Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tăng trưởng kinh tế và lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.94 KB, 48 trang )

Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
MỤC LỤC
--***--
I. Lý luận chung về lạm phát và tăng trưởng kinh tế.............................3
1.1Lạm phát và nguyên nhân gây ra lạm phát......................................................3
1.2Tăng trưởng kinh tế và các công cụ phản ánh.................................................6
1.3Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế..........................................7
II. Thực trạng lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam hiện nay...........................................................................7
2.1Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua...............................................7
2.2 Mối quan hệ giữa lạm phát và tằng trưởng kinh tế ở Việt Nam......................27
III. Giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay........................28
3.1Định hướng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới................28
3.2Giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay.. ......................................29
3.3Lạm phát và vấn đề xử lý lạm phát của một số nước trên thế giới, học tập và áp
dụng vào Việt Nam...............................................................................................34
3.4Các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam năm 2010-2011.....................38

Nhóm 6 – NH10 Page 1
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề cơ bản và lớn trong kinh tế
vĩ mô. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp
và không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế .
Lạm phát là một vấn đề không phải xa lạ và là một đặc diểm của nền kinh
tế hàng hoá và ở mỗi thời kì kinh tế với các mức tăng trưởng kinh té khác nhau
sẽ có những mức lạm phát phù hợp.
Do vậy vấn đề lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế
là một đề tài rất hấp dẫn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình
hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Việc
xác định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đã và đang thu hút sự chú


ý của nhiều nhà kinh tế. Mục đích chính là phân tích để khẳng định và tiến tới
xác lập mối quan hệ định hướng giữa tăng trưởng kinh tế với lạm phát và có thể
sử dụng lạm phát là một trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thì đương nhiên các giải pháp điều hành vĩ mô đưa ra là
nhằm nâng cao lạm phát của nền kinh tế nếu như chúng có quan hệ thuận với
nhau và do vậy các giải pháp như cung ứng tiền, phá giá đồng nội tệ… sẽ được
xem xét ở mức độ hợp lý. Còn không, các nhà hoạch định chính sách phải cân
nhắc các giải pháp vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và yếu tố lạm phát trở
thành thứ yếu. Mặc dù vẫn phải duy trì mức độ kiểm soát. Ở nước ta trong bối
cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát không những
là một tiêu thức kinh tế mà còn kiến mang ý nghĩa chính trị.
Nhóm 6 – NH10 Page 2
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
I.Lý luận chung về lạm phát và tăng trưởng kinh tế
1.1. Lạm phát, nguyên nhân gây ra lạm phát
1.1.1. Lạm phát
1.1.1.1 Khái niệm lạm phát:
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các
nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình các nhà kinh tế đã đưa ra các khái
niệm về lạm phát.
• Theo Các Mác trong bộ tư bản: lạm phát là việc làm tràn đầy các kênh, các
luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt.
• Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát là biểu thị một sự tăng lên
của mức giá chung. Theo ông: “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và
chi phí tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư
liệu sản xuất tăng”.
• Milton Friedmen thì quan niệm: “ lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài”. Ông cho rằng lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ý
kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái
Keynes tán thành.

1.1.1.2 Phân loại lạm phát:
1.1.1.2.1 Căn cứ vào mức độ lạm phát:
• Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới
10%. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ
này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổn
định đó được biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay không
tăng cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng
lớn…Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý yên tâm cho người lao động chỉ
trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu
nhập ổn định, ít rủi ro.
• Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với 2 hoặc 3 con số một
năm. Ở mức phi mã lạm phát làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây biến
động lớn về kinh tế. lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc và không
bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất thông thường. Loại này khi đã trở nên
vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
• Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát
phi mã, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng rất nhanh, tiền
lương thực tế giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, các yếu tố thị trường
biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn.
Nhóm 6 – NH10 Page 3
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
1.1.1.1.2 Căn cứ vào định tính::
• Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng :
* Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao
động và dến nền kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của người
lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
• Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:

* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự
đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người
dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện
.Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp
thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế
và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang
phát triển thường diễn ra trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp
và trầm trọng hơn .Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ
khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50%
một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát
trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%
một năm .
1.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
• Lạm phát khởi thuỷ từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
.Thứ nhất là lạm phát có thể xảy ra do tác động chủ quan của hệ thống tiền
tệ-tín dụng-ngân hàng,bất cứ một sự biến đổi nhỏ nào của hệ thống này đều có
tác động hoặc tăng hoặc giảm tỉ lệ lạm phát.
.Thứ hai là lạm phát cũng chịu ảnh hưởng củamột số đIều kiện khách quan
khác như chính trị xã hội,thiên tai bão lụt,tình trạng thất nghiệp,nền sản
xuất..Do chịu nhiều tác động của nhiều yếu tốtrong nền kinh tế như vậy nên
hiện tượng lạm phát diễn biến hết sức phức tạp đòi hỏi trong quá trình tăng
trưởng và chống lạm phát có chiến lược đúng đắn để lạm phát luôn nằm trong
quỹ đạo mà nền kinh tế có thể kiểm soát được.
Lạm phát xuất hiện cũng gây ra nhiều hậu quả đến kinh tế như bất kì một biến
cố hại nào khác:nạn thất nghiệp,nạn thiên tai Lạm phát tàn phákinh tế,nó
Nhóm 6 – NH10 Page 4

Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
không những làm suy giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính mà còn
tác động trực tiếp đến đời sống chính trị ,văn hoá,xã hội và sinh hoạt bình
thường của người dân.Bằng chứng là cuộc khủng hoảng ở Đức xảy ra dữ dội
vào những năm đầu thế kỷ,ở các nước phát triển những năm 70 và mới đây là
ở Nga.Đặc biệt là hậu quả lạm phát rất trầm trọng ở các nước đang phát triển
với nền kinh tế chưa đủ sức hạn chế có hiệu quả sự lây lan của lạm
phát..Những điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia không chỉ riêng nước ta cần có
chính sách chống lạm phát để hạn chế bớt những thiệt hại do hiện tượng này
gây ra cho nền kinh tế.Vấn đề đặt ra một cách cấp thiết cần phải giải quyết khi
nghiên cứu lạm phát là lý giải xác đáng lạm phát xảy ra và diễn biến như thế
nào? và cần có những biện pháp gì để chống lạm phát.Nếu giải quyết tốt vấn
đề đó thì chúng ta mới có cơ sở vững chắc hợp logic để tiến tới thành công
trong việc phát triển kinh tế .
Ngày nay khi đánh giá trình độ tăng trưởng của nền kinh tế của một quốc
gia một trong những tiêu chuẩn đầu tiên người ta xét đến đó là tỉ lệ lạm phát
như thế nào?Điều đó cũng nói lên một phần mối quan hệ chặt chẽ giữa lạm
phát và tăng trưởng.Nếu tỉ lệ lạm phát đang ở mức thấp hoặc vừa phải điều
đó chứng tỏ nền kinh tế nước đó có sức mạnh điều tiết và quản lý kinh tế vĩ
mô có hiệu quả đã và đang tạo cơ hội thuận lợi để tăng trưởng.Xung quanh
lạm phát có rất nhiều nảy sinh như cách phòng và chữa căn bệnh lạm phát
như thế nào?Nguyên nhân gây ra lạm phát và có nên duy trì tỉ lệ lạm phát
thấp hay chấm dứt lạm phát.Từ đó gây ra nhiều cuộc bàn cãi,tranh luận
không chỉ giữa các nhà kinh tế mà còn xảy ra với các quốc gia,các tổ chức
tài chính quốc tế.Vởy hiểu lạm phát như thế nào?Có một câu hỏi nhưng rất
nhiề câu trả lời,tuy nhiên người ta vẫn thường công nhận lạm phát là sự tăng
lên của giá cả trung bình trong một thời kỳ “Sự tăng lên của giá” do có nhiều
nguyên nhân hoặc do các yếu tố chủ quan của các cấp quản lý kinh tế hoặc
do những đIều kiện chính trị,xã hội,thiên tai..gây ra.Có thể giảI thích quy về
những cách đây:

1.Theo thuyết tiền tệ lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền .
2.Theo trường phái Keynes lạm phát có thể xảy ra là do dư cầu về hàng hoá
trong nền kinh tế.
3.Theo thuyết chi phí đẩy lạm phát xảy ra do tăng chi phí sản xuất.Tuy
nhiên đây cũng chỉ là những luận đIểm lý thuyết mang tính tương đối còn
trong thực tế lạm phát xảy ra thường là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố ở
những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế.
Nhóm 6 – NH10 Page 5
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
1.2.Tăng trưởng kinh tế và các công cụ phản ánh
1.2.1.Tăng trưởng kinh tế:
• Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển
kinh tế. tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các
nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một
quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho
toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định( thường là một năm). Tăng
trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối ( quy mô tăng trưởng) hoặc
bằng số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng
tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó
hoặc kỳ gốc.
Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng. chất lượng
tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài.
- Phát triển có hiệu quả thể hiện qua năng suất lao động, năng suất tài sản
cao và ổn định. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của nhân
tố năng suất tổng hợp (TFP) cao.
- Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với
thực tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ;

- Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao;
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội;
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
1.2.2.Các công cụ phản ánh
• Để phản ánh tăng trưởng kinh tế , các nhà kinh tế sử dụng số liệu về GDP –
một chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập của mọi người dân trong nền kinh tế .
• Để phản ánh rõ hơn về tăng trưởng kinh tế , người ta thiết lập mô hình tăng
trưởng kinh tế có tên là: “ mô hình solow “ . Mô hình solow chỉ ra ảnh hưởng của
tiết kiệm , tỷ lệ tăng dân số và tiến bộ công nghệ với sự tăng trưởng theo thời
gian của sản lượng . Mô hình còn xác định một vài nguyên nhân gây ra sự khác
biệt lớn về mức sống giữa các nước. Sự tăng trưởng kinh tế của các nước không
phải lúc nào cũng dương mà trong thời kì khủng hoảng , nền kinh tế suy thoái thì
mức tăng trưởng kinh tế sẽ đạt giá trị âm.
Nhóm 6 – NH10 Page 6
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
1.3.Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội , là hai vấn đề kinh tế
trong nền kinh tế . Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó
lại là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau .
Trong thực tế , không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không tránh
khỏi lạm phát . Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các
cuộc khủnh hỏang kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau .
Tỷ lệ lạmphát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh
nghĩa của cáccông nhân không tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi.
Để tồn tại các công nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi công đòi tăng lương và cho
sản xuất trì trệ , đình đốn khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm.Khi nềnkinh tế găp khó khăn , suy thoái sẽ làm thâm hụt
ngân sách và đó là điều kiện , nguyênnhân gây ra lạm phát . Khi lạm phát tăng
cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ rất nhanh , khi đó người dân sẽ ồ ạt bán
nội tệ để mua ngoại tệ . Tệ nạn tham nhũng tăng cao , nạn buôn lậu phát triển

mạnh , tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh , trốn thuế và thuế khôngthu được
đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho
thâm hụt ngân sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.
II.Thực trạng lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
2.1.Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua
2.1.1 .Các nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam
2.1.1.1Thời kỳ 1987-1997:
Bảng chỉ số lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 1987-1997
Năm 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Tăng
trưởng
3.64 5.98 4.69 5.10 5.96 8.65 8.07 8.84 9.56 9.34 8.80
Lạm
phát
223.1 393.8 34.7 67.1 67.5 17.5 5.2 14.4 12.7 4.5 3.5
Nguồn ADB
Nhóm 6 – NH10 Page 7
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, phần này
ta xét đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam có nhiều.
- Thứ nhất : lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu
bao cấp, đóng cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi
phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến
sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi ngân sách thể hiện nền kinh tế
kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ…Đó là những nguyên nhân dẫn
đến lạm phát phi mã.
- Thứ hai : do sự điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác
định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là

chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của
nhà nước, chính sách lãi xuất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân
không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh
tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn
vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây
dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân
bằng cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi
một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn
sốt xi măng, thép, xăng dầu và ngoại tệ.
- Thứ ba : cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là
các doanh nghiệp. những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách
nhà nước. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà
nước phải bù lỗ, bù giá qua lớn chiếm gần 40% tổng số thu chi cho ngân
sách.
- Thứ tư : môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn
ở mức thấp. Đầu tư nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài
qua sức chịu đựng của nền kinh té trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu
lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn
cách nào khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã gây ra lạm phát.
- Thứ năm : nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan liêu bao
cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các
quan hệ tiền tệ không phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác động
mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong khu vực.
Nhóm 6 – NH10 Page 8
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
2.1.1.2 Thời kỳ 1998-2008:
Bảng chỉ số lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 1998-2008:
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Tăng
trưởng
5.8 4.8 6.8 6.8 7.0 7.3 7.6 8.5 8.17 8.5 6.36
Lạm
phát
9.2 4.2 -1.6 -0.4 4.0 4.3 7.8 8.4 6.6 8.8 19.89
Nguồn ADB
Thời kỳ 1999-2002: là thời kỳ lạm phát ở mức rất thấp thậm chí là thiểu phát.
Thời kỳ này tốc độ tăng trưởng cũng rất thấp. Năm 1998-1999 tốc độ tăng
trưởng giảm xuống mức dưới 6% là mức đáng lo ngại đối với một nền kinh tế
có tốc độ tăng dân số 2% một năm, tỷ lệ tăng năng suất lao động 5-7% và tỷ lệ
thất nghiệp là 7%. Nguyên nhân chủ yếu của thời kỳ này là do chính sách thắt
chặt tiền tệ và cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực
Từ năm 2004 lạm phát đột ngột tăng tốc. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 9.5%(2004);
8.4%(2005);6.6%(2006) . Để tránh tác động của khủng hoảng Việt Nam đã thực
hiện chính sách kích cầu đi liền với việc gia tăng tín dụng và cuối cùng là in
tiền. Do vậy đây là nguyên nhân gây ra sự gia tăng đến mức báo động giá vào
năm 2003 và tăng trên 10% vào năm 2004.
Ngoài ra, những nguyên nhân gây ra lạm phát ở VN không nằm ngoài khuôn
khổ lý thuyết. Tuy nhiên, nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở VN thời gian
qua được cho là do cung tiền và do chi phí đẩy.
a)Lạm phát do chi phí đẩy
Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời
gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP
(2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong
nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế
giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các
nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa
trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát.
Nhóm 6 – NH10 Page 9

Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Tuy nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế
giới không thể giải thích hoàn toàn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan sát bảng sau
chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa
trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài
nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên
nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam chính là lạm phát do
nguyên nhân cung tiền.
Nhóm 6 – NH10 Page 10
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
(Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm phát ở Việt
Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác)
b)Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam
Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này không giải thích
được hoàn toàn nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời gian qua,
cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên lạm phát ở Việt
Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này.
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng
quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài đổ vào
Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải
ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn
đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh
chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào
Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được
khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển
về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt
thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển vào
Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của
ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007
tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ của NHNN tăng

đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào nền kinh tế, mặt
Nhóm 6 – NH10 Page 11
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
khác NHNN không thực hiện biện pháp Vô hiệu hóa lượng tiền bơm vào nền
kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên.
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ thống
ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt 49.1%.
Như vậy tăng trưởng tín dụng cao và dòng tiền mua ngoại tệ của NHNN đã làm
cho cung tiền tăng mạnh dẫn đến lạm phát.
c)Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ trên thực tế
Lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian qua được cho là nguyên nhân tiền tệ.
Thực tế quan sát biểu đồ hình dưới giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát không
có một mối quan hệ chặt với nhau rõ ràng. Các kiểm định thống kê cũng không
thấy có tương quan đáng tin cậy giữa tăng trưởng M2 và lạm phát.
Nguồn: WB và Vietstock dự báo
Tuy nhiên, chúng ta cũng không đủ cơ sở để phủ định được lý thuyết về mối
quan hệ giữa lạm phát và cung tiền đối với Việt Nam bởi một số nguyên nhân
sau:
Thứ nhất: Số liệu thống kê về lạm phát và cung tiền ở Việt Nam không đủ lớn,
số liệu tính theo năm đáng tin cậy mà chúng tôi có được từ năm 1992 đến nay.
Với chuỗi số liệu như vậy không đủ lớn cho việc làm các kiểm định thống kê cho
kết quả có ý nghĩa.
Nhóm 6 – NH10 Page 12
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Thứ hai: Một biến số rất khó đo lường hiện nay là thay đổi trong vòng quay tiền
(ΔV). Trong các mô hình lý thuyết giả định ΔV =0, tuy nhiên thực tế vòng quay
tiền tệ biến động khá lớn qua các thời điểm khác nhau. Tốc độ lưu thông tiền tệ
sẽ bị giảm mạnh khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn khó khăn. Lúc này người dân
mất lòng tin vào sự phục hồi kinh tế do đó họ hạn chế chi tiêu làm cho vòng quay
tiền giảm. Chẳng hạn vào năm 2000 vòng quay tiền tệ là 1.95, năm 2002 chỉ còn

1.53 giảm 21.5%. Dù cho cung tiền tăng cao hơn bình thường nhưng không gây
ra lạm phát. Khi đó lượng tăng trưởng cung tiền sẽ chuyển tác động đến việc gia
tăng mức giá trong dài hạn có thể từ 8 đến 12 tháng trong một số giai đoạn có thể
cao hơn. Chính vì những lý do này chúng ta thấy trong thực tế có giai đoạn mặc
dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 khá cao nhưng lại không gây ra lạm
phát tức thời.
Để làm sáng tỏ thêm một số luận điểm nêu trên, sau đây chúng ta xem xét quan
hệ giữa cung tiền và lạm phát. Chúng ta xét tăng trưởng tín dụng và lạm phát
trong khoảng thời gian ngắn hơn:
Nguồn: IFM và VietstoctFinance
Biểu đồ cho chúng ta thấy giữa 3 yếu tố này có một sự tương quan khá chặt chẽ
nhưng thường có độ trễ nhất định. Lạm phát thường tăng hay giảm sau khi cung
tiền tăng giảm từ 3-5. Các kiểm định thống kê chúng tôi thực hiện cũng cho thấy
lạm phát và độ trễ tăng trưởng tín dụng 4-7 tháng có quan hệ khá chặt. Đây là
một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm phát cao ở Việt Nam.
Nhóm 6 – NH10 Page 13
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Vậy tại sao có kết quả khác nhau khi xem xét mối quan hệ cung tiền và lạm phát
theo tháng và năm? Nguyên nhân xuất phát từ sự khác biệt giữa biến vòng quay
tiền. Khi xét trong một khoảng thời gian dài vòng quay tiền giữa các năm có thể
rất khác nhau đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế có nhiều biến động. Đối với dữ
liệu tháng chúng ta có thể có một số lượng quan sát đủ lớn chỉ trong thời gian
ngắn, trong giai đoạn ngắn sự thay đổi vòng quay tiền rất nhỏ nên sự thay đổi
cung tiền sẽ phản ánh vào biến động giá trên thị trường.
d)Những yếu tố khác
Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai đoạn mà
một nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trò chính. Nhiều khi các nguyên
nhân có thể đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch ròi. Theo
quan điểm của chúng tôi một số nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát ở Việt
Nam đó là sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân sách

cao thường xuyên.
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất thế giới.
Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư/GDP luôn lớn hơn 40% trong khi đó
tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở trung bình chưa đến 8%. ICOR của Việt Nam lớn
hơn 5 lần, cao hơn nhiều so với các nước Đông Á, và các quốc gia khác cùng
trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Chính những yếu kém này là
những nguyên nhân sâu xa cho bất ổn vĩ mô và lạm phát cao.
Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua, áp lực in tiền tài
trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát. Ngoài ra, việc
kiểm soát giá hàng hóa và neo tỷ giá ngoại tệ một cách khá cứng nhắc cũng
gây ra những xáo trộn kéo dài cho nền kinh tế. Tỷ giá hay giá hàng hóa không
phản ánh giá thị trường do kiểm soát hoặc độc quyền đều ẩn chứa khả năng
lạm phát tiềm tàng trong tương lai.
2.1.1.3 Thời kỳ 2009-2010:
Năm 2009 2010
lạm phát 6.88 11.75
Tăng trưởng 5.32 6.78
Tăng trưởng kinh tế khả quan trong năm 2010 tăng trưởng đạt 6.78% cao hơn
năm 2009 và vượt mục tiêu đề ra 6,5%..Mặc dù chịu tác động mạnh bởi khủng
hoảng kinh tế toàn cầu nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được
Nhóm 6 – NH10 Page 14
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
tốc độ khá cao nhờ sự đóng góp của hầu hết các ngành và cải thiện dần qua các
quý.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
theo giá so sánh 1994
%
2009 2010
Tổng số 5,32 6,78
Phân theo khu vực kinh tế

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 1,82 2,78
Công nghiệp và xây dựng 5,52 7,70
Dịch vụ 6,63 7,52
Phân theo quý trong năm
Quý I 3,14 5,84
Quý II 4,41 6,44
Quý III 5,98 7,18
Quý IV 6,99 7,34
Nhóm 6 – NH10 Page 15
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Mặc dù tăng trưởng GDP cao nhưng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế
Việt Nam lại rất thấp.
Thứ nhất, nền kinh tế tuy đã tăng trưởng khá và vượt qua giai đoạn khó khăn,
nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng
khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả nên chất lượng tăng trưởng
chưa cao và chưa thật vững chắc. Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2009 là
42,8%,năm 2010 là 41.9% nhưng tốc độ tăng GDP hai năm chỉ đạt 5,32% và
6.78% là chưa tương xứng. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của nhiều
ngành, nhiều sản phẩm còn thấp trong khi nước ta đã hội nhập đầy đủ với thế
giới.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế ước tính đạt
830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP, trong đó
có 1980 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và 4487,5 tỷ đồng từ nguồn
vốn trái phiếu Chính phủ được Thủ tướng cho phép ứng trước để bổ sung và
đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án quan trọng hoàn thành trong năm
2010. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm nay, vốn khu vực Nhà
nước là 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1% tổng vốn và tăng 10%; khu vực ngoài
Nhà nước 299,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,1% và tăng 24,7%; khu vực có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài 214,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,8% và tăng 18,4%.

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010
Nghìn tỷ
đồng
Cơ cấu
(%)
So với năm
2009 (%)
TỔNG SỐ 830,3 100,0 117,1
Khu vực Nhà nước 316,3 38,1 110,0
Khu vực ngoài Nhà nước 299,5 36,1 124,7
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài 214,5 25,8 118,4
Nhóm 6 – NH10 Page 16
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Nhận xét khu vực nhà nước đóng một vai trò hết sức quan trọng trong tổng vốn
đầu tư của cả nước.
- Thứ hai, cơ cấu kinh tế tuy bước đầu đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ và
tích cực, nhưng vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương
đối cao của khu vực sản xuất vật chất nói chung và khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản nói riêng. Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu sản phẩm còn bất hợp lý, chưa phát huy
đầy đủ khả năng thế mạnh của mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước.
- Thứ ba, cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc
• Thâm hụt cán cân thương mại cao và mất cân đối cán cân
thanh toán khiến cân bằng nền kinh tế thấp và là một trong
những yếu tố gây nên những bất ổn vĩ mô.
Năm 2008, thâm hụt thương mại lên tới đỉnh điểm 18 tỷ USD,
bằng gần 20% giá trị GDP. Trong năm 2009 và 11 tháng đầu năm
2010, thâm hụt thương mại giảm xuống còn 12.246 tỷ USD và
10.656 tỷ USD. Như vậy, tuy thâm hụt thương mại năm đã giảm

xuống so với các năm 2007 và 2008 nhưng đây vẫn là mức rất
cao so với quy mô của nền kinh tế Việt Nam
Nhóm 6 – NH10 Page 17
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Nhóm 6 – NH10 Page 18
Tài chính quốc tế GVHD: Lê Thị Hồng Minh
Dù tính đến tháng 11-2010 xuất khẩu tăng 24.5% nhưng nhập khẩu cũng
tăng mạnh do nhu cầu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 74.9 tỷ USD, tăng 19.8% so với cùng kỳ năm
trước. Khu vực vốn đầu tư trong nước chỉ tăng 8%, trong khi khu vực vốn đầu tư nước ngoài
tăng đến 39.9%. Điều này cho thấy sự phục hồi mạnh của nhập khẩu phần lớn do các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập các nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa phục vụ xuất
khẩu như bông, vải, nguyên phụ liệu sản xuất khác. Mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu cao nhất
là Máy móc, thiết bị với giá trị 12.36 tỷ USD, tăng 7.6%, cho thấy nhu cầu đầu tư và mở rộng
sản xuất vẫn tăng khá. Sắt thép đứng thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu đạt 5.3 tỷ USD, tăng 14.7%
so với cùng kỳ.
Nhóm 6 – NH10 Page 19

×