Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vì sao bác hồ ra đi tìm đường cứu nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.52 KB, 8 trang )

Vì sao Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước?
I.
-

Khái quát
Gia đình, quê hương của Hồ Chí Minh
Hoàn cảnh đất nước
Bối cảnh thế giới
Nhân cách của Hồ Chí Minh

II. Phân tích
1. Gia đình, quê hương của Hồ Chí Minh
Ảnh hưởng từ người cha
Chủ tich
̣ Hồ Chí Minh sinh ra trong mô ̣t gia điǹ h nhà nho yêu nước, gầ n gũi
với nhân dân. Cha của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắ c, cụ là người thầ y
đầ u tiên của Nguyễn Sinh Cung - da ̣y chữ, da ̣y làm người và giáo du ̣c lòng yêu
nước cho con. Trong gia đin
̀ h, Nguyễn Sinh Cung là người đươ ̣c cha yêu thương
và đă ̣t nhiề u hy vo ̣ng nhấ t. Trong năm năm từ chố i không ra làm quan, Nguyễn
Sinh Sắ c thường đế n những nơi có phong trào đấ u tranh chố ng Pháp sôi nổ i và
anh dũng, kế t giao với những người có lòng yêu nước, có chí cứu nước, đă ̣c biê ̣t
là lớp si ̃ phu yêu nước, có tư tưởng “bài” phong kiế n, chố ng Pháp như Phan Bô ̣i
Châu, Vương Thúc Quý, Đă ̣ng Thái Thân… Và điề u đă ̣c biêt,̣ đi đế n đâu ông
cũng thường cho Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tấ t Thành đi cùng. Trong những
người mà ông Sắ c thường gă ̣p gỡ có ông Phan Bô ̣i Châu (Giố ng như nhiề u nhà
nho yêu nước lúc bấ y giờ, Phan Bô ̣i Châu cũng day dứt trước hiêṇ tiǹ h đấ t nước
và số phâ ̣n của dân tô ̣c).
Ông luôn hướng cho con trải nghiệm thực tiễn và định hướng về con đường
ra đi tìm đường cứu nước. Viê ̣c đinh
̣ hướng của người cha đầ u tiên thể hiêṇ ở


quyế t đinh
̣ cho các con đế n ho ̣c mô ̣t thầ y giáo có lòng yêu nước thương dân đó
là thầy Vương Thúc Quý, đă ̣c biê ̣t đây là si ̃ phu có tư tưởng cấ p tiế n. Hơn nữa,
“nhà thầ y Quý là nơi lui tới của các si ̃ phu yêu nước trong vùng. Nhiề u khi
Nguyễn Tấ t Thành đươ ̣c thầ y sai tiế p nước cho những vi kha
̣ ́ ch đă ̣c biêt,̣ nhờ đó
câ ̣u thiế u niên Nguyễn Tấ t Thành dầ n dầ n hiể u đươ ̣c thời cuô ̣c và sự day dứt của
các bâ ̣c cha chú trước cảnh nước mấ t nhà tan”. Đồ ng thời, Nguyễn Sinh Sắ c đã
ta ̣o điề u kiêṇ cho con ông đươ ̣c “tham gia” vào các cuô ̣c tiế p xúc của mình với
các văn thân si ̃ phu ở khắ p Trung Kỳ. Sau đó, “Tấ t Thành còn đươ ̣c ông cho
theo ra Thái Bin
̀ h trong dip̣ ông đi tìm gă ̣p mô ̣t số si ̃ phu ở đấ t Bắ c”. Những
chuyế n đi đó là những cuô ̣c trải nghiê ̣m để Nguyễn Tấ t Thành đinh
̣ hình riêng
cho mình con đường đi.
Với tư tưởng tiế n bô ̣ và chán ghét chố n quan trường, năm 1905, cu ̣ Sắc cho
hai người con trai của mình - là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung
xuố ng Vinh ho ̣c trường Tiể u ho ̣c Pháp - bản xứ. Đây là mô ̣t quyế t đinh
̣ đươ ̣c
1


cho là khác người của cu ̣, bởi vào trường này là phải ho ̣c chữ Pháp, trong khi cu ̣
theo đuổ i nề n giáo du ̣c truyề n thố ng theo lố i nho ho ̣c (cu ̣ đỗ Phó bảng năm
1901). Trong số các si ̃ phu yêu nước thời đó, ho ̣ ghét Pháp thì ghét luôn cả thành
tựu văn hoá của nó, không muố n cho con cái theo ho ̣c chữ Tây, chữ Quố c ngữ.
Có thể nói, quyế t đinh
̣ trên của cu ̣ Nguyễn Sinh Sắ c mô ̣t phầ n từ sự chán ghét
chố n quan trường, chán ghét sự giả dố i, đồ i truy ̣ của những ông quan triề u điǹ h
Huế . Chính ta ̣i ngôi trường này, Nguyễn Tấ t Thành đươ ̣c tiế p xúc với văn hoá

phương Tây và lầ n đầ u tiên biế t đế n khẩ u hiêu:
̣ Tự do - Biǹ h đẳ ng - Bác ái.
Ngoài thời gian ho ̣c tâ ̣p, Nguyễn Tấ t Thành thường đươ ̣c cha đưa đế n các vùng
trong tỉnh như làng Đồ ng Thái (quê hương của Phan Đình Phùng), thăm các di
tích làng Lu ̣c niên, miế u thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiế p,… Đây là những bài
ho ̣c thực tế bổ ích, quan tro ̣ng, mắ t thấ y, tai nghe đã góp phầ n hiǹ h thành tư
tưởng yêu nước và chí hướng cách ma ̣ng của Nguyễn Tấ t Thành.
Giáo du ̣c tư tưởng cứu nước, cứu dân và đă ̣t niề m tin vào con mình của cu ̣
Nguyễn Sinh Sắ c đã ta ̣o thành ý chí, nghi ̣ lực và đô ̣ng lực cho Nguyễn Tấ t
Thành. Sau này, trên đường đi vào phía Nam, “Nguyễn Tấ t Thành lên Bình Khê
(Biǹ h Đinh)
̣ thăm cha. Thấ y con trai đế n Bình Khê, cu ̣ Nguyễn Sinh Sắ c hỏi
con: - Con đế n đây làm gì? – Con đế n đây tìm cha. Nghe vâ ̣y, cu ̣ Sắ c trìu mế n
nói với con: - Nước mấ t không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì?”. Nguyễn Tấ t
Thành đã từ biêṭ thân phu ̣ với niề m thôi thúc: “Nước mấ t thì đi tìm hồ n của
nước”. Anh thầ m nghi:̃ cảm ơn cha đã sinh thành, nuôi da ̣y con khôn lớn và hiể u
điề u con đang ao ước lúc này.
Sự giáo du ̣c của Nguyễn Sinh Sắ c không chỉ truyề n cho các con trí tuê ̣, ho ̣c
vấ n, mà còn truyề n lòng nhiêṭ huyế t, chí khí ma ̣nh mẽ và đô ̣ng lực vươ ̣t qua mo ̣i
gian nan để vươn tới sự nghiê ̣p lớn cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tô ̣c. Tin
́ h
cách, ý chí của người dân xứ Nghê ̣, lòng yêu nước, thương dân của cu ̣ Nguyễn
Sinh Sắ c đã ảnh hưởng sâu sắ c tới Nguyễn Tấ t Thành và theo suố t cuô ̣c đời Hồ
Chí Minh sau này.
Ảnh hưởng từ người mẹ nhân từ hiền hậu
Bà Hoàng Thị Loan sinh ra trong một gia đình Nho học, ít nhiề u có đươ ̣c
ho ̣c chữ thánh hiề n; lớn lên ở mô ̣t vùng quê giàu truyề n thố ng yêu nước với
những làn điêụ dân ca trữ tin
̀ h, bà đã sớm có vố n số ng, vố n văn ho ̣c dân gian
phong phú. Kết hôn với ông Nguyễn Sinh Sắc, một người mồ côi cả cha lẫn mẹ

- Bà đã chấp nhận cuộc sống vất vả, khó khăn về vật chất để chồng được dùi
mài kinh sử, hun đúc tài năng. Bà đã sinh hạ được 4 người con và có một cuộc
sống tình cảm vô cùng đẹp đẽ với chồng con. Nhờ có Bà động viên, khuyến
khích, ông Nguyễn Sinh Sắc yên tâm dùi mài kinh sử và không phụ công Bà,
ông đã đỗ đạt thành danh. Do hoàn cảnh gia đình quá chật vật, khó khăn và nhất
là với tấm lòng cao đẹp của người mẹ không muốn con mình quá thiếu thốn, với
2


quyết tâm của người vợ không muốn chồng mình phải ngừng học tập vì miếng
cơm, manh áo, Bà đã lao động cật lực. Bằng lao động, bằng cả tấm lòng yêu
chồng, thương con, Bà đã hy sinh tất cả vì chồng con và chính Bà đã vun đắp
nên cuộc đời và sự nghiệp đẹp đẽ của họ. Nhưng cũng vì lao động quá sức, đời
sống ngặt nghèo, thiếu thốn nên Bà đã lâm bệnh nặng và qua đời ở tuổi 33 để
lại niềm thương tiếc vô hạn cho gia đình, người thân, bà con lối xóm.
Bà Hoàng Thị Loan đã có tác động tích cực đến các con bằng tính tình giản
dị, khiêm tốn, đức hy sinh, chung thủy, yêu đời, yêu nước. Bà đã giáo du ̣c con
ngay từ thủa trong nôi qua những lời ru bằ ng làn điêụ dân ca xứ Nghê ̣, bằ ng tu ̣c
ngữ, ca dao... Bà đã dành nhiề u tâm sức để truyề n thu ̣ cho con những hiể u biế t
ban đầ u về cuộc sống, da ̣y con biế t yêu lao đô ̣ng, biế t làm những viê ̣c phù hơ ̣p
với sức lực và lứa tuổ i mô ̣t cách say mê, chiụ khó, sáng ta ̣o. Bà đã tâ ̣p cho con
những viê ̣c tố t và thực tế đã trở thành nế p số ng quen thuô ̣c hàng ngày của cậu
bé Nguyễn Sinh Cung. Lúc ra đi tìm đường cứu nước, trả lời người ba ̣n về viê ̣c
lấ y tiề n đâu để đi, Nguyễn Tấ t Thành đã giơ hai bàn tay và nói: “- Đây, tiề n
đây. - Chúng ta sẽ làm viê ̣c. Chúng ta sẽ làm bấ t cứ viê ̣c gì để số ng và để đi”.
Đó chính là đức tin
́ h quý báu đươ ̣c giáo du ̣c từ những đấ ng sinh thành mẫu mực
và hiề n từ đã góp phầ n quan tro ̣ng hình thành nên nhân cách, ước mơ, hoài baõ
của Nguyễn Tấ t Thành. Sau này, qua quá trình bôn ba qua khắ p các đa ̣i dương,
các châu lu ̣c tìm tòi, khảo nghiê ̣m con đường cứu nước giải phóng dân tô ̣c,

Nguyễn Tấ t Thành đã tự lao đô ̣ng và đã làm nhiề u nghề khác nhau để số ng, để
ho ̣c tâ ̣p và đấ u tranh nhằ m thực hiêṇ ước mơ, hoài baõ của mình.
Tuổ i thơ của Nguyễn Sinh Cung như tờ giấ y trắ ng mà Bà Loan là người đã
viế t những dòng đầ u tiên, đinh
̣ hướng nhân cách, toả sáng tâm hồ n, bồ i đắ p lòng
bác ái, tình nghiã đồ ng bào. Ngay từ tuổ i ấ u thơ, tấ m gương của người me ̣ đã đi
vào tâm khảm, ta ̣o nên bản liñ h tự lực cánh sinh trong mo ̣i lúc, mo ̣i nơi của
Nguyễn Tấ t Thành sau này.
Đức tính thương người, yêu nước, gan dạ từ các thành viên trong gia
đình.
Nguyễn Thị Thanh là người chị cả, có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ, bà hoạt
động tích cực chống Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí sĩ Phan Bội Châu.
Năm 1918 bà Nguyễn Thị Thanh phối hợp với Nguyễn Kiên tổ chức lấy trộm
súng trong doanh trại lính khố xanh đóng tại thành phố Vinh, bị bắt và nhốt vào
nhà tù tra tấn dã man.
Nguyễn Sinh Khiêm - Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt.
Thời thanh niên, ông tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong
kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm. Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông
còn có biệt danh là "Thầy Nghệ". Chịu ảnh hưởng từ truyền thống gia đình, cô
3


Thanh và anh Đạt đều là những người chăm chỉ lao động và thương người, yêu
nước và căm thù giặc ngoại xâm đã gây nên cảnh ly tán, mất mát đau thương
cho gia đình, cho dân tộc Việt Nam.
Nguồn tham khảo: />Quê hương xứ Nghệ
Mỗi một con người, dù người đó là ai - là một người bình thường hay là một
vĩ nhân, đều có một quê hương. Quê hương là nơi mỗi chúng ta được sinh ra và
đón nhận những dấu ấn đầu đời. Những dấu ấn, cảm nhận đó đi sâu vào trong
tiềm thức của mỗi chúng ta, từ đó hình thành nên những tâm tư tình cảm, tư

tưởng, phong cách của mỗi con người trong cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh
của chúng ta cũng vậy, Bác được sinh ra và sống những năm tháng tuổi thơ ở
quê hương xứ Nghệ. Đây là một miền quê nghèo, người dân quanh năm phải
chống chọi với thời tiết khắc nghiệt để sinh sống và chống giặc ngoại xâm để
bảo vệ quê hương. Chính vì vậy, con người Xứ Nghệ luôn có những đức tính
cần, kiệm, yêu lao động, đặc biệt là tinh thần yêu nước nồng nàn, sự đoàn kết,
yêu thương, nhân ái. Bên cạnh đó, con người ở đây còn có tinh thần lạc quan,
ham học hỏi để khắc phục thiên nhiên, cải tạo cuộc sống. Mang đậm dấu ấn văn
hoá của núi Hồng, sông Lam, những làn điệu dân ca, câu hò ví dặm….đã tạo
nên những nét độc đáo, riêng biệt không thể lẫn với bất cứ vùng nào. Sống trong
một miền quê trù phú về văn hoá, tiếp xúc và cảm nhận được những tình cảm
quê hương - từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được lắng nghe những điệu hò,
câu ví qua giọng hát của bà, của mẹ, tiếp xúc với những tình cảm của xóm làng.
Lớn lên được sự chỉ bảo, dạy dỗ nghiêm khắc của cha, sự yêu thương của mẹ và
nhất là sự kèm cặp của ông ngoại, nên dấu ấn văn hoá xứ Nghệ càng thấm sâu
và trong tư tưởng, tình cảm của Người.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, yếu tố gia đình và quê hương giữ vai trò
quan trọng, đã đặt nền móng và kiến tạo nên nhân cách và hoài bão cứu nước,
cứu dân của Hồ Chí Minh.
2. Hoàn cảnh đất nước
Hồ Chí Minh được sinh ra trong tình cảnh đất nước bị mất tự do, suy tàn,
kiệt quệ bị thực dân Pháp đô hộ.
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta, giữa
lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến trở nên gay gắt. Trước hành động xâm
lược của đế quốc Pháp, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn
đã chọn con đường quỳ gối đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong

4



kiến Việt Nam trước đây đại biểu cho dân tộc, đến nay bộc lộ rõ sự thối nát, bất
lực và phản động.
Mặc dù vậy, ngay từ khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta, các phong trào yêu
nước chống Pháp của nhân dân ta với truyền thống kiên cường bất khuất đã liên
tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam. Cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân
dân ta đã gây cho bọn xâm lược rất nhiều khó khăn, thiệt hại. Năm 1885, phong
trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển rầm rộ,
nhưng cũng chỉ kéo dài được đến năm 1896. Tuy các sĩ phu giàu lòng yêu nước,
nhưng không có khả năng vạch ra được giải pháp mới phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Điều này chứng tỏ hệ tư tưởng phong
kiến đã lỗi thời trước các nhiệm vụ của lịch sử. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, các
phong trào yêu nước chống Pháp đều bị thất bại. Bởi kẻ thù mới này có tiềm lực
kinh tế, có đội quân xâm lược nhà nghề với ưu thế về vũ khí, kỹ thuật và phương
tiện chiến tranh.
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi đã cơ bản hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm
lược nước ta, đế quốc Pháp tiến hành kế hoạch “khai thác thuộc địa”, nhằm bóc
lột, vơ vét sức người, sức của ở Việt Nam. Dưới chế độ khai thác, bóc lột và
thống trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi quan trọng:
Về kinh tế, để thu được lợi nhuận tối đa, đế quốc Pháp thi hành chính sách
kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động, đó là duy trì phương thức sản xuất
phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa dưới hình thức thực dân được du nhập vào Việt Nam. Thực hiện
chính sách trên, đế quốc Pháp thực hành thủ đoạn độc quyền kinh tế và thủ đoạn
bóc lột phi kinh tế, đó là chế độ thuế khóa vô cùng nặng nề và hết sức vô lý.
Chính sách kinh tế trên của Pháp đã tước hết khả năng phát triển độc lập của nền
kinh tế Việt Nam, làm cho nó ở trong tình trang lạc hậu, phải hoàn toàn phụ
thuộc vào kinh tế Pháp. Nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa, nông dân, thợ thủ
công
phá

sản,
ngày
càng
nghèo
đói.
Về chính trị, đế quốc Pháp thực hành chính sách chính trị chuyên chế. Chúng
dùng lối cai trị trực tiếp bằng bộ máy công chức chuyên nghiệp người Pháp,
thâu tóm mọi quyền hành. Đứng đầu bộ máy cai trị ở Đông Dương là một tên
toàn quyền người Pháp. Mỗi kỳ có một Thống đốc, hoặc Thống sứ, Khâm sứ.
Mỗi tỉnh có một Công sứ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Với
bộ máy nhà nước thuộc địa như vậy, chúng thẳng tay đàn áp, không cho dân ta
một chút tự do, dân chủ nào. Cùng với chính sách đàn áp dã man phong trào
cách mạng, chúng còn dùng chính sách chia để trị. Chúng chia nước ta thành ba
kỳ với ba hình thức cai trị khác nhau nhằm chia rẽ và gây hằn thù dân tộc. Chúng
còn chia rẽ nhân dân ba nước Đông Dương. Sau khi đẩy họ chống lại nhau,
chúng “lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại”, lập nên xứ “Đông
5


Dương thuộc Pháp”. Chúng còn bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ, đàn áp dã man
mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta.
Về văn hóa, xã hội, đế quốc Pháp thi hành chính sách ngu dân, truyền bá
văn hóa nô dịch, phản động, khuyến khích đồi phong, bại tục, gây tâm lý tự ti,
vong bản. Chúng tước hết mọi quyền sống của con người, lập nhà tù nhiều hơn
trường học. Chúng tìm mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu văn
hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có
sự chuyển biến và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản bắt đầu
xuất hiện. Cùng lúc đó, những ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản,
Trung Quốc tràn vào Việt Nam làm cho hong trào yêu nước của nhân dân ta

chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Nó được các sĩ phu Nho học có tư
tưởng tiến bộ, thức thời, tiêu biểu như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh tổ chức
và vận động. Song chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc
lập của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông
dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó mà lần lần tính chuyện giải phóng... của
Phan Châu Trinh cũng không thành công. Còn con đường khởi nghĩa của anh
hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, chưa phải là
lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn.
Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây dẫn đến những
thay đổi về tính chất và mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đối tượng và
lực lượng của cách mạng Việt Nam. Cơ cấu giai cấp xã hội cũng thay đổi: giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai
cấp cũ, rồi kéo theo sự thay đổi về ý thức xã hội và đời sống. Bị đế quốc Pháp
xâm lược, xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam là: mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam – chủ yếu là nông dân – với giai cấp địa chủ phong kiến. Đối tượng
cần phải đánh đổ của cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ
phong kiến. Trong bối cảnh của tình hình quốc tế và trong nước như vậy, giải
phóng dân tộc là yêu cầu căn bản của xã hội Việt Nam, là nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam, là nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, đến
đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, về giai cấp lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng Việt
Nam ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra".
Lịch sử đang đặt ra đòi hỏi cần có một con đường cứu nước đúng đắn khác.
Vượt lên những hạn chế về điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, vượt
lên những hạn chế của các sĩ phu yêu nước đương thời, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thnahf đã rời tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
6



Nguồn tham khảo:
- />7&cn_id=458723
- Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản cính trị quốc gia – 2013 (trang
25- 26).
3. Bối cảnh thời đại
Những yếu tố thời đại có nhiều ảnh hưởng quyết định trong sự lựa chọn con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Nguồn tham khảo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản cính trị
quốc gia – 2013 (trang 26-27-28).
4. Nhân cách của Hồ Chí Minh
Nhân cách là những giá trị đặc biệt của mỗi con người cụ thể, là cái đặc sắc
hay tiêu chí để phân biệt người này với người khác. Nhân cách Hồ Chí Minh là
giá trị văn hóa Hồ Chí Minh, không phải tự nhiên mà có. Nhân cách Hồ Chí
Minh được kết tinh từ nhiều yếu tố: truyền thống gia đình, quê hương, đất nước,
từ hoàn cảnh của thời cuộc; từ giáo dục và tự giáo dục.
“Nhân” trong nhân cách Hồ Chí Minh có cốt lõi là tình thương đối với nhân
loại cần lao. Nhân ái này có nội dung khác hẳn với tư tưởng của Mặc Tử, Mạnh
Tử. Với Mặc Tử và Mạnh Tử, tất cả thiên hạ đều thương yêu nhau như anh em
một nhà, tức là một tình thương chung chung, thương cả kẻ thù của chính mình.
Nhân ái của Hồ Chí Minh khác với nhân ái của các sĩ phu phong kiến Việt Nam
thời đó. Nó không phải là lòng thương hại của những người đứng từ trên nhìn
xuống, cũng không phải là lòng từ bi bác ái mơ hồ không vượt qua được. Nhân
ái của Hồ Chí Minh trước hết là sự tôn trọng con người. Đó là tất cả người lao
động trong nước cũng như trên thế giới, từ người nô lệ, người tù đến người công
nhân, nông dân cùng khổ dưới ách cai trị của thực dân, phong kiến, đặc biệt là
đối với những lớp người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em…).
“Nhân” trong nhân cách Hồ Chí Minh là sự tôn trọng nhân phẩm, nhân
quyền và là sự đấu tranh quyết liệt với kẻ thù chà đạp lên nhân phẩm con người.
Chữ “Nhân” của Hồ Chí Minh không phải dừng ở mức cảm thông sâu sắc với

nỗi khổ cực của người dân lao động, những người nông dân nghèo mà cao hơn
là nhân nghĩa, thể hiện ở hành động cứu người, ở cách xử thế, ở lối sống trong
đời sống hằng ngày. Hồ Chí Minh không chịu cảnh “ai lo phận ấy và thượng đế
lo cho tất cả”, cảnh yên phận, sung sướng cá nhân.
Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu dân. Không thể nói yêu
nước mà lại không thương dân, không lấy nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu
của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình.
7


Bởi vậy mà, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, người con xứ Nghệ, mới 21
tuổi đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước, bởi trong anh đang nung nấu một
quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là
tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Ngày 5-6-1911, trên con tàu Latútsơ Tơrevin, từ Bến cảng Nhà Rồng, thành
phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc
thân yêu ra đi tìm đường cứu nước.
Nguồn tham khảo: />
8



×