng nàn, Ráy...
1.2.7. Sữa
Tính vị qui kinh: Vị ngọt, mặn, tính ôn, qui tỳ, vị và phế kinh

25


×