Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.52 KB, 16 trang )

T TNG H CH MINH

Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày học thuyết Âm - D ơng, Ngũ hành của triết học
Trung Hoa cổ, trung đại?

Âm dơng và Ngũ hành là hai phạm trù quan trọng trong t tởng triết học Trung Hoa, là những khái
niệm trừu tợng đầu tiên của ngời xa đối với sự sản sinh biến hoá của vũ trụ. Việc sử dụng hai
phạm trù Âm - Dơng và Ngũ hành đánh dấu bớc tiến bộ t duy khoa học đầu tiên nhằm thoát khỏi
sự khống chế về t tởng do các khái niệm Thợng đế, Quỷ thần truyền thống đem lại. Đó là cội
nguồn của quan điểm duy vật và biện chứng trong t tởng triết học của ngời Trung Hoa.
- T tởng triết học về Âm - Dơng
"Dơng" nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay những gì về ánh sáng mặt trời và ánh
sáng; "Âm" có nghĩa là Thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau, Âm - Dơng đợc coi nh hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ: Biểu thị cho giống đực, hoạt động,
hơi nóng, ánh sáng, khôn ngoan, rắn rỏi, v.v..tức là Dơng; giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối,
ẩm ớt, mềm mỏng, v.v.tức là Âm. Chính do sự tác động qua lại giữa chúng mà sinh ra mọi sự vật,
hiện tợng trong trời đất. Trong Kinh Dịch sau này có bổ sung thêm lịch trình biến hoá của vũ trụ
có khởi điểm là Thái cực. Từ thái cực mà sinh ra Lỡng nghi (âm dơng), rồi Tứ tợng, rồi Bát quái.
Vậy, nguồn gốc vũ trụ là Thái cực, chứ không phải Âm Dơng. Đa số học giả đời sau cho Thái cực
là thứ khí "Tiên Thiên", trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngợc nhau về tính chất Âm - Dơng.
Đây là một quan niệm tiến bộ so với quan niệm Thợng đế làm chủ vũ trụ của các đời trớc.
Hai thế lực Âm - Dơng không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ớc lẫn nhau theo các
nguyên lý sau:
- Âm - Dơng thống nhất thành thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, tính chỉnh
thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàn t tởng về sự thống nhất giữa cái bất
biến và cái biến đổi.
- Trong Âm có Dơng, trong Dơng có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm Dơng đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Các nguyên lý trên đợc khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tợng trng cho Âm - Dơng, hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau nhng ôm lấy nhau, xoắn lấy
nhau.
- T tởng triết học về Ngũ hành
Từ "Ngũ hành" đợc dịch là năm yếu tố. Nhng ta không nên coi chúng là những yếu tố tĩnh
mà nên coi là năm thế lực động có ảnh hởng đến nhau. Từ "Hành" có nghĩa là "làm", "hoạt


động", cho nên từ "Ngũ hành" theo nghĩa đen là năm hoạt động, hay năm tác nhân. Ngời ta cũng
gọi là "Ngũ đức" có nghĩa là năm thế lực. "Thứ nhất" là Thuỷ, hai là Hoả, ba là Mộc , bốn là
Kim, năm là Thổ.
Cuối Tây Chu, xuất hiện thuyết Ngũ hành đan xen. Ngũ hành đợc dùng để giải thích sự
sinh trởng của vạn vật trong vũ trụ. "Thổ mộc hoả đan xen thành ra trăm vật". "Hoà hợp thì sinh
ra vật, đồng nhất thì không tiếp nối".(Quốc ngữ - trịnh ngữ). Tức là nói những vật giống nhau thì
không thể kết hợp thành vật mới, chỉ có những vật có tính chất khác nhau mới có thể hoá sinh
thành vật mới. Tiếp theo đó là thuyết Ngũ hành tơng thắng, rồi xuất hiện thuyết Ngũ hành tơng
sinh đã bổ khuyết chỗ cha đầy đủ của thuyết ngũ hành đan xen.
T tởng Ngũ hành đến thời Chiến Quốc đã phát triển thành một thuyết tơng đối hoàn chỉnh
là "Ngũ hành sinh thắng". "Sinh" có nghĩa là dựa vào nhau mà tồn tại, thắng có nghĩa là đối lập
lẫn nhau.
Nh vậy, t tởng triết học về Ngũ hành có xu hớng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó
về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, nhng tơng tác với nhau.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hởng sinh khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau:
+ Tơng sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thuỷ; Thuỷ sinh Mộc; Mộc
sinh Hoả; Hoả sinh Thổ v.v
+ Tơng khắc (chế ớc lẫn nhau): Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả; Hoả khắc Kim; Kim
khắc Mộc; và Mộc khắc Thổ v.v..
Thuyết Âm Dơng và Ngũ hành đợc kết hợp làm một vào thời Chiến Quốc đại biểu lớn
nhất là Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý luận Âm Dơng Ngũ hành "Tơng sinh tơng khắc" để
giải thích mọi vật trong trời đất và giữa nhân gian. Từ đó phát sinh ra quan điểm duy tâm Ngũ
đức có trớc có sau. Từ thời Tần Hán về sau, các nhà thống trị có ý thức phát triển thuyết Âm Dơng Ngũ hành, biến thành một thứ thần học, chẳng hạn thuyết "Thiên nhân cảm ứng" của Đổng
Trọng Th, hoặc "Phụng mệnh trời" của các triều đại sau đời Hán.


Câu 2: Anh (chị) hãy làm sáng tỏ luận điểm "Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn
kết của toàn dân"?

Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

Đứng trên lập trờng giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã đề cập
vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng ng ời. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Hồ Chí Minh thờng dùng khái niệm này để chỉ
mọi con dân nớc Việt, mỗi một ngời con Rồng cháu Tiên, không phân biệt dân tộc đa số hay
thiểu số, có tín ngỡng hay không tín ngỡng, không phân biệt già, trẻ, trai, gái, giàu ghèo, quý
tiện. Nh vậy, dân và nhân dân trong t tởng Hồ Chí Minh vừa đợc hiểu với t cách là mỗi con ngời
Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả
quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất
là đại đoàn kết toàn dân.
Nói đại đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp đợc tất cả mọi ngời dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn kết trong t tởng Hồ
Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tần nấc, nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại giữa
các thành viên, các bộ phận, các lực lợng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ
trong ra ngoài, từ trên xuống dớiHồ Chí Minh đã nhiều lần nói: Đoàn kết của ta không những
rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài .. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc;
ta còn phải đoàn kết để xây dựng nớc nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Từ Ta ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam
nói riêng, vừa là mọi ngời dân Việt Nam nói chung.
Ngời còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững trên
lập trờng của giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lợng, không đợc phép bỏ sót một lực lợng nào, miễn là lực lợng đó có lòng trung thành và sẵn sàng
phục vụ Tổ quốc, không là việt gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là đợc. Với tinh
thần đoàn kết rộng rãi nh vậy, Hồ Chí Minh đã định hớng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc, tới cách mạng dân
chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Câu 3: Anh (chị) hãy làm sáng tỏ luận điểm" Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa
truyền thống yêu nớc - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan
dung, độ lợng, tin vào nhân dân, tin vào con ngời"?
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu n ớc- nhân nghĩa đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này đợc hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá
trình dựng nớc và giữ nớc hàng ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào
t tởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con ngời Việt Nam, đợc lu truyền qua các thế hệ từ thời các

Vua Hùng dựng nớc, tới Bà Trng. Bà Triệu, Trần Hng Đạo, Lê Lợi, Quang TrungTruyền thống
đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ,
làm cho đất nớc đợc trờng tồn, bản sắc dân tộc đợc giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lợng với con ngời. HCM chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng nh
mỗi cộng đồng đều có những u điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấuCho nên, vì lợi ích của cách
mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lợng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con ngời mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lợng. Ngời viết: Sông to, biển rộng thì bao nhiêu
nớc cũng chứa đợc, vì độ lợng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nớc đầy
tràn, vì độ lợng nó hẹp nhỏ. Ngời mà tự kiêu, tự mãn, cũng nh cái chén, cái đĩa cạn. Ngời đã lấy
hình tợng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhng cả năm ngón đều thộc về một bàn tay, để
nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Ngời núi Trong mấy triệu ngời cũng có ngời thế
này thế khác, nhng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng,
đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối
với những đồng bào lạc lối lầm đờng ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ. Có nh thế mới
thành đoàn kết, có đại đ.kết thì tơng lai chắc chắn sẽ vẻ vang.
Lòng khoan dung độ lợng ở HCM không phải là một sách lợc nhất thời một thủ đoạn
chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái bao dung của dân tộc, từ chính mục
tiêu của cuộc cách mạng mà ngời suốt đời theo đuổi. đó là một t tởng nhất quán, đợc thể hiện
trong đờng lối, chính sách của Đảng đối với những ngời làm việc dới chế độ cũ và những ngời
nhất thời lầm lạc biết hối cải. Ngời tuyên bố: Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống


nhất, độc lập, dân chủ thì dù những ngời đó trớc đây chống lại chúng ta, bây giờ chúng ta cũng
thật thà đoàn kết với họ. Ngời tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nớc, không phân biệt
tầng lớp, tín ngỡng, chính kiến và trớc đây đã từng đứng về phe nào, hãy cùng nhau đoàn kết vì nớc, vì dân. Để thực hiện đợc đoàn kết, cần xoá bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Ngời cho rằng, trong mỗi con ngời Việt Nam, ai cũng có ít hay
nhiều tấm lòng yêu nớc tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nớc đó có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ
cần làm thức tỉnh lơng tri con ngời thì lòng yêu nớc đó lại bộc lộ. Với niềm tin vào sự hớng thiện
của con ngời vì lợi ích tối cao của dân tộc, HCM đã chân thành lôi kéo, tập hợp đợc chung quanh
mình nhiều ngời trớc đây vốn là quan đại thần của Nam triều cũ. Nh: Thợng th Bùi Bằng Đoàn,
Khâm sai đại thần Phan kế Toại .. vào khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để họ có đóng

góp vào sự nghiệp kháng chiến, khiến quốc của dân tộc.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu
dân, tin dân, dựa vào dân, sống đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao.
Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc nớc lấy dân lâm gốc, chở thuyền và
làm lật thuyền cũng là dân, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít cách mạng là sự
nghiệp của quần chúngTrong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn
quốc, tháng 1 năm 1955, Ngời chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trớc hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng nh cái nền của nhà, gốc của cây. Nhng đã có nền vững,
gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác.

Câu 4: Anh (chị) hãy trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực
đạo đức cách mạng?

Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
- Trung với nớc, hiếu với dân
Trung và hiếu là những khái niệm cũ trong t tởng đạo đức truyền thống Việt Nam và
phơng Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất, và cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất:
Trung với vua, hiếu với cha mẹ.
Hồ Chí Minh đã mợn khái niệm trung, hiếu trong t tởng đạo đức truyền thống cân tộc
và đa vào đó một nội dung mới: Trung với nớc, hiếu với dân, tạo nên một cuộc cách mạng
trong quan niệm về đạo đức. Ngời nói: Đạo đức cũ nh ngời đầu ngợc xuống đất chân chổng lên
trời. Đạo đức mới nh ngời hai chân đứng vững dợc dới đất, đầu ngửng lên trời.
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nớc phải gắn liền hiếu với dân. Vì nớc là nớc của dân,
còn dân lại là chủ nhân của nớc; bao nhiêu quyền hành và lực lợng đều vì dân, cán bộ là đày tớ
của dân chứ không phải là quan cách mạng.
Trung với nớc là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nớc và giữ nớc trung thành với
con đờng đi lên của đất nớc; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể
hiện ở chỗ thơng dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Để làm đợc nh vậy, phải gần dân, kính
trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí

Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thờng xuyên quan tâm cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi ngời, là đại cơng
đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính nhng không bao giờ thực hiện mà bắt nhân dân tuân theo phụng sự quyền lợi cho chúng.
Ngày nay,ta đề ra cần kiệm, liêm chính cho cán bộ thực hiện làm gơng cho nhân dân ta theo là
để đem lại hạnh phúc cho dân. với ý nghĩa nh , cần, kiệm, liêm chính, chí công vô t.cũng là một
biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất trung với nớc, hiếu với dân
Cũng nh khái niệm trung, hiếu, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t cũng là những
khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, đợc Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không
phù hợp và đa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu cách mạng.
Cần là siêng năng, chăm chỉ: Lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với
tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của cải) của nớc, của
dân; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trơng hình thức, không liên
hoan, chè chén lu bù.


Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải trong sạch, không tham lam tiền của,
địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Ngời đa ra một số yêu cầu: Đối với mình - không đợc tự
cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với
ngời - không nịnh ngời trên, không khinh ngời dới, thật thà, không dối trá. Đối với việc - phải để
việc công lên trên, lên trớc, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác, nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm liêm, chính, có quan hệ chặt chẽ với
nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là ngời thực hành trớc để làm kiểu mẫu
cho dân. Ngời cho rằng, những ngời trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu giữ
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thớc đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh

về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống
mới, của các phong trào thi đua yêu nớc.
Chí công vô t, là công bằng, công tâm, không thiên t, thiên vị; làm việc gì cũng không
nghĩ đến mình trớc, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, lo trớc thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ
u nhi u, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chí công vô t là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa
cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là lối sống ích kỷ, chỉ
biết có riêng mình, thu vén cho riêng mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên mất công lao
của ngời khác. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, nh: quan liêu, mệnh lệnh,
bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, coi thờng tập
thể, tự cao tự đại, độc đoán chuyên quyền.Đó là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ
dành ngời ta đi xuống dốc. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu
không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
- Thơng yêu con ngời, sống có tình có nghĩa
Yêu thơng con ngời đợc Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất. Ngời nói, ngời cách mạng là ngời giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm
cách mạng. Vì yêu thơng nhân dân, yêu thơng con ngời mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để
đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho con ngời.
Tình yêu thơng đó là một tình cảm rộng lớn, trớc hết dành cho những ngời nghèo khổ,
những ngời bị mất quyền, những ngời bị áp bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Ngời
cho rằng, nếu không có tình yêu thơng nh vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể
nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thơng con ngời phải đợc xây dựng trên lập trờng giai cấp công nhân, thể hiện
trong mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh emNó đòi hỏi mỗi ngời phải chặt chẽ và
nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lợng và giàu lòng vị tha với ngời khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn
trọng những quyền của con ngời, nâng con ngời lên, kể cả những ngời nhất thời lầm lạc, chứ
không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con ngời. Ngời
dạy: Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin đợc. Trong di
chúc, Ngời căn dặn: Phải có tình đồng chí thơng yêu lẫn nhau.

- Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản
chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, v ợt ra
khỏi quốc gia dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong t tởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự
tôn trọng, hiểu biết, thơng yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc
và nhân dân các nớc, với những ngời tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất
bình đẳng và phân biệt chủng tộc, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ
nghĩa bành trớng bá quyềnHồ Chí Minh chủ trơng giúp bạn là tự giúp mình.
Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phơng vô sản, bốn
bề đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp
tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đã tạo ra một kiểu quan hệ
quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại.


Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích phẩm chất đạo đức: "Th ơng yêu con ngời,
sống có tình có nghĩa" theo t tởng Hồ Chí Minh? Vận dụng vào việc rèn luyện,
tu dỡng đạo đức cách mạng bản thân?

5.1- Thơng yêu con ngời, sống có tình có nghĩa
Yêu thơng con ngời đợc Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất. Ngời nói, ngời cách mạng là ngời giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm
cách mạng. Vì yêu thơng nhân dân, yêu thơng con ngời mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để
đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho con ngời.
Tình yêu thơng đó là một tình cảm rộng lớn, trớc hết dành cho những ngời nghèo khổ,
những ngời bị mất quyền, những ngời bị áp bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Ngời
cho rằng, nếu không có tình yêu thơng nh vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể
nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thơng con ngời phải đợc xây dựng trên lập trờng giai cấp công nhân, thể hiện

trong mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh emNó đòi hỏi mỗi ngời phải chặt chẽ và
nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lợng và giàu lòng vị tha với ngời khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn
trọng những quyền của con ngời, nâng con ngời lên, kể cả những ngời nhất thời lầm lạc, chứ
không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con ngời. Ngời
dạy: Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin đợc. Trong di
chúc, Ngời căn dặn: Phải có tình đồng chí thơng yêu lẫn nhau.
5.2 Vận dụng vào việc rèn luyện, tu dỡng đạo đức toàn thân.

Cau 7. Anh (chị) hãy trình bày nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: "Phải tu d ỡng đạo đức suốt đời". Anh (chị) đã vận dụng nguyên tắc này nh thế nào trong
quá trình tu dỡng đạo đức?
7.1 Phải tu dỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể đợc xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dỡng đạo đức của
mỗi ngời. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi ngời tự nhận thấy sâu sắc việc
trau dồi đạo đức cách mạng là một việc sung sớng vẻ vang nhất trên đời. Ngời nhắc lại luận
điểm của Khổng Tử chính tâm, tu thân và chỉ rõ: Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo
cũng phải trờng kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi ngời. Bồi dỡng
t tởng mới để đánh thắng t tởng cũ, đoạn tuyệt với con ngời cũ để trở thành con ngời mới không
phải là một công việc dễ dàng..Dù khó khăn gian khổ nhng muốn cải tạo thì nhất định thành
công.
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự do của
dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ
những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi ngời phải tự giác rèn luyện thông
qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào
mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dỡng suốt đời
nh công việc rửa mặt hằng ngày. Hồ Chí Minh đa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: Đạo đức cách
mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bề bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng nh ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
7.2 Vận dụng nguyên tắc trong quá trình tu dỡng đạo đức


Câu 6: Anh (chị) hãy trình bày nguyên tắc xây dựng đạo đức mới "Nói đi đôi
với làm, phải nêu gơng về đạo đức". Anh (chị) đã vận dụngv nguyên tắc này
nh thế nào trong quá trình tu dỡng đạo đức?

6.1 Nói đi đôi với làm, phải nêu gơng về đạo đức.
Nói đi đôi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây
dựng một nền đạo đức mới. Điều này đợc Hồ Chí Minh khẳng định từ giữa những năm 20 của thế
kỷ XX trong tác phẩm Đờng cách mệnh. Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gơng trong sáng tuyệt vời
về lời nói đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm là đặc trng bản chất của t tởng đạo đức Hồ Chí
Minh - đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp
bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ,
vác mặt làm quan cách mạng.nói mà không làm. Sau này, Ngời đã nhiều lần bàn đến việc tẩy
sạch căn bệnh quan liêu, coi thờng quần chúng của một số cán bộ, đảng viên miệng thì nói


phụng sự quần chúng, nhng họ làm trái ngợc với lợi ích của quần chúng, trái ngợc với phơng
châm và chính sách của Đảng và Chính phủ làm tổn hại uy tín của Đảng và Chính phủ trớc nhân
dân.
Nêu gơng về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phơng Đông. Nói đi đôi với
làm phải gắn liền với nêu gơng về đạo đức. Hồ Chí Minh đã có lần chỉ rõ: nói chung thì các dân
tộc phơng Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gơng sống còn có giá trị hơn một trăm
bài diễn văn tuyên truyền. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng
Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiền phong, mà còn bằng chính tấm g ơng đạo đức
cao cả của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền
đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đạo làm gơng. Ngời nói: Lấy gơng
ngời tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con ngời mới, cuộc sống mới. Để làm đợc nh

thế, phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình ngời tốt, việc tốt rất gần gũi trong đời thờng,
trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong học tậpbởi theo Ngời, từng giọt nớc
chảy về một hớng mới thành suối, thành sông, thành biển cả. Không nhận thức đợc điều này là
chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc. Ngời nói: Ngời tốt, việc tốt nhiều lắm. ở đâu cũng có. Ngành,
giới nào, địa phơng nào, lứa tuổi nào cũng có.
Nh vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể xây đợc xây dựng trên một cái nền rộng lớn,
vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã hội.
6.2 Vận dụng nguyên tắc trong quá trình tu dỡng đạo đức.

Câu 8: Anh (chị) hãy trình bày nguyên tắc xây dựng đạo đức mới "Xây đi đôi
với chống". Anh (chị) đã vận dụng nguyên tắc này nh thế nào trong quá trình
tu dỡng đạo đức trong giai đoạn hiện nay?

8.1 Xây đi đôi với chống
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Trong
đời sống hàng ngày, những hiện tợng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo thờng đan
xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con ngời khác nhau, thậm chí trong mỗi
con ngời. Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây
phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trớc hết phải đợc tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đạo đức. Việc giáo dục đạo đức phải đợc tiến hành phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng; phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và
trong từng môi trờng khác nhau; phải khơi dậy đợc ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi ngời. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng: Mỗi con ngời đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm sao cho
phần tốt ở trong mỗi con ngời nảy nở nh hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của ngời cách mạng. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm chất đạo đức cao quý đối với mỗi
ngời và mỗi tổ chức, trớc hết là Đảng.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong đời sống
hằng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đờng đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có
thể đợc xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những

thói quen và tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là một cuộc chiến đấu
khổng lồ giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Để giành đ ợc thắng lợi
trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động
hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
8.2 Vận dụng nguyên tắc trong quá trình tu dỡng đạo đức hiện nay


Câu 9: Anh (chị) hãy trình bày những hiểu biết của mình về t tởng Hồ Chí
Minh với vấn đề y đức? Là một ng ời công tác trong ngành Y, anh (chị) có h ớng
rèn luyện phấn đấu nh thế nào cho nghề nghiệp của bản thân?

9.1 Hiểu biết của bản thân về t tởng HCM với vấn đề Y đức
- Y đức là phẩm chất tốt đẹp, cao quý của ngời thầy thuốc đợc thể hiện qua thái độ, tinh
thần trách nhiệm, hết lòng thơng yêu, chăm sóc ngời bệnh. Lời Bác Hồ dạy: "Lơng y nh từ mẫu".
Y đức không ở đâu xa, đó là thái độ giao tiếp, cung cách phục vụ, chăm lo cho sức khoẻ của bệnh
nhân.
- Cả cuộc đời Hồ Chí Minh luôn phấn đấu cho sự nghiệp cao cả giải phóng dân tộc, giải
phóng con ngời khỏi ách áp bức, bóc lột, nghèo đói, bệnh tật. Vì vậy, ngành y tế - ngành chăm lo
sức khoẻ con ngời là một trong những ngành đợc Ngời quan tâm đến nhiều nhất. Những t tởng,
quan điểm của Ngời rất toàn diện, sâu sắc về y học, y tế và đã trở thành nền tảng t tởng cho mọi
hoạt động của ngành y tế suốt từ những ngày đầu cách mạng đến tận mai sau. Những t tởng, quan
điểm đó là: Xây dựng nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng, vấn đề y đức là vai trò
của y học dự phòng, vấn đề kết hợp đông y với tây y, kết hợp dân - quân y trong sự nghiệp bảo vệ
và chăm sóc sức khoẻ nhân dân
- Y đức là vấn đề trung tâm, vấn đề cốt lõi trong quan điểm về y tế của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Không nghề nào quan trọng và ảnh hởng sâu sắc đến sức khoẻ và tính mạng con ngời nh
nghề y, không nghề nào mà sai lầm hay thiếu sót lại ảnh hởng lớn đến sự sống còn, đến sức khoẻ
con ngời nh nghề y. Ngay từ những ngày đầu thành lập nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà Ngời đã
quan tâm sâu sắc đến bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, đến ngành y. Cách mạng vừa
thắng lợi, thù trong, giặc ngoài rình rập, mọi việc còn ngổn ngang trăm mối, Chủ tịch Hồ Chí

Minh vẫn phát động phong trào đời sống mới, khởi xớng phong trào "khỏe vì nớc". Ngời chỉ rõ:
"Giữ gìn dân chủ, xây dựng nớc nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành
công".
- Có thể nói rằng, không một nội dung nào sâu sắc hơn, ngắn gọn hơn, súc tích hơn, đúng
đắn hơn, nói lên đợc sự cao cả, thiêng liêng của ngành y tế, của ngời thầy thuốc nh lời của Ngời
về y đức. Bao tấm gơng đẹp, tận tuỵ, hết lòng, hết sức phục vụ ngời bệnh trong sự nghiệp chăm
sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, điển hình nh Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ
- T tởng Hồ Chí Minh về y đức từng giai đoạn, từng thời kỳ đã đợc thể chế hoá cụ thể
thành những việc rõ ràng trong công tác phục vụ ngời bệnh, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân
dân.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành y và xây dựng đội ngũ y, bác sĩ nhân
viên y đợc thể hiện rất rõ trong bức th Ngời gửi Hội nghị cán bộ y tế vào các năm 1953 khi nhân
dân ta chuẩn bị kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, và vào năm 1955, khi
hoà bình đã lập lại nhân dân miền Bắc bắt đầu bớc vào thời kỳ mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những quan điểm nổi bật của Ngời về xây dựng ngành y và cán bộ nhân viên y tế là:
+ Thứ nhất: Cần xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, bác sĩ, y tá, những ngời giúp việc có tình
thơng yêu, săn sóc ngời bệnh nh anh em ruột thịt của mình, cần phải tận tâm, tận lực phụng sự
nhân dân. Về chuyên môn: Cán bộ y tế cần học tập, nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, chú trọng
những vấn đề thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh. Về chính trị, cần trau dồi t tởng và đạo đức
cách mạng, có tinh thần yêu nớc, yêu dân, yêu nghề, thi đua học tập và công tác.
+ Thứ hai: Cần phải xây dựng một nền y học cách mạng. Những năm nớc ta bị thực dân
thống trị, thì y học cũng nh các ngành khác đều bị kìm hãm. "Nay chúng ta độc lập, tự do, cán bộ
cần giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta.
Y học ngày càng phải dựa trên nguyên tắc: Khoa học, dân tộc và đại chúng".
+ Thứ ba: Phòng bệnh cũng cần thiết nh trị bệnh. Về cách điều trị bệnh cần kết hợp các
phơng pháp cổ truyền với các phơng pháp hiện đại của thế giới. "Ông cha ta ngày trớc có nhiều
kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học,
các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây".
+ Thứ t: Về tổ chức bộ máy ngành Y, cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dới làm cho nó gọn gàng, hợp lí, ít tốn của mà làm đợc nhiều việc ích lợi cho nhân dân. Cần lựa
chọn và đào tạo nhiều cán bộ mới trong thanh niên nam nữ, dạy cho họ làm những công việc

chuyên môn cần thiết.
+ Thứ năm: Cán bộ, nhân viên ngành Y phải thật thà đoàn kết: "Đoàn kết giữa cán bộ cũ
và mới. Đoàn kết tất cả những ngời trong ngành y tế, từ các bộ trởng, thứ trởng, bác sỹ, dợc sỹ
cho đến các anh chị giúp việc". Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nh ng ngời nào cũng
là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân.


- Chủ tich Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hoá mới, đạo đức
cách mạng mới trong lịch sử dân tộc. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự khoan dung, nhân hậu, là lòng
thơng ngời hết mực. Trong tình thơng yêu con ngời đó, mọi ngời đều có chỗ. Ngời không bỏ sót
ai, không quên ai, nhất là những ngời lao khổ, bần cùng, ốm đau, bệnh tật. Ngời nói: "Mỗi ngời,
mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng, gộp những đau khổ riêng của mỗi ngời, mỗi gia đình
thì thành nỗi đau khổ của tôi". Chỉ tấm lòng cao cả, thơng ngời lớn lao nh vậy mới có thể thấu
hiểu đợc nỗi đau đớn của ngời ốm đau, bệnh tật, mới có thể nêu lên y đức của của ngời thầy
thuốc cao cả, thiêng liêng sâu sắc nh vậy.
- Ngời luôn mong muốn "Lơng y phải nh từ mẫu", ngời thầy thuốc săn sóc ngời bệnh nh
ngời mẹ săn sóc con cái mình. Với tinh thần đó ngời căn dặn các thế hệ những ngời thầy thuốc
rằng: "Ngời bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô,
các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang".
9.2 Rèn luyện bản thân
- Đối với những ngời thầy thuốc trẻ hôm nay cần phải không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn, có những suy nghĩ và hành động trong sáng, giữ gìn phầm chất đạo đức tốt đẹp của
ngời thầy thuốc.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với bệnh nhân, phục vụ bệnh nhân tận tình ân cần
chu đáo, lấy việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của bệnh nhân làm niềm vui, niềm hạnh phúc của cá
nhân mình, có nh thế mới xứng đáng với những lời dạy của Bác Hồ về y đức, với truyền thống vẻ
vang của ngành y, xứng đáng với vẻ đẹp trong sáng của chiếc áo blu mà hằng những thầy thuốc
Việt Nam ngày vẫn khoác lên mình.
- Xây dựng và phát triển mối liên hệ mật thiết với các đồng nghiệp, phấn đấu vì những giá
trị trong tập thể chuyên môn.

- Có thái độ khiêm tốn, hoà nhã không phân biệt đối xử vị trí công tác giữa các thành
viên, giữa ngời giỏi hoặc kém hơn mình
- Học hỏi những điều hay những đóng góp của đồng nghiệp để hoàn thiện hơn về bản
thân.
- Khi uỷ quyền chăm sóc hay điều trị ngời bệnh, thầy thuốc phải đảm bảo ngời đợc uỷ
quyền có đủ khả năng theo dõi quá trình diễn biến sức khoẻ của ngời bệnh, đồng thời phải cung
cấp đầy đủ thông tin về ngời bệnh cho ngời đợc uỷ quyền.


Câu 10:Đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm HCM? Liên hệ thực tế VN hiện nay?
*)

Những
1.

quan

điểm

của

HCM

về

đại

đoàn

kết


dân

tộc:

Đoàn kết là vấn đề chiến lược của CMVN

Đoàn kết là vấn đề cơ bản xuyên suốt lâu dài nhằm tạo ra sức mạnh bảo đảm cho
CM giành thắng lợi




Đoàn kết dân tộc là chính sách dân tộc ko pải thủ đoạn chính trị

HCM thực sự quan tâm đến đoàn kết. trong suốt cuộc đời hoạt động CM, Người
dành đến 40% bài viết về đoàn kết, sử dụng khoảng 2000 lần cụm từ “đoàn kết”,”đại
đoàn kết”. người luôn nhận thức đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định
thành công của CM. Người thường khẳng định “ Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng
lợi”,” Đoàn kết là điểm mẹ. điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt”


Thực tiễn: chỉ rõ khi nào dân tộc ta phát huy sức mạnh đoàn kết thì CM mới thành
công và ngược lại CM thất bại


2.Đại đoàn kết dân tộc là 1 mục tiêu, 1 nhiệm vụ hàng đầu của CM
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc pải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng. Đại đoàn kết dân tộc ko chỉ là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu
của cả dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân

dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn,
chuyển những đòi hỏi khách quan, tự pát của quần chúng nhân dân thành sức mạnh vô
địch trong cuộc đtranh giải póng dân tộc, giải póng con người.


3.Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân


Người đưa ra khái niệm dân rất rộng:

+) all mọi người ko pân biệt tuổi tác, giới tính, dtoc, tôn giáo,đảng pái, giai cấp
+) all mọi người ko pân biệt nơi cư trú, địa dư hành chính: ko pân biệt nông thôn, hay thành pố…
+)
dân
đồng
nghĩa
với
đồng
chí,
đồng
bào,
cùng
chí
hướng
+) Dân gắn liền với nhân dân lao động
Đoàn kết toàn dân là pải tập hợp, giáo dục, giác ngộ cảm hóa nhân dân vì nhận
thức , dân trí chưa cao hành vi chưa đúng. Trong cảm hóa, giáo dục thì pải tránh căn bệnh
xem nhẹ quần chúng, hạ thấp vai trò của quần chúng, không quan tâm đến giáo dục giác
ngộ nhưng đồng thời pải tin vào dân, dựa vững vào dân


Chú ý cải thiện đời sống cho nhân dân



Trong đoàn kết toàn dân pải chú ý tăng cường liên minh công nông và đặt dưới sự
chỉ đạo của Đảng cộng sản


4.Đoàn kết dân tộc pải có tổ chức, có lãnh đạo
Tổ chức thực hiện khối đại đoàn kết dtoc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân VN phấn
đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh púc của nhân
dân

Tùy theo từng giai đoạn CM, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dtoc thống nhất
có tên gọi khác nhau. Đảng lãnh đạo muốn lãnh đạo mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc, trong Đảng pải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết trong Đảng là cơ
sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết toàn dân


5.Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế nhằm tạo lên sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho CM thành công
Trong đoàn kết quốc tế cần chống tư tưởng bành trướng, bá quyền chống tư tưởng
kì thị dân tộc



Trong đoàn kết dân tộc tuân thủ nguyên tắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
các bên cùng có lợi



Trong quan hệ quốc tế luôn luôn hướng tới mục tiêu chung là hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH


Câu 11:Nội dung ĐĐKDT theo quan điểm HCM?
Từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết, nên Hồ Chí Minh đề cập nội
dung đại đoàn kết khá phong phú, có thể khái quát ở mấy điểm chính sau.
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò to lớn trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân nên phải thu
phục được đại bộ phận giai cấp mình, để giai cấp ấy lãnh đạo được quần chúng. Đảng
phải tổ chức, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân. Đảng phải vận động quần chúng nhân
dân cùng với mình giải phóng nhân dân thoát khỏi ách áp bức bóc lột, thoát khỏi nghèo
đói.
Muốn làm được điều đó, Đảng phải làm cho dân chúng giác ngộ, tự thấy khả năng to
lớn của mình, biết đoàn kết một lòng thành sức mạnh đấu tranh chiến thắng mọi kẻ thù.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm được như vậy, Đảng phải đoàn kết, không bè phái,
phải nâng cao trình độ lý luận, khả năng hoạt động thực tiễn, phải thật trong sạch vững
mạnh. Chỉ như vậy dân mới tin, đi theo Đảng, đoàn kết xung quanh Đảng.
Hai là, phát huy vai trò của Nhà nước với đoàn kết toàn dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng muốn đoàn kết mấy chục triệu đồng bào, phải có một cơ cấu đại
biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí. Cơ cấu ấy là do toàn dân bầu
cử, lựa chọn người ưu tú đại diện cho mình vào cơ quan nhà nước để gánh vác công
việc quốc gia. Người nói nhờ dân ta đoàn kết một lòng và Chính phủ lãnh đạo khôn
khéo, mà chúng ta bẻ gãy xiềng xích nô lệ, giành được độc lập tự do.


Người nhấn mạnh : Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu
không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Cho nên chính phủ và nhân dân
phải đoàn kết thành một khối. Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí, ra sức tổ

chức công tác mở mang kinh tế, thực hành đời sống mới. Hồ Chí Minh đã xây dựng
Chính phủ đại diện cho các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân. Người khẳng định, để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước
phải phát huy quyền dân chủ của nhân dân; bảo đảm quyền dân sinh của toàn dân để
phát huy tính tích cực sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người đều tham gia quản lý
nhà nước. Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Mọi cơ quan Nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, hướng về phục vụ nhân dân.
Ba là, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đoàn kết phải có tổ chức. Muốn huy động mọi người đoàn kết phải đưa họ vào tổ chức.
Hồ Chí Minh quan niệm nội dung đoàn kết phải tích cực, thiết thực bằng cách đưa mọi
người vào trong tổ chức, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất. Người cho rằng phải mau
mau tổ chức lại các tổ chức trong Mặt trận. Nông dân phải vào "Nông dân cứu quốc".
Thanh niên phải vào "Thanh niên cứu quốc". Phụ nữ phải vào "Phụ nữ cứu quốc". Trẻ
em phải vào "Nhi đồng cứu quốc". Công nhân phải vào "Công nhân cứu quốc". Các bậc
phụ lão văn sĩ phải vào "Việt Nam cứu quốc hội". Những hội ấy phải do Việt Nam độc
lập đồng minh lãnh đạo. Vào tổ chức rồi, người có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức.
Đồng tâm hiệp lực, muôn người một lòng, nhân cơ hội ấy mà khôi phục lại Tổ quốc, mà
làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh Việt Nam độc lập đồng minh (hoặc Việt Minh) có nghĩa là liên
minh vì độc lập của nước Việt Nam. Mặt trận bao gồm tất cả mọi người yêu nước,
không phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ,
tuổi tác.
Để Mặt trận có sức mạnh, Hồ Chí Minh cho rằng phải có kỷ luật tự giác mà mỗi cá
nhân, hội viên, đoàn thể phải tuân theo. Mặt trận phải thật dân chủ. Hoạt động của Mặt
trận phải nhằm vào điểm chính sao cho có hiệu quả thiết thực. Các tổ chức thành viên
Mặt trận phải thân ái đoàn kết giúp đỡ nhau. Cương lĩnh của Mặt trận phải thể hiện
mục đích đoàn kết, đấu tranh cho hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Cương lĩnh ấy phải thiết thực, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, hoạt động phải
vững chắc, thu hút quảng đại mọi người dân tham gia sản xuất, thực hành tiết kiệm xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Mục đích phấn đấu của Mặt trận dân tộc thống nhất là xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Vì vậy Mặt
trận là một nội dung lớn của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Mặt trận nhằm đoàn kết giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức ; đoàn
kết những người và gia đình có công với nước; đoàn kết các tôn giáo ; các dân tộc ;
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ; các tầng lớp khác trong xã hội. Bằng nhiều
hình thức và biện pháp khác nhau, tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Mặt trận có những
biện pháp thích hợp tập hợp các tầng lớp nhân dân xung quanh Đảng để vượt qua
những khó khăn thử thách hoàn thành các mục tiêu cách mạng đề ra. Hồ Chí Minh đã
sáng tạo trong việc lập ra các tổ chức thích hợp của Mặt trận để đoàn kết mọi tầng lớp
nhân dân, các nhân sĩ, trí thức, những người có đạo thuộc các tôn giáo khác nhau ;
những người thuộc các dân tộc khác nhau đều chung lòng yêu nước, yêu đồng bào vì
sự nghiệp chung mà đoàn kết.


Câu 12:Bằng kiến thức đã học hãy phân tích phẩm chất đạo đức “cần kiệm
liêm chính chí công vô tư và thương yêu con người, sống có tình nghĩa” vận
dụng vào việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức của bản thân Phân tích phẩm chất:
Cần,
kiệm,
liêm,
chính,
chí
công


Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được Hồ Chí
Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng:
phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực hiện; ngày nay, ta đề ra
cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho

nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của
phẩm chất "trung với nước hiếu với dân". Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng,
dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang
phí. Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà,
là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà
không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà
kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có
cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả
mọi người. Hồ Chí Minh viết: "Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông Đất có bốn
phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính Thiếu một
mùa, thì không thành trời Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì
không thành người"1 Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên.
Bởi vì, nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ
chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong
các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm,
chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Cần, kiệm, liêm, chính còn là
thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một
dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu
nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự
giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Chí công vô tư là không nghĩ
đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng,
của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải
kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn "mọi người vì mình" mà không biết "mình vì mọi
người". Nó là một thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Nó là bạn
đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc hậu. Chủ nghĩa cá
nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như quan liêu,
mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị,
quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên

quyền... Tóm lại, "chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi
người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy".
Chủ nghĩa cá nhân là mối nguy hại cho cá nhân con người, cho một đảng và cả dân


tộc. Hồ Chí Minh viết: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân"1. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ
bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá
nhân, đâu là lợi ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá
nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải
thiện đời sống của riêng mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình c)
Thương yêu con người Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là
từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này
có nhiều người, nhiều công việc, nhưng có thể chia thành hai hạng người: người thiện
và người ác, và hai thứ việc: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm
việc tà là người ác. Từ đó, Người kết luận: những người bị áp bức, bị bóc lột, những
người làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo có khác nhau, vẫn có
thể thực hành chữ "bác ái", vẫn có thể đại đoàn kết, đại hòa hợp, coi nhau như anh em
một nhà Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng
kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp
vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ Hồ Chí Minh thương
yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương
đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái

gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ Người quan tâm đến tư tưởng,
công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi
người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến những
người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành
động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.
*) Liên hệ với quá trình rèn luyện tu dưỡng của bản thân?
Câu 13:Phân tích quan điểm HCM về chiến lược “trồng người” .
Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa của chiến lược xây dựng con người mới. Trên cơ
sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh
rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói tới "lợi ích
trăm năm"và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc
chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách.
Như vậy, con
người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược
giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa Con người xã hội chủ nghĩa đương
nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được
hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ
bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc


này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng những con
người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện
chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con người xã hội chủ nghĩa". Quan niệm
của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau.
Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và

phương Đông). Hai là hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ
nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội
chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng Hồ Chí Minh quan niệm"Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"
Để "trồng người", có
nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì
giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại
giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói về vai trò của giáo dục:
Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc
dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm. Nội dung và phương pháp
giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm
cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với
nhau, không tách rời nhau, trong đó "đức" là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển.
Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... Có như vậy mới có
thể "học để làm người" "Trồng người" là công việc "trăm năm", không thể nóng vội
"một sớm một chiều", không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến
đâu hay
đó Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực,
bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy không được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I.
Lênin: "Học, học nữa, học mãi" và của Khổng Tử: "Học không biết chán, dạy không biết
mỏi", Hồ Chí Minh cho rằng: "Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học"
Câu 14:Quan điểm của HCM về vai trò con người? với cương vị công tác của
mình anh chị đóng góp như thế nào trong việc chăm sóc để phát huy nhân tố con
người? . Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng a) Con
người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh
là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên
hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền
đã về tay

nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn.
Bởi vì, Người cho rằng, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng không có nghĩa lý gì; vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có
ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di
chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người" Khẳng định con người là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì một
điều quan trọng là mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người.
Có thể đó là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận,
giai cấp, tầng lớp và cá nhân. b) Con người là động lực của cách mạng Con người
là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào,
song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải mọi con


người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được thức tỉnh, giác ngộ,
giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc
Việt Nam... Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ
chức, có lãnh đạo. Vì vậy, vai trò của
Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng là vô cùng quan trọng. Qua các phong trào cách mạng của quần
chúng, Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội Trong khi nhận thức sâu
sắc, đầy đủ vai trò động lực của con người thì phải thấy mối quan hệ biện chứng giữa
con người - mục tiêu và con người - động lực. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu
tốt bao nhiêu thì sẽ phát huy con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường
được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục
tiêu cách mạng
Câu 15:Trình bày khái niệm văn hóa và các chức năng cơ bản của văn hóa
theo quan điểm HCM Tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của

Tưởng Giới Thạch,
lần đầu tiên Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa: "Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"1. Người còn dự định xây dựng nền văn
hóa dân tộc với năm điểm lớn: "1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường 2.
Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng 3. Xây dựng xã hội: mọi
sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội. 4. Xây dựng chính
trị: dân quyền 5. Xây dựng kinh tế". Khái niệm trên cho thấy: Văn hóa được hiểu theo
nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra; văn hóa là động lực giúp con người sinh tồn; văn hóa là mục đích cuộc
sống loài người; xây dựng văn hóa dân tộc phải toàn diện, đặt xây dựng "tinh thần độc
lập tự cường" lên hàng đầu. chức năng của văn hóa Chức năng của văn hóa mới
rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa có ba chức năng chủ yếu sau
đây: Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Văn hóa thuộc đời
sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống
tinh thần của xã hội và con người. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu vào
tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai
lầm, tình cảm thấp hèn. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, nhưng phải đặc biệt quan
tâm tới những tư tưởng và tình cảm chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và
cả dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa
phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc
dân "có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng". Đó là lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một khi con người đã phai nhạt lý tưởng độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì không còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống cách mạng.
Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau
khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái chân, cái thiện,
cái mỹ... Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương, dân


tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy trò.. Tư tưởng và tình cảm có mối
quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao đẹp là con đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn;
tư tưởng đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm cho con người ngày càng hoàn
thiện. Văn hóa còn góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin ở bản chất khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân dân, tin vào tiền đồ của cách
mạng. Hai là, nâng cao dân trí. Văn hóa luôn gắn với dân trí. Không có văn hóa
không có dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách
mạng trước mắt và lâu dài. Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết
đọc, biết viết. Tiếp đến là sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn
hóa... Từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ
thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho
mọi người không chỉ là chuyển biến dân trí mà còn nâng cao dân trí,
điều mà khi
chính trị chưa được giải phóng thì không thể làm được. Tùy từng giai đoạn cách mạng
mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục
tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc1. Mục tiêu đó hiện nay Đảng
ta chỉ rõ vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Ba là, bồi
dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh, luôn
hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn thiện bản thân
mình. Những phẩm chất tốt
đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi người phải
biến tư tưởng và tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó có thể là phẩm chất chính

trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ. Có những phẩm chất đạo
đức chung cho mọi người Việt Nam trong thời đại mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Lại có những phẩm chất đạo đức dành cho các lĩnh vực hoạt
động
khác
nhau của con người: phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy thuốc... Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu không
có những phẩm chất đó thì không thể biến lý tưởng thành hiện thực. Phẩm chất thường
được biểu hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự của
con người. Phẩm chất và phong cách thường gắn bó với nhau, và chỉ khi nào con
người có phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh thì mới thúc đẩy sự nghiệp cách
mạng đi lên. Muốn có được những phẩm chất và phong cách đó, tự bản thân con
người rèn luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hóa đóng chức năng rất quan trọng. Văn
hóa phải tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm
dụng quyền lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con
người phân biệt cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ... Từ đó văn hóa hướng
con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×