Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

QUAN hệ QUỐC tế GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI 1919 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.49 KB, 30 trang )

CHUYÊN ĐỀ: “QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI 1919-1939”

1


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Quan hệ quốc tế là một khái niệm hàm chứa trong nó nhiều tầng lớp ý
nghĩa và nhiều cách hiểu đa dạng. Khó có thể đưa ra một khái niệm thật đầy
đủ và sâu sắc về quan hệ quốc tế. Có lẽ nên hiểu một cách đơn giản: Quan hệ
quốc tế là sự tương tác của mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trên cấp độ
toàn cầu, mối quan hệ xoay quanh trục chính của nó – lợi ích của các quốc gia
dân tộc. Trong cuốn Lịch sử thế giới cận đại, tập 2, do Phan Ngọc Liên (chủ
biên), NXB Đại chọc sư phạm Hà Nội viết “Hệ thống quan hệ quốc tế luôn
luôn là một chỉnh thể phức tạp, đa dạng với những tiềm lực tổng thể về cả
kinh tế, chính trị, quân sự…của các chủ thể ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Hệ thống quan hệ quốc tế có một cấu trúc tương ứng và tạo ra một trật tự thế
giới biểu hiện mối liên hệ ràng buộc, những chuẩn mực, những nguyên tắc để
chi phối sự vận động, phát triển, phản ánh những liên hệ, mâu thuẫn cơ bản
và xu thế của thế giới trong giai đoạn lịch sử mà nó tồn tại”.
Lịch sử phát triển quan hệ quốc tế luôn trải qua nhiều thăng trầm và
phức tạp nhất định. Ở những thời kì lịch sử cụ thể, quan hệ quốc tế mang
những nội dung, đặc điểm khác biệt nhau. Thế kỉ XX, thế giới đã diễn ra
nhiều sự kiện quan trọng có tác động lớn đến quan hệ quốc tế, đồng thời nó
cũng tô điểm cho quan hệ quốc tế kì thời này với những đặc điểm riêng, hoàn
toàn khác đặc điểm quan hệ quốc tế ở những thời kì khác. Hơn nữa, quan hệ
quốc tế trong giai đoạn này cũng mang lại nhiều hiểu biết cho chúng ta về bản
chất trong quan hệ quốc tế từ đó có có cách nhìn, cách đánh giá và cách ứng
xử đúng đắn trước chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay. Đây
là lí do tôi rất hứng thú khi được phân công viết chuyên đề“Quan hệ quốc tế


giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)” cho hội thảo khoa học các
trường chuyên Duyên hải đồng bằng Bắc Bộ.

2


II. Mục đích của đề tài
Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 – 1939) là
một vấn đề rất hay nằm trong nội dung ôn thi học sinh giỏi quốc gia môn Lịch
Sử tuy nhiên đây là một vấn đề khá khó đối với học sinh. Qua thực tế là giáo
viên lãnh đội tuyển học sinh giỏi quốc gia môn Lịch Sử trong 2 năm tôi nhận
thấy học sinh rất ngại ôn tập giai đoạn này vì kiến thức khá phức tạp và các
em cũng không được ôn luyện kiến thức này nhiều lần. Chính vì vậy, trong
bài viết này tôi đã đưa ra hệ thống câu hỏi và gợi ý trả lời theo tôi là cần thiết
và hữu ích giúp các thầy cô và các em học sinh có thể dễ dàng và hứng thú
hơn trong việc ôn tập chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế
giới (1919 - 1939).
Đồng thời, thông qua chuyên đề này tôi cũng mong muốn không chỉ
giúp các em trong đội tuyển học sinh giỏi quốc gia môn Lịch Sử có thể nắm
vững kiến thức giai đoạn này mà còn giúp các em hiểu được bản chất của
quan hệ quốc tế đó là các quốc gia dân tộc luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc
lên trên hết. Chính vì vậy, họ luôn quan niệm “không có bạn vĩnh viễn và
cũng không có kẻ thù vĩnh viễn” nên mối quan hệ quốc tế luôn có sự thay đổi
gắn liền với lợi ích của các quốc gia. Từ đó giúp các em học sinh trong đội
tuyển nói riêng và thế hệ trẻ nói chung có cái nhìn đúng đắn, khôn ngoan
trước chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta khi tình hình thế giới và
khu vực có những chuyển biến mới.

3



PHẦN NỘI DUNG
I. QUAN HỆ QUỐC TẾ THÔNG QUA HỘI NGHỊ VECXAI VÀ HỘI NGHỊ
OASINHTƠN
Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được xác lập trên quy mô thế giới
sau thắng lợi của hàng loạt các cuộc cách mạng như: cách mạng tư sản ở Anh,
Pháp thế kỉ XVII – XVIII; sự thống nhất giữa Đức và Italia; cuộc đấu tranh
của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ; cải cách nông nô ở Nga (1861); duy tân
Minh Trị ở Nhật Bản (1868)… Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỉ
XIX đã thúc đẩy quan hệ quốc tế phát triển quy mô mới, các hệ thống quan hệ
được mở rộng bao quát ra tất cả các châu lục và khu vực. Tiến bộ của khoa
học – kỹ thuật đã tạo ra những chuyển biến to lớn trong quan hệ quốc tế. Tuy
nhiên, cũng từ đây mà quan hệ quốc tế nảy sinh những mâu thuẫn mới giữa
các cường quốc. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) chính là biểu
hiện của những mâu thuẫn lên cao giữa các cường quốc. Mâu thuẫn giữa các
cường quốc chủ yếu ở đây bắt nguồn từ vấn đề thị trường và thuộc địa.
Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy trong vấn đề thuộc địa cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX đã tỏ ra “không cân đối” giữa năng lực sản xuất, vị trí
quốc tế với lãnh thổ thuộc địa. Do tốc độ phát triển kinh tế và kỹ thuật không
đồng đều làm cho một số đế quốc trẻ (Mĩ, Đức) vươn lên một cách mạnh mẽ,
trong khi đó một số đế quốc già (Anh, Pháp) lại có xu hướng phát triển chậm
lại. Chính sự phát triển vươn lên này của một số nước đế quốc trẻ, họ nhận
thấy rằng diện tích lãnh thổ thuộc địa mà mình đang có là quá ít so với những
nước đế quốc già (Anh, Pháp) và vị trí của mình trên trường quốc tế chưa
tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy là tiềm lực quốc gia sẽ
giới hạn tham vọng của quốc gia đó trong các mối quan hệ với những quốc
gia khác. Mà tiềm lực quốc gia ở đây được hiểu chính là sức mạnh tổng hợp
quốc gia trên tất cả các phương diện: chính trị, kinh tế, quân sự, tổ chức xã
hội, khoa học công nghệ, vị trí địa lí, tài nguyên, truyền thống dân tộc và đôi
4



khi là một lý tưởng (hay tư tưởng) bao trùm lên toàn bộ xã hội. Sức mạnh
kinh tế chính là nhân tố trung tâm, là nội dung cốt lõi “những chuyển biến
kinh tế tác động dần dần đến cán cân chính trị và quân sự,...đến vị trí quyền
lực của các quốc gia hàng đầu, sự thành bại của mỗi quốc gia”. Tức là quốc
gia có tiềm lực hạn chế, tham vọng sẽ hạn chế và khi quốc gia có tiềm lực
rộng lớn sẽ kéo theo một tham vọng to lớn tương xứng với tiềm lực đó. Chính
điều này đã dẫn tới nảy sinh mâu thuẫn bất đồng trong quan hệ giữa các nước
đế quốc, cụ thể là giữa các nước “đế quốc trẻ” với các nước “đế quốc già” về
vấn đề thị trường và thuộc địa. Nước Anh chiếm nhiều nhất từ Australia - Ấn
Độ - Ai Cập, Canađa, nhiều nước ở châu Phi và nhiều đảo ở Đại Tây Dương,
Thái Bình Dương. Đế quốc Pháp đứng hàng thứ hai (Bắc Phi, Madagasca,
Đông Dương và một số đảo Thái Bình Dương). Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
chủ yếu có thuộc đại ở Mĩ Latinh và một số vùng ở Châu Phi. Nga chỉ có ở
Trung Á và Mãn Châu. Mĩ chủ yếu ở khối liên hiệp các nước Châu Mĩ. Đế
quốc Đức chiếm một số vùng ở Đông Phi và Tây Phi. Tình hình đó cho thấy
khi mà các “vùng đất trống” không còn thì biện pháp duy nhất là chia lại. Đây
được coi là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ
nhất bùng nổ từ tháng 8/ 1914 đến tháng 11/năm 1918. Quan hệ quốc tế sau
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) gồm nhiều vấn đề nhưng để phục
vụ cho việc ôn tập trong kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử giáo
viên nên tập trung vào những vấn đề cụ thể là hệ thống câu hỏi và gợi ý trả lời
quan trọng sau đây:
Câu 1: Trình bày nội dung và hệ quả của hội nghị Vecxai?
a. Nội dung hội nghị
* Thời gian, thành phần tham dự: Hội nghị Hòa bình được triệu tập tại
Vecxai trong hai năm 1919 – 1920 với sự tham gia của 27 nước thắng trận, 5
cường quốc tham gia điều khiển hội nghị nhưng thực sự nắm thực quyền là


5


tổng thống Mĩ, thủ tướng Anh, Pháp. Đại biểu các nước bại trận cũng có mặt
để kí vào các hòa ước do các nước thắng trận qui định.
* Nội dung hội nghị xoay quanh 3 vấn đề chính:
- Vấn đề nước Nga Xôviết: Nga không được mời ttham gia hội nghị và vấn đề
nước Nga cũng không được đưa vào chương trình nghị sự nhưng trên thực tế
lại trở thành nỗi ám ảnh với các nước đế quốc. Ngay trước khi bắt đầu hội
nghị các nước đã thảo luận vấn đề nước Nga và đi đến thống nhất về nguyên
tắc là sẽ tăng cường can thiệp vũ trang và ủng hộ lực lượng phản cách mạng ở
Nga.
- Vấn đề nước Đức: Quan trọng nhất trong hội nghị Vecxai vì nó quyết định
đến số phận của nước Đức, đụng chạm đến quyền lợi của các nước và ảnh
hưởng đến trật tự quốc tế trong tương lai.
+ Biên giới, lãnh thổ: Đức phải trả lại cho Pháp 2 tỉnh Andat và Loren, cắt
lãnh thổ cho Bỉ, Đan Mạch, Ba Lan, hạt Xarơ giàu có về than đá, đông dân do
Hội Quốc Liên quản lí. Đức mất 1/8 đất đai, 1/12 dân số... Hội nghị quyết
định lấy toàn bộ thuộc địa của Đức giao cho các nước thắng trận.
+ An ninh: Hạn chế vũ trang tới mức thấp nhất: hải quân hạn chế tới mức tối
đa, không được phép có không quân, hạm đội tàu ngầm..
+ Bồi thường chiến phí: Đức phải bồi thường 132 tỉ Mac vàng.
- Thành lập Hội quốc liên: 20/1/1920 nhằm khuyến khích sự hợp tác quốc tế,
thực hiện nền hòa bình, an ninh thế giới. Hội quốc Liên hoạt động dựa trên
những nguyên tắc: Không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước;
quan hệ quốc tế phải minh bạch và dự vào đạo lí; phải thi hành những cam kết
quốc tế.
b. Hệ quả
- Biên giới, lãnh thổ nhiều khu vực có sự biến đổi quan trọng làm mất đi quốc
gia cũ, xuất hiện quốc gia mới

6


- Các quốc gia, đế quốc hiếu chiến sụp đổ thành lập nhiều quốc gia mới
- Tuy nhiên, hệ thống hòa ước này xâm phạm đến chủ quyền, lãnh thổ, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia châu Âu gây ra nhiều thù hằn dân tộc
kéo dài đến tận ngày nay.
- Hệ thống hòa ước này chỉ là sự hòa hoãn một cách tạm thời và cũng chỉ là
sự phân chia quyền lợi một cách tạm thời giữa các nước đế quốc thắng trận
bới các nước này không thỏa mãn những quyền lợi mà họ toan tính trước đó.
Như vậy, mục tiêu của Hội nghị Hòa bình Vecxai, đúng như tên gọi của
nó là: Thiết lập một nền hòa bình vững chắc và vĩnh cửu cho nhân loại, loại
bỏ nguy cơ chiến tranh, đảm bảo nền độc lập và quyền tự quyết của tất cả các
dân tộc trên cơ sở bình đẳng, xây dựng một trật tự mới cho châu Âu trên nền
tảng hòa bình, bình đẳng. Và tất nhiên những mục tiêu cao cả, tốt đẹp đó chỉ
là những tuyên bố trên giấy tờ khi mà ba cường quốc chủ chốt chi phối hội
nghị Mĩ, Anh, Pháp đã tìm mọi cách để đan xen các đòi hỏi lợi ích hay thể
hiện tham vọng quốc gia của mình trong tiến trình hội nghị. Khi nhận định về
hội nghị Vecxai Lênin từng viết “Đây không phải là hòa ước đấy là những
điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc nạn nhân không có gì tự vệ phải
chấp nhận”
Câu 2: Theo em tham vọng của những nước lớn khi đến hội nghị Vecxai
là gì?
Về phía nước Anh, tham dự Hội nghị Vecxai với tư cách là nước thắng
trận, là cường quốc hàng đầu của thế giới tư bản chủ nghĩa, Đế quốc Anh
cũng đồng thời sở hữu một hệ thống thuộc địa khổng lồ, lực lượng hải quân
mạnh nhất thế giới. Tham dự hội nghị khi đó, thủ tướng Anh Loyd George
bộc lộ ý tưởng xây dựng một châu Âu cân bằng về cán cân sức mạnh, đẩy lùi
mọi nguy cơ của cuộc chiến tranh trong tương lai. Thực chất của ý tưởng đó
là làm suy yếu nước Đức một cách tương đối về mọi mặt, tuy nhiên vẫn phải

duy trì một nước Đức có đủ thế lực để ngăn chặn tham vọng bá chủ châu Âu
7


lục địa của Pháp. Người Anh giờ đây đang đi một nước cờ thông minh khi mà
cùng lúc, họ vừa làm suy yếu địch thủ thương mại – quân sự số một của họ ở
châu Âu, vừa khẳng định một lần nữa sức mạnh, vị thế đặc biệt của Đảo quốc
Sư tử trước tham vọng mạnh mẽ của nước Pháp đang trỗi dậy. Trạng thái sa
sút tương đối của hai cường quốc lục địa Pháp và Đức sau chiến tranh là vô
cùng cần thiết đối với Anh, vì thông qua đó họ có thể kiểm soát được toàn bộ
lực lượng của châu Âu. Nước Anh cũng khéo léo đứng về phía Mĩ trên nhiều
quan điểm để nhận được sự chia sẻ cần thiết từ “chủ nợ lớn của châu Âu” vì
nước Anh tin rằng nước Mĩ sẽ giúp họ bảo vệ các lợi ích của họ ở châu Âu.
Quan điểm này đã chi phối toàn bộ động thái ngoại giao của Anh tại hội nghị,
Loyd George thận trọng kiềm chế các đòi hỏi lợi ích của Pháp, hạn chế mọi
chính sách tiêu cực mà Pháp định áp đặt cho Đức “không nên tạo ra những
áp đặt quá đáng nếu không muốn nuôi dưỡng mầm mống của chủ nghĩa phục
thù và châm ngòi cho chiến tranh”. Nước Anh từ đây dần trở thành đồng
minh quan trọng của Mĩ, giúp nước Mĩ gắn kết các chính sách của mình với
châu Âu đồng thời hướng sự quan tâm nhiều hơn của nước Anh ra bên ngoài
châu Âu.
Pháp là quốc gia chịu nhiều tổn thất to lớn trong chiến tranh nhưng đã
khẳng định được vị thế cường quốc hàng đầu và chứng minh cho châu Âu
thấy sức mạnh của nước Pháp khi chiến thắng vẻ vang trước quân đội Đức
hùng mạnh. Giờ đây khi là nước chủ nhà của Hội nghị Hòa bình, nước Pháp
nhận thấy bằng mọi giá phải phục hồi địa vị bá chủ châu Âu lục địa mà nước
Pháp đã đánh mất kể từ thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1871.
Để làm được điều đó phải làm suy yếu đến tận cùng nước Đức, đấy Đức
xuống hàng tiểu quốc và phải lệ thuộc vào Pháp. Vì vậy trong hội nghị thủ
tướng Pháp Clemenceau đã đề xuất một loạt yêu sách đòi sáp nhập nhiều

vùng lãnh thổ giàu tài nguyên, có vị trí chiến lược của Đức cho Pháp và đòi
hỏi sự đồng thuận từ phía Anh, Mĩ nhưng phần lớn là bất thành do toan tính
của hai cường quốc. Đối với Pháp, họ muốn một nước Đức thật yếu, nền kinh
8


tế lệ thuộc và quân đội nhỏ bé để loại trừ từ xa một cuộc tấn công bất ngờ và
cũng là để nước Pháp có thể vươn dài đôi tay tới các vùng đất khác của lục
địa vốn trước kia thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức. Việc người Anh quá chú
tâm tới các thuộc địa của Đức cũng khiến nước Pháp lo ngại vì bản thân nước
Pháp đã thất thế trước Anh trong quá trình xâm chiếm thuộc địa. Pháp nhanh
chóng hướng tới các thuộc địa Đức ở Trung Đông và châu Phi và tạo thành
hình thế đan cài đặc biệt với các thuộc địa Anh. Trên thực tế tham vọng của
nước Pháp đã vượt quá giới hạn đảm bảo cho một châu Âu cân bằng, nó cũng
không tương xứng với sức mạnh kinh tế hay thực lực nói chung của Pháp nên
kết quả hội nghị không thể thỏa mãn những lợi ích căn bản của Pháp.
Có một quốc gia đặc biệt ngoài châu Âu tham gia chiến tranh đó là
nước Mĩ. Ban đầu nước Mĩ theo đuổi chủ nghĩa biệt lập, vốn được người Mĩ
ủng hộ từ thời lập quốc nhưng tới năm 1917 nước Mĩ đã vượt ra khỏi khuôn
khổ cứng nhắc đó để tham gia chiến tranh, đứng về phe Hiệp ước chống lại
Đức. Sự kiện này được đánh giá như là một nỗ lực của Tổng thống đương
nhiệm Wilson, mong muốn nước Mĩ được can dự vào việc giải quyết các vấn
đề của châu Âu và thế giới. Cuối thế kỉ XIX đặc biệt là đầu thế kỉ XX, nền
kinh tế Mĩ phát triển vô cùng mạnh mẽ, sản xuất công nghiệp đứng đầu thế
giới. Thực lực của Mĩ tiếp tục được tăng cường trong và sau thế chiến thứ
nhất khi Mĩ thu lợi nhuận khổng lồ từ buôn vũ khí, không bị chiến tranh tàn
phá và trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới. Sau khi tham chiến nước Mĩ được
nhìn nhận như một cường quốc tư bản chủ nghĩa hàng đầu. Với thực lực kinh
tế mạnh mẽ, nền tài chính chi phối cả thế giới Mĩ không thể không tham gia
vào các hệ thống quan hệ quốc tế hiện hữu. Và với “Chương trình 14 điểm”

của Wilson nước Mĩ đã chủ động, vững chắc bước vào tiến trình thiết lập một
trật tự thế giới mới tại Vecxai. Chương trình 14 điểm mang đậm dấu ấn của
Tổng thống Wilson: rất lãng mạn, đầy tính nhân văn, đặc trưng cho trường
phái tư tưởng tự do của tổng thống. Nội dung cốt lõi của nó là hướng tới một
thế giới hòa bình vĩnh cứu, an ninh vững chắc và mọi động thái quốc tế giờ
9


đây sẽ đặt dưới sự giám sát của Hội Quốc liên – đứa con đẻ của Wilson. Nếu
xét tiến trình của Hội nghị Vecxai sẽ thấy dường như nước Mĩ không đạt
được một quyền lợi nào, một thành công nào có ý nghĩ chiến lược nhưng thực
chất không phải. Người Mĩ tham gia Hội nghị theo lối tư duy của họ. Wilson
muốn khẳng định sức mạnh và vị thế quốc tế của nước Mĩ bằng cách đưa
quốc gia này tham gia kiến tạo một thế giới mới theo quan điểm của Mĩ.
Nhưng chủ nghĩa can dự của ông không thể thắng nổi chủ nghĩa biệt lập vốn
là đặc trưng trong chính sách đối ngoại từ thời lập quốc. Người dân và Quốc
hội Mĩ không muốn nước Mĩ dính dáng vào mớ lộn xộn của châu Âu. Điều
này khiến Wilson luôn tìm cách tránh né đụng chạm các lợi ích cố hữu của
các cường quốc châu Âu như thuộc địa, lãnh thổ…trong chương trình nghị sự.
Tuy nhiên Mĩ đã thành công khi họ áp đặt được ảnh hưởng của mình ở Hội
nghị, chi phối chính sách của nhiều cường quốc đặc biệt việc thành lập Hội
Quốc liên là sự áp đặt tinh thần quan trọng của người Mĩ. Việc Mĩ chưa nhận
được những gì đáng lẽ thuộc về Mĩ khi Mĩ là một cường quốc hàng đầu, thực
lực kinh tế hùng hậu là nguyên nhân quan trong đưa tới Hội nghị Oasinhton
(1921 -1922). Việc Mĩ triệu tập Hội nghị này được hiểu như là cách mà người
Mĩ nhận lại những gì mà mình đáng được hưởng. Hội nghị này là sự bổ sung
cho việc một nước lớn mạnh, có vai trò quan trọng đứng ngoài các quan hệ
quốc tế tìm cách tham gia vào. Tại đây nước Mĩ đã áp đặt các cường quốc
tham dự trong khuôn khổ của lợi ích Mĩ. Việc mở cửa Trung Quốc, hạn chế
trọng tải hạm đội..là những thỏa thuận mạng lại nhiều lợi ích cho Mĩ. Nhìn

chung Mĩ muốn đạt tới sự cân bằng lực lượng giữa các cường quốc, một cách
thức giúp Mĩ vươn lên sau này.
Ngoài ra còn có nước Ý và Nhật Bản: Ý muốn mở rộng lãnh thổ ra
vùng Địa Trung Hải và Bancăng. Còn Nhật Bản đòi thay thế Đức chiếm bán
đảo Sơn Đông, dự định chiếm vùng viễn đông của Nga và mở rộng ảnh
hưởng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

10


Như vậy một trật tự thế giới mới được thiết lập với vai trò đảm bảo hòa
bình, an ninh cho thế giới đã bị chính các chủ thể tạo ra nó tìm cách chi phối,
bẻ cong nó theo chiều hướng của lợi ích quốc gia. Trật tự thế giới cân bằng
quyền lợi giữa các chủ thể và có các công cụ để duy trì và bảo vệ nó nhưng
trật tự thế giới sẽ nhanh chóng bị phá vỡ nếu lợi ích quốc gia trỗi dậy quá
mạnh mẽ hoặc một số chủ thể quan trọng bị gạt ra ngoài (trường hợp của Đức
và Nga trong Trật tự Vecxai – Oasinhton).
Đến đây có thể khẳng định lợi ích quốc gia dân tộc chính là nhân tố cốt
lõi chi phối toàn bộ hệ thống các quan hệ quốc tế. Và ẩn sau những lời tuyên
bố hay bài phát biểu, những bản hiệp ước, hiệp định song phương hay đa
phương, những khối đồng minh hay cả những khối địch thủ, kể cả những
ngôn từ hoa mỹ trong chính sách đối ngoại hay đơn giản là cử chỉ ngoại giao
như cái bắt tay đều là tính toán riêng, tham vọng riêng của mỗi quốc gia.
Nhiều khi những tính toán, tham vọng ấy khiến cho cả thế giới phải sững sờ,
hoang mang khi nó được bộc lộ trong thực tế hoàn toàn trái ngược với những
gì mà người ta vẫn tưởng tượng. Suy cho cùng, trong suốt mấy trăm năm kể
từ thời cận đại trở lại đây, nhân loại phải sống trong một môi trường mà ở đó
mọi hoạt động đều diễn tiến dưới quan hệ tương tác giữa các quốc gia (chủ
yếu là các cường quốc phổ biến) và phục vụ một lợi ích cao nhất – lợi ích
quốc gia dân tộc. Xét trên bình diện quốc tế, chính các cường quốc và chính

sách đa dạng của họ đã chiếm hữu hầu như toàn bộ phần không gian của
những quan hệ quốc tế. Chúng ta thường thấy một cường quốc có thái độ và
cách hành xử “kì lạ” thậm chí vượt ra ngoài những khuôn khổ đang kiểm
soát, điều tiết hành vi của nó: ý thức hệ tư tưởng, các Hiệp định quốc tế, tổ
chức duy trì hòa bình quốc tế, các liên minh…vì lợi ích quốc gia sẽ chi phối
thường xuyên, liên tục các hành vi của quốc gia đó.

11


Câu 3: Trình bày hoàn cảnh, nội dung Hội nghị Oasinhtơn? Nhận xét?
a. Hoàn cảnh
- Hòa ước Vecxai kí chưa ráo mực thì mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã
bùng nổ. Bên cạnh đó châu Âu bi kiệt quệ về kinh tế sau chiến tranh cần phải
dựa vào Mĩ để phục hồi nền kinh tế của mình.
- Hội nghị Vecxai kết thúc những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa Mĩ và các
cường quốc thắng trận. Quốc hội Mĩ không phê chuẩn hòa ước Vecxai vì
quyền lợi của Mĩ không được thỏa mãn.
- Gần 2 năm sau Mĩ đề xuất triệu tập một hội nghị quốc tế ở Oasinhtơn để giải
quyết những vấn đề quan trọng quốc tế ở viễn Đông nhằm ngăn chặn phong
trào giải phóng dân tộc đang dâng cao và củng cố nền thống trị ở khu vực
này.
b. Nội dung
- Thời gian, thành phần tham dự: 11/1921, gồm 9 nước tham gia, lãnh đạo hội
nghị là Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản nhưng quyền quyết định nằm trong tay Mĩ.
- Gồm 3 bản hiệp ước chính:
+ Hiệp ước 4 nước Anh, Pháp, Mĩ, Nhật còn gọi là “hiệp ước không xâm
phạm Thái Bình Dương”. Các bên thỏa thuận tôn trọng quyền của nhau ở
Thái Bình Dương. Đồng thời gây áp lực lên liên minh Anh – Nhật khiến nó
không còn có hiệu lực.

+ Hiệp ước 9 nước Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Ý, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung
Quốc công nhận nguyên tắc “Hoàn chỉnh lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền
Trung Quốc”. Đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa” và “Cơ hội đồng đều” cho
hoạt động thương mại và công nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.

12


+ Hiệp ước 5 nước Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Ý gọi là “hiệp ước hạn chế vũ trang
và hải quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến các nước ở khu vực thái Bình
Dương cụ thể Mĩ và Anh bằng nhau đến Nhật sau đó mới đến Pháp và Ý.
c. Nhận xét
- Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ, Anh chấp nhận nhượng bộ hải quân Mĩ
ngang hàng Anh. Đồng thời Mĩ cũng xâm nhập được vào thị trường viễn
Đông Trung Quốc. Mĩ đã thiết lập được trật tự thế giới mới ở châu Á – Thái
Bình Dương do Mĩ chi phối.
- Các hiệp ước Oasinhtơn, cùng hệ thống hòa ước Vecxai hình thành hệ thống
Vecxai - Oasinhtơn hoàn thành phân chia thế giới. Thiết lập một trật tự thế
giới mới sau chiến tranh, trật tự này hoàn toàn phục vụ quyền lợi cho các
nước thắng trận Mĩ – Anh – Pháp.
- Hòa ước Vecxai – Oasinhtơn tạo nên mầm mống xung đột quốc tế trong
tương lai vì không giải quyết được mâu thuẫn giữa thắng trận với bại trận mà
nảy sinh thêm mâu thuẫn mới là thắng trận với thắng trận.
Câu 4: Trình bày đặc điểm của trật tự thế giới Vecxai – Oasinhtơn?
* Giới thiệu khái quát về hội nghị Vecxai và Oasinhtơn
* Đặc điểm
- Là một trật tự của chủ nghĩa tư bản nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước tư
bản thắng trận, chủ nghĩa xã hội không có vai trò gì trong trật tự này.
- Phản ảnh tương quan lực lượng giữa các nước tư bản sau CTTGI. Chủ nghĩa
tư bản châu Âu yếu đi nhưng chủ nghĩa tư bản ngoài châu Âu mạnh lên. Đồng

thời, đế quốc Nga sụp đổ nhưng trên mảnh đất đế quốc Nga xuất hiện nước
chủ nghĩa xã hội.

13


- Trật tự Vecxai - Oasinhtơn chứa đựng nhiều mâu thuẫn dẫn đến sự phục thù
của các nước (Đức) và nảy sinh mâu thuẫn thắng trận với thắng trận và thắng
trận với bại trận.
- So với các trật tự trước đó, trật tự Vecxai - Oasinhtơn có điểm tiến bộ hơn vì
có một tổ chức quốc tế được thành lập là Hội Quốc Liên.
Câu 5: Đánh giá về nền hòa bình do hội nghị Vecxai đem lại, nguyên soái
Phecđinăng (nguyên tổng tư lệnh đồng minh châu Âu) nói “Đây không
phải là hòa bình. Đây là cuộc hưu chiến trong 20 năm”. Tại sao Vậy?
a. Giới thiệu khái quát hoàn cảnh, nội dung hội nghị Vecxai nhấn mạnh vào
nội dung vấn đề về nước Đức...............
b. Sự bất mãn của các nước sau Vecxai
- Nhấn mạnh Đức, Ý, Nhật Bản
- Bất mãn với hòa ước V-O và khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã dẫn đến
Đức, Nhật, Ý phatsxit hóa bộ máy nhà nước gây chiến tranh...
-> Như vậy, năm 1919 hòa bình thế giói lặp lại nhưng năm 1939 chiến tranh
thế giới lại bùng nổ nên 20 năm hòa bình nhưng thực ra đó là thời gian hưu
chiến đủ để Ý, Nhật Bản, Đức đưa loài người vào cuộc chiến tranh thế giới
mới.

14


II. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ 1929 – 1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 là một cuộc khủng hoảng

thừa, diễn ra trên qui mô lớn, gây ra hậu quả lớn đối với các nước tư bản.
Cuộc khủng hoảng kinh tế này không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng đến kinh
tế, chính trị, xã hội của các nước tư bản mà còn tác động đến chính sách đối
ngoại của các nước tư bản. Chính sách đối ngoại của các nước tư bản trong
giai đoạn này lại tác động đến quan hệ quốc tế bởi trong bối cảnh đó một số
nước tìm cách thoát khỏi khủng hoảng bằng cách tiến hành cải cách đất nước
nhưng một số nước lại phatxit hóa bộ máy nhà nước chuẩn bị tiến hành chiến
tranh chia lại thị trường thế giới. Đối với nội dung này tôi cũng đưa ra hệ
thống câu hỏi và gợi ý trả lời sau đây:
Câu 1: Nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933
là gì? Các nước tư bản đã có những biện pháp gì để giải quyết cuộc
khủng hoảng? Tại sao có sự khác biệt trong cách thức giải quyết ấy?
* Nguyên nhân:
- Nguyên nhân trực tiếp: trong thời gian 1924 - 1929, CNTB bước vào thời kỳ
ổn định về chính trị và phát triển cao về kinh tế. Tuy nhiên, giữa các nước TB
có sự phát triển không đồng đều, đồng thời, sự phát triển thiếu kế hoạch,
không cân đối giữa cung và cầu đã dẫn tới khủng hoảng…
- Nguyên nhân sâu xa: do quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư
bản….
* Cách thức giải quyết:
- Các nước Mĩ, Anh, Pháp đã tiến hành những cải cách về kinh tế - xã hội, đổi
mới về quản lý, tổ chức sản xuất; tiếp tục duy trì thể chế dân chủ đại nghị
cũng như duy trì trật tự Véc xai- Oasinh tơn…
- Đức, Italia, Nhật Bản đã thiết lập chế độ độc tài PX, đàn áp phong trào đấu
tranh của nhân dân, ráo riết chạy đua vũ trang phân chia lại thế giới, phá bỏ
trật tự Vecxai- Oasinhtơn…
15


* Nguyên nhân khác biệt:

- Do Mĩ, Anh, Pháp là những nước có nhiều thị trường và thuộc địa, nhiều
vốn, còn Đức, Italia và Nhật thì có ít hoặc không có thuộc địa, thị trường nhỏ
hẹp…
- Do so sánh lực lượng của từng nước khác nhau…
- Do đặc điểm truyền thống…
Câu 2: Trình bày được các giai đoạn của chủ nghĩa tư bản giữa hai cuộc
chiến tranh thế giới (1918-1939)?
- Giai đoạn 1918-1923: nêu được khủng hoảng kinh tế và chính trị...
- Giai đoạn 1924-1929: ổn định tạm thời về chính trị và tăng trưởng cao về
kinh tế
- Giai đoạn 1929-1939:
+ Khủng hoảng về kinh tế, chính trị...
+ Giải pháp của các nước tư bản dẫn đến chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến
tranh thế giới thứ hai (1919-1945).
Câu 3 : Vì sao chủ nghĩa phát xít lại thắng thế ở Đức?
- Đức là quê hương của chủ nghĩa quân phiệt Phổ, kế thừa truyền thống bạo
lực.
- Đức là nước bại trận, phải ký hòa ước Vecxai nhục nhã, Hítle lợi dụng tâm lí
bất mãn của nhân dân Đức để kích động chủ nghĩa phục thù, đề cao chủ nghĩa
Phát xít.
- Khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế
nước Đức, hàng triệu người dân rơi vào cảnh đói nghèo thất nghiệp, Đảng
Quốc xã đã tăng cường các hoạt động mị dân mở rộng hoạt động trong quần
chúng.
- Giai cấp tư sản Đức muốn lợi dụng chủ nghĩa phát xít để dập tắt phong trào
đấu tranh của quần chúng,và tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng thị
trường nên đã dung túng cho Hítle có điều kiện phát xít hóa chính quyền.

16



- Đảng cộng sản Đức kêu gọi thành lập mặt trận thống nhất chống phát xít
nhưng bị Đảng xã hội dân chủ từ chối hợp tác.
Câu 4: Vì sao chủ nghĩa Phatxit lại thắng thế ở Đức? Trình bày chính
sách lớn của Đức trong những năm từ 1933 đến 1939?
* Chủ nghĩa phatxit thắng thế ở Đức
- Giai cấp cầm quyền không đủ mạnh để duy trì chế độ cộng hoà tư sản, để
đưa nước Đức thoát khỏi khủng hoảng vì thế đã dung túng cho chủ nghĩa
phatxit.
- Lợi dụng tâm lí bất mãn của người Đức với hoà ước Vecxai - Oasinhtơn
Đảng Quốc xã đứng đầu là Hitle tăng cường hoạt động tuyên truyền, kích
động chủ nghĩa phục thù, phân biệt chủng tộc chống Đảng cộng sản, chủ
trương phatxit hoá bộ máy nhà nước thiết lập chế độ độc tài khủng bố công
khai.
- Do Đảng Xã hội dân chủ - Đảng có ảnh hưỏng lớn trong nhân dân lao động
từ chối hợp tác với Đảng cộng sản trong việc chống phatxit.
- Đức chịu nhiều bất lợi trong hệ thống hoà ước Vecxai - Oasinhtơn nên muốn
phá vỡ hệ thống này bằng một cuộc chiến tranh.
- Nước Đức vốn có truyền thống quân phiệt lâu đời.
* Chính sách nước Đức 1933-1939
- Chính trị: Hitle thiết lập nền chuyên chính độc tài, khủng bố công khai, lật
đổ nền cộng hoà Vaima, đặt Đảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
- Kinh tế: Tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung mệnh lệnh nhằm phục vụ
nhu cầu quân sự, thành lập Tổng hội đồng kinh tế thâu tóm toàn bộ đời sống
kinh tế đất nước.
- Đối ngoại: Chính quyền Hitle tăng cường hoạt động chuẩn bị chiến tranh
+ Rút khỏi hội Quốc Liên để tư do hoạt động
+ Ban hành lệnh Tổng động viên
+ Tuyên bố thành lập quân đội thường trực bắt đầu triển khai hoạt động quân
sự ở châu Âu.

17


Câu 5: Vì sao nói “Chủ nghĩa phát xít có nghĩa là chiến tranh”?
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 chẳng những tàn phá nền
kinh tế mà còn gây ra những hậu quả nặng nề về chính trị, xã hội đối với các
nước tư bản. Các nước Đức, Ý, Nhật là những nước có ít thuộc địa, ngày càng
thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường, đã đi theo con đường phát xít hoá
chế độ chính trị để cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình...
- Các đảng phái phátxít, các tổ chức quân phiệt luôn luôn thể hiện bản chất
phản động, hiếu chiến:
+ Năm 1919, Mutxôlini đứng ra thành lập đảng riêng của mình, tổ chức dựa
trên cơ sở những nhóm vũ trang gọi là “bó chiến đấu”. “Cương lĩnh chính trị”
của Đảng phát xít Italia, ngoài những phần mị dân, chủ trương thiết lập một
“chính quyền cứng rắn, đủ sức mạnh”, “chống cộng sản”, “đàn áp phong trào
đấu tranh của công nhân”, và về đối ngoại “chống hệ thống hoà ước Vécxai”,
thực hiện “bành trướng lãnh thổ ra bên ngoài Italia”, “thu hồi những đất đai
của đế quốc Rôma khi xưa”, “khôi phục danh dự và vinh quang của Italia”...
+ Sau khi trở thành thủ lĩnh của Đảng Công nhân Đức, Hitle đã cải tổ lại
đảng, đổi tên thành Đảng Công nhân quốc gia xã hội chủ nghĩa (Đảng Quốc
xã) và đề ra “cương lĩnh 25 điều” rất phản động của đảng. Các thủ lĩnh của
Đảng Quốc xã, đứng đầu là Hitle, đã lợi dụng tâm lí bất mãn của người dân
Đức đối với Hoà ước Vécxai để kích động chủ nghĩa phục thù, chủ nghĩa
chống cộng và phân bệt chủng tộc, chủ trương phát xít hoá bộ máy nhà nước,
thiết lập chế độ độc tài khủng bố công khai...
+ Ở Nhật Bản, có nhiều tổ chức quân phiệt khác nhau, như Phái sĩ quan trẻ,
Phái tướng lĩnh già, Hội rồng đen, Hội chó sói... Đó là những tổ chức theo
tinh thần Võ sĩ đạo, mang màu sắc phong kiến, tôn thờ Thiên hoàng, sùng bái
sức mạnh, thích thú những hoạt động chém giết, khủng bố...
- Quá trình chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở Ý, Đức, Nhật:


18


+ Đặc điểm của quá trình phát xít hoá ở Ý, Đức: Quá trình này diễn ra thông
qua sự chuyển đổi từ chế độ dân chủ tư sản đại nghị sang chế độ chuyên chế
dộc tài phát xít...
+ Ở Nhật: Quá trình phát xít hoá diễn ra thông qua việc quân phiệt hoá bộ
máy nhà nước và tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa. Quá trình này kéo
dài trong những năm 30 của thế kỉ XX thông qua các cuộc đảo chính đẫm
máu...
- Chính sách đối nội phản động, chính sách đối ngoại hiếu chiến:
+ Chính sách đối nội: Phát triển nền kinh tế theo hướng tập trung, mệnh lệnh,
nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh, thiết lập nền chuyên chính độc tài khủng
bố công khai...
+ Chính sách đối ngoại:
+> Năm 1937, khối liên minh phát xít Đức – Ý - Nhật, được mệnh danh là
“Trục Béc - lin – Rô - ma – Tô - ki - ô” (hay gọi tắt là phe Trục) được hình
thành. Khối liên minh này vừa chống Quốc tế cộng sản (ám chỉ Liên Xô), vừa
nhằm gây chiến tranh chia lại thế giới...
+> Nhật: từ năm 1931 đến năm 1937, Nhật Bản mở rộng chiến tranh xâm
lược Trung Quốc, chiếm các tỉnh miền Đông; khiêu khích biên giới Trung –
Xô...
+> Ý: Xâm lược Êtiôpia (1935), can thiệp vũ trang vào Tây Ban Nha, chiếm
Anbanni (1939)...
+> Đức: Đẩy mạnh chiến tranh xâm lược hướng tới mục tiêu thành lập một
nước “Đại Đức” bao gồm các lãnh thổ có dân Đức sinh sống ở châu Âu:
chiếm Áo rồi sáp nhập vào nứoc Đức (3 - 1938), ép Tiệp, Anh, Pháp phải trao
vùng Xuy – đét cho Đức (9 - 1938), thôn tính toàn bộ Tiệp (3 - 1939), đòi Ba
Lan trao trả cho Đức Đăng – dích và “Hành lang Ba Lan”...

+> Ngày 1 – 9 – 1939, Thế chiến II bùng nổ. Chủ nghĩa phát xít phải chịu
trách nhiệm lớn nhất khi để xảy ra cuộc chiến tranh này...

19


=> Như vậy, chủ nghĩa phát xít là nền chuyên chính khủng bố công khai của
những phần tử phản dộng nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư
bản tài chính. “Chủ nghĩa phát xít có nghĩa là chiến tranh”
Câu 6: Lập bảng so sánh giữa Mĩ và Đức trong thời kì 1929 – 1939 về
hoàn cảnh lịch sử, chính sách đối nội, đối ngoại và kết quả.
Nội dung
Hoàn cảnh


Đức
Đất nước giàu tài nguyên, thị Đất nước nghèo tài nguyên,
trường rộng lớn. Thoả mãn với ít vốn, mất hết thuộc địa, bất
hệ thống Véc-xai – Oa-sinh-tơn. mãn với hệ thống Véc-xai –
Bị khủng hoảng kinh tế 1929 – Oa-sinh-tơn. Bị khủng hoảng
1933.

kinh tế 1929 – 1933.

Chính

sách Thực hiện chính sách mới; Ra Thi hành chính sách đối nội

đối nội


biện pháp gỉải quyết thất nghiệp, phản động: lập nền chuyên
phục hồi phát triển kinh tế qua chính độc tài khủng bố công
các đạo lụât…

Chính
đối ngoại

khai…

sách Thực hiện chính sách “Láng Rút ra khỏi Hội quốc liên,
giềng thân thiện”, với các nước chạy đua vũ trang, kí hiệp
Mĩlatinh, thiết lập quan hệ ngoại ước chống Quốc tế Cộng
giao với Liên Xô.

Kết quả

sản…

Vượt qua cơn khủng hoảng kinh Chủ nghĩa phát xít Đức hình
tế, duy trì chế độ dân chủ tư thành…
sản…

Câu 7: Nguyên nhân, đặc điểm và hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế 1929
- 1933 ở các nước tư bản? Nước Mĩ làm gì để vượt qua khủng hoảng?

20


* Nguyên nhân: Trong những năm 1924-1929, sản xuất của CNTB tăng lên
quá nhanh nhưng nhu cầu và sức mua của quần chúng lại không có sự tăng lên

tương ứng làm cho giá hàng hóa ngày càng giảm, ế thừa, cung vượt quá cầu
* Đặc điểm:
- Là cuộc khủng hoảng về cơ cấu kinh tế của CNTB, bao trùm toàn bộ thế giới
tư bản
- Là cuộc khủng hoảng lớn về phạm vi, trầm trọng nhất về mức độ, kéo dài về
thời gian so với các cuộc khủng hoảng trước đó.
* Hậu quả
- Tàn phá nặng nề nền kinh tế của các nước tư bản
- Chính trị - xã hội: Bất ổn định dẫn đến những cuộc đấu tranh, biểu tình diễn
ra liên tục lôi kéo hàng triệu người tham gia.
+ Nền DCTS bị đe dọa nghiêm trọng. Để đối phó lại cuộc khủng hoảng và
đàn áp phong trào cách mạng, giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước tư bản đã
chọn 2 lối thoát: Tiến hành cải cách hoặc phatxít hóa bộ máy nhà nước =>
Hình thành 2 khối đế quốc đối lập dẫn đến nguy cơ một cuộc chiến tranh thế
giới mới
* Nước Mĩ giải quyết khủng hoảng
- Thực hiện chính sách mới; Ra biện pháp gỉải quyết thất nghiệp, phục hồi
phát triển kinh tế qua các đạo lụât…
- Thực hiện chính sách “Láng giềng thân thiện”, với các nước Mĩlatinh, thiết
lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
=> Vượt qua cơn khủng hoảng kinh tế, duy trì chế độ dân chủ tư sản

Câu 8: Tìm điểm giống và khác nhau trong quá trình xác lập chủ nghĩa
Phatxit của Đức, Italia, Nhật Bản?
* Giống nhau
21


- Nghèo tài nguyên, ít thuộc địa….
- Đều bất mãn với hòa ước Vecxai – Oasinhtơn

- Đều chịu ảnh hưởng nặng nề cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933
- Đều có âm mưu dùng vũ lực và chiến tranh chia lại thế giới
* Khác nhau
- Thời gian:
+ Đức, Ý: Quá trình Phatxit hóa diễn ra nhanh, sớm
+ Nhật Bản: Quá trình Phatxit hó kéo dài về thời gian
- Tiềm lực:
+ Đức: Nước lớn, có tiềm lực về kinh tế, quân sự, có trình độ cao về KHKT
+ Nhật: Tương đối mạnh
+ Ý: “Chủ nghĩa đế quốc của những kẻ nghèo khổ”
- Hình thức
+ Đức, Ý: Chuyển đổi một cách hòa bình từ chế độ dân chủ đại nghị sang chế
độ chuyên chế độc tài Phatxit
+ Nhật Bản: Đấu tranh gay gắt giữa sĩ quan trẻ và sĩ quan già…
- Mức độ: Đức hung hăng, quyế liệt, triệt để hơn so với Ý, Nhật Bản…
=> Rút ra bản chất của chủ nghĩa Phatxit…..

22


III. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRƯỚC NGUY CƠ CỦA CHỦ NGHĨA
PHATXIT, CỦA CHIẾN TRANH
Trước nguy cơ của chủ nghĩa phatxit của chiến tranh thế giới các nước
tư bản chủ nghĩa không chung tay cùng Liên Xô để tiêu diệt chủ nghĩa Phatxit
mà lại thực hiện chính sách dung dưỡng, thỏa hiệp, nhân nhượng cho chủ
nghĩa Phatxit. Họ thực hiện chính sách hai mặt vì quyền lợi ích kỉ của nước
mình mà bản rẻ đồng minh, không những không ngăn cản chủ nghĩa Phatxit
hoành hành mà còn tạo điều kiện, mở đường cho các nước Phatxit đẩy nhanh
quá trình chuẩn bị cho chiến tranh thế giới thứ hai. Về vấn đề thứ ba này tôi
cũng xin đưa ra những câu hỏi và gợi ý trả lời theo tôi là quan trọng sau đây:

Câu 1: Thái độ của Anh-Pháp-Mĩ trước hành động phá vỡ hòa ước V – O
và chuẩn bị cho chiến tranh của Đức – Mĩ –Nhật?
* Thái độ của A-P-M trước hành động của Nhật Bản
- Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ V- O bằng sức mạnh quân
sự bởi năm 1931 Nhật đánh chiếm Đông bắc Trung Quốc và dựng lên chính
phủ bù nhìn Phổ Nghi
- Nhật Bản xâm lược Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước
tư bản nhất là Mĩ. Tuy nhiên họ lại nhân nhượng, dung túng cho hành động
của Nhật với toan tính Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng Trung Quốc và
tấn công Liên Xô => Đây là lí do Nhật tiếp tục mở rộng xâm lược Trung
Quốc.
* Thái độ của A-P-M trước hành động của Nhật Bản
- Tháng 10/1933, Đức rút khỏi hội Quốc Liên, sau đó công bố đạo luật cưỡng
bức tòng quân...
- Hơn nữa, Anh kí hiệp định hải quân với Đức, theo đó Đức được xây dựng
hạm đội tàu nổi, tàu ngầm...

23


- Với hành động trắng trợn này Pháp, Mĩ không có hành động gì cứu vãn hòa
ước V-O. Không những thế Anh ngang nhiên tiếp tay cho Đức trong việc
phục hồi quân sự để Đức có điều kiện tiến hành chiến tranh.
* Thái độ của A-P-M trước hành động của Ý
- Ý xâm lược Êtiôpia, sau đó Ý ủng hộ phe Phatxit trong cuộc nội chiến ở Tây
Ban Nha và rút khỏi Hội Quốc Liên
- A-P-M không có biện pháp cần thiết nào ngăn cản hành động gây chiến của
TBN. Đây thực chất là hành động thỏa hiệp của A-P-M với lực lượng Phatxit.
Câu 2: Vì sao hội nghị Muynich được coi là đinh cao chính sách thỏa hiệp
của Anh và Pháp?

* Vì sao Đức lại muốn chiếm Xuydet của Tiệp Khắc
- Là quốc gia nằm trung tâm của châu Âu…
- Là nước có công nghiệp phát triển, tài nguyên thiên nhiên phong phú…
- Nơi có nhiều người Đức sinh sống
* Hội nghị Muynich
- Thời gian: …
- Thành phần: …
- Nội dung: …
* Lí giải
- Tiệp Khắc là đồng minh của Anh – Pháp nhưng trước âm mưu xâm lược của
Đức, Anh – Pháp tỏ ra thiếu cứng rắn trong việc bảo vệ đồng minh của mình.
Thực tế họ đã thi hành chính sách cầu an thỏa hiệp với hi vọng đem lại lợi
nhuận cho mình…

24


- Hội nghị Muynich đã chà đạp một cách thô bạo lên nguyên tắc cơ bản của
công pháp quốc tế. Đó là biểu hiện của một thực tế “Nước lớn là ông chủ của
nước nhỏ”, lấy sự hi sinh quyền lợi của nước nhỏ để tiến hành cuộc trao đổi
mang tính cầu an, thỏa hiệp
Câu 3: Có đúng không khi cho rằng các nước Đức, Italia, Nhật Bản là kẻ
gây ra chiến tranh nhưng Anh, Pháp, Mĩ cũng phải chịu một phần trách
nhiệm?
* Đức, Italia, Nhật Bản là ke gây chiến tranh
- Để thoát khỏi khủng hoảng 1929-1933, Đức, Italia, Nhật Bản đã phatxit hóa
bộ máy nhà nước theo đuổi chính sách gây chiến tranh chia lại thế giới.
- Đức, Italia, Nhật Bản đồng loạt rút khỏi hội Quốc Liên để tự do hành động
- Năm 1937, Đức, Italia, Nhật Bản đã hình thành khối Phatxit được mệnh
danh là khối trục Beclin – Rôma – Tôkiô vừa nhằm gây chiến tranh chia lại

thế giới vừa chống lại quốc tế cộng sản.
- Cả 3 nước đều tiến hành những hành động gây chiến tranh chia lại thế giới:
+ Nhật Bản xâm lược…
+ Italia xâm lược….
+ Đức xâm lược….
=> Rõ ràng, Đức, Italia, Nhật bản là kẻ tội phạm châm nòi cho chiến tranh thế
giói thứ hai.
* Anh, Pháp, Mĩ phải chịu một phần trách nhiệm
- Anh, Pháp, Mĩ có chung một mục đích là giữ nguyên trật tự thế giới có lợi
cho mình. Họ lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa Phatxit nhưng lại thù ghét
chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, giới cầm quyền Anh, Pháp không liên kết với
25


×