Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SỰ HÌNH THÀNH và sụp đổ của TRẬT tự véc XAI – OASINHTƠN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.21 KB, 23 trang )

Chuyên đề:
SỰ HÌNH THÀNH VÀ SỤP ĐỔ CỦA TRẬT TỰ VÉC XAI - OASINHTƠN
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT

Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939) diễn biến
phức tạp, gắn liền với sự tồn tại của trật tự Véc xai- Oasinhtơn. Vậy, trật tự Véc
xai- Oasinhtơn đã hình thành và sụp đổ như thế nào sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất? Nó có liên hệ gì với sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai? Quan hệ
quốc tế trong những năm 1919-1939 liệu có phải là giai đoạn hưu chiến giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới? Để tìm ra lời giải cho những thắc mắc này, chúng ta
cùng phân tích.
1. Sự hình thành trật tự Véc xai - Oasinhtơn
1.1. Tương quan lực lượng giữa các nước sau chiến tranh thế giới thứ
nhất
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới
trong quan hệ quốc tế. Kết cục của chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình
thế giới đặc biệt là đối với châu Âu.
- Chiến trường chính của cuộc chiến tranh diễn ra ở châu Âu, vì thế các
cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy
chiến thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của
Mĩ. Italia, một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh
gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga,
Đức, Áo - Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc Đức và Áo - Hung bại trận, bị tàn phá
nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng.
- Trong khi đó các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật, không bị
tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở
châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất
lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản
chủ nghĩa trước đây.
- Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra


một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại
như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế giới
tư bản chủ nghĩa.


Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội
nghị hoà bình được triệu tập. Hệ thống hoà ước Versailles và sau đó là Hệ thống
hiệp ước Washington đã được ký kết nhằm tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, phù
hợp với tương quan lực lượng mới.
1.2. Hệ thống hòa ước Véc xai đối với các nước bại trận
Hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ngày 18 - 1 - 1919 các nước thắng
trận đã họp Hội nghị hoà bình tại Vécxai (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp). Tham dự
hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điều khiển
hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết
định hội nghị là Tổng thống Mĩ Uyn-xơn, Thủ tướng Anh Lôi Gioóc và Thủ tướng
Pháp Clê- măng-xô. Đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để kí vào các hoà
ước do các nước thắng trận quyết định. Riêng nước Nga không được mời tham gia
hội nghị. Vấn đề Nga không được đưa vào chương trình nghị sự nhưng nó là nỗi
ám ảnh đối với các nước đế quốc. Ngay từ trước khi hội nghị bắt đầu, các nước đã
thảo luận vấn đề Nga và đi đến thỏa thuận sẽ tăng cường can thiệp vũ trang và ủng
hộ lực lượng phản động để chống lại chính quyền Xô viết.
Hội nghị Vécxai kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì
các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc
phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh.
Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước
Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở
lục địa châu Âu.
Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương
đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu

và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở
châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh
kết thúc, Tổng thống Mĩ Uyn-xơn đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại
hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ.
Chương trình 14 điểm bao gồm:
1. Đưa ra những hiệp định rõ ràng, không bí mật.
2. Tự do thông thương của các đại dương.
3. Bãi bỏ các rào cản kinh tế.
4. Cắt giảm vũ khí.
5. Dàn xếp các yêu sách của thuộc địa theo quyền lợi của các dân tộc bị trị.
6. Quân Đức rút khỏi Nga, quyền tự do về chính sách quốc gia cho Nga.
7. Quân Đức rút khỏi Bỉ, Bỉ là nước độc lập.
8. Quân Đức rút khỏi Pháp, Alsace-Loraine thuộc về Pháp.
9. Điều chỉnh biên giới Italia.
10. Các dân tộc của đế quốc Áo có quyền tự quyết.


11. Quân Đức rời khỏi Rumani, Serbia và Montenegro, Serbia có một lối đi
ra biển.
12. Các dân tộc của đế quốc Ottoman có quyền tự quyết, eo biển
Dardanelless cho phép tàu của mọi quốc gia.
13. Ba Lan độc lâp, có một lối đi ra biển.
14. Thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình
Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình
14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối
thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của
châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ
không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác.
Chương trình 14 điểm của Uyn-xơn được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận
tại Hội nghị Vécxai

Các nước Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản
đòi được thay thế Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc, dự định
chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu
á - Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và
vùng Balkan. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những yêu cầu mở
rộng lãnh thổ của mình.
Mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giữa các nước tham dự Hội nghị Vécxai, đặc
biệt là giữa các cường quốc trở nên gay gắt, có tới 3 lần Hội nghị có nguy cơ tan
vỡ. Cuối cùng vào tháng 3/1919, các văn kiện của Hội nghị đã lần lượt được ký
kết.
Hoà ước Vécxai với Đức.
Hoà ước Vécxai với Đức kí ngày 28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của
hệ thống hoà ước Versailles, đã quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng
định nước Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó
phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Andát-Loren (mà Pháp cắt nhượng cho Đức trong
cuộc chiến tranh Pháp - Phổ 1870 - 1871); nhường cho Bỉ khu Eupen Malmedy và
Moresnet; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sleswig - tùy kết quả của cuộc trưng cầu ý
dân - mà Thủ tướng Đức Bismarck chiếm được trong cuộc chiến tranh Đức - Đan
Mạch 1864; cắt cho Ba Lan vùng Pomerania và một “hành lang chạy ra biển”...,
một số nơi khác tùy thuộc vào trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm được trong cuộc
phân chia Ba Lan vào thế kỷ XVIII. Đồng thời, thành phố cảng Dantzig (nay là
Gdansk, Ba Lan) và đảo Hengôlan sẽ do Hội quốc liên quản trị. Đây là một trong
những điều khoảng khiến người dân Đức tức giận nhất, họ không chỉ bất mãn vì
việc tách vùng Đông Phổ ra khỏi nước Đức bằng một "hành lang" cho Ba Lan
thông ra biển, mà còn ghét bỏ người Ba Lan - người mà họ xem như "người hạ
đẳng" - không hơn, không kém. Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy Hòa
ước (điều 231) buộc tội họ là nước duy nhất phải chịu trách nhiệm chính là người


gây ra cuộc chiến này, và đòi họ phải giao Wilhelm II (người phát động cuộc

chiến) và khoảng 800 tội phạm chiến tranh khác cho các nước Hiệp ước để họ xét
xử, còn các nước đế quốc khác thì dường như "vô tội". Ngoài ra, hạt Sarre của Đức
cũng giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây
thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết định hạt
Sarre sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Sarre đã thuộc
về nước Đức). Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ
trị của Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản
lí.
Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại
100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội
tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu
cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần
quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km
sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các
nước thắng trận số tiền (do Hội nghị Luân đôn tháng 4 - 1921 qui định) là 132 tỉ
Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà
ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than,
2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ
gánh nặng của hoà ước Vécxai đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Vécxai
không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với sự trợ giúp
của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở
thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30.
Các hoà ước khác.
Cùng với hoà ước Vécxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt kí
kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920. Với hoà ước Saint - Germain
kí với Áo ngày 10 - 9 - 1919 và Hoà ước Trianon kí với Hunggari ngày 4-6-1920,
đế quốc Áo - Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ
còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước
kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng
30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc áo - Hung cũ

đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở
rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc áo - Hung: Rumani được thêm vùng
Bukovine và Transylvanie, Italia được thêm vùng Trentin - Istrie, Ba Lan cũng
được thành lập với vùng Galicia thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga.
Ở bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc ốttôman
cũng được quyết định. Với hoà ước Neuilly kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh
thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới
phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng Thrace cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng
Dédéagatch và lối ra biển Egée và cắt tỉnh Dobroudja cho Rumani. Ngoài ra,


Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp cho các nước láng
giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư, Hi lạp, Rumani) 37.000 gia súc lớn, 33.000
gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá
20.000 người. Hoà ước Sevres với Thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 - 8 - 1920 đã chính thức
xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc Ottoman. Syria, Libăng, Palextin và Irắc tách khỏi
thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và Pháp. Ai Cập chịu sự “bảo hộ”
của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh. Phần đất
châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ Istambul và vùng ngoại ô). Các
eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm soát của một uỷ ban gồm các
đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản.
Toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Vécxai. Đây là
văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế
quốc. Trật tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh.
Anh chẳng những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển
vẫn được giữ vững. Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên,
những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Versailles đối với các nước
chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà
còn làm tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh
ngay từ khi hệ thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế

giới của giới cầm quyền Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế
quốc đã phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp
theo ở Washington.
1.3. Hội Quốc Liên
Một trong những vấn đề cơ bản được các nước tham dự Hội nghị Vécxai
nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên, được thành lập theo tinh thần và nội dung
của Điểm 14 trong "Chương trình 14 điểm" của Uyn-xơn. Công ước thành lập Hội
quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó,
mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền
hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số
nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ
quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế...
Ngày 10 - 1 - 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào
công ước sáng lập, Hội quốc liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng (gồm tất cả các
nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9), Hội đồng thường trực (gồm 5
uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không
tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban thư ký thường
trực (do Tổng thư ký đứng đầu) thường trực như một nội các làm việc hành chính
thường xuyên, đóng trụ sở ở Geneve. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên
gồm có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như:
Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn


(HCR)
...
Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị,
tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh
chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện
tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với
toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và

tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện
pháp quân sự.
Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu
tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh
nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm
ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những
hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường
quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp đã
chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các
biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội
Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội
Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí
chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra sau
này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc
tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Uyn-xơn
nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực
hiện trong Hội nghị Vécxai. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và
sức mạnh của tổ chức này.
1.4. Hiệp ước ký ở Oasinhtơn
Hội nghị Vécxai kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa các
cường quốc thắng trận đặc biệt là mâu thuẫn trong quan hệ Anh - Mĩ và Mĩ - Nhật.
Các nguyên nhân dẫn đến việc ký hòa ước này là:
- Hòa ước Vécxai không giải quyết được mâu thuẫn giữa các nước đế quốc,
ngay cả trong nội bộ các nước đế quốc. Trên thực tế, Anh là nước có nhiều quyền
lợi hơn cả, được giữ vững hệ thống thuộc địa và không cho một đế quốc nào khác
mạnh hơn và qua mặt mình. Pháp và Nhật cũng giành được nhiều quyền lợi qua Hệ
thống hòa ước Vécxai. Còn Mỹ chưa giành được quyền lợi nào đáng kể. Cụ thể,
Mỹ rất bất bình trước việc Anh, Pháp làm cho Đức quá suy yếu. Về bồi thường
chiến tranh, trong khi Anh, Pháp đòi Đức bồi thường 480 - 600 tỉ mac, Đức chấp
nhận 100 tỉ mac, thì Mỹ chỉ chấp nhận có 200 tỉ mac mà thôi. Chính giới Mỹ cũng

bất bình khi Hiệp ước Vécxai quyết định trao Sơn Đông cho Nhật, là đối thủ cạnh
tranh nguy hiểm của Mỹ ở Viễn Đông.
- Sự thất bại của Uyn-xơn. Đúng vậy, Uyn-xơn chưa có những hành động
tích cực bảo vệ quyền lợi của Mỹ trong Hệ thống hòa ước Vécxai. Trong các hòa


ước Vécxai, ông đã không thể đưa vào nguyên tắc "tự do về biển", đồng thời khi
Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của ông thì cũng bị đa số Đảng Cộng
Hòa chiếm ưu thế trong Thượng viện đánh giá một cách tiêu cực, vì họ cho rằng
Anh và Pháp đang là kẻ chi phối chính trong tổ chức này, chứ không phải Mỹ.
Do tất cả những điều đó mà khi Uyn-xơn ký vào Hòa ước trên, Thượng viện Mỹ
đã lập tức không phê chuẩn nó và rút ra khỏi Hội Quốc Liên. Hậu quả là, trong
cuộc bầu cử năm 1920, đảng Dân chủ của ông bị thất cử với số phiếu chênh
lệch: 60,36% (Cộng hòa) và 34,19% (Dân chủ). Tân tổng thống của đảng Cộng hòa
mới lên nhậm chức là Harding đã vin vào cái gọi là "chủ nghĩa biệt lập", để không
bị lệ thuộc vào hòa ước trên và theo đuổi một ý đồ khác nhằm thiết lập địa vị cho
người Mỹ.
- Mâu thuẫn Anh - Mỹ về "Two Power Standard" ("nguyên tắc sức mạnh
gấp đôi"), liên minh Anh - Nhật và sức ép của Mỹ với liên minh này. Như đã biết,
Anh có ưu thế từ lâu trên Viễn Đông, nhất là Trung Quốc, nơi người Mỹ thèm khát
muốn xâm nhập vào, nhưng lúc nào cũng bị Anh chặn lại. Hơn thế, với Hòa ước
1919, Anh bảo toàn được địa vị của mình ở Viễn Đông, điều này khiến Mỹ rất bất
bình. Để giải quyết, Mỹ sử dụng sức mạnh tài chính (buộc Anh trả khoảng nợ 850
tỉ bảng cho mình), vấn đề Ireland và đe dọa mối quan hệ Nhật - Anh. Đồng thời,
Mỹ nhận thấy lúc đó lực lượng Hải quân của Anh rất mạnh, có mặt hầu như khắp
nơi trên thế giới. Năm 1914, chính phủ Anh đề ra nguyên tắc "sức mạnh gấp đôi"
quy định lực lượng quân Anh bằng 2 lần lực lượng hai đế quốc cộng lại, và điều đó
khiến người Mỹ bất bình và muốn thay đổi, xóa bỏ cái gọi là "nguyên tắc sức mạnh
gấp đôi" này.
- Mâu thuẫn Mỹ - Nhật về vấn đề Viễn Đông. Việc xây dựng kênh đào

Panama để thông thương đã làm cho mâu thuẫn Nhật - Mỹ, vốn có từ lâu trước Thế
chiến 1, bùng lên. Ngoài ra, Nhật cũng có lợi thế ở Viễn Đông nhiều hơn Mỹ, đó là
Nhật có xây dựng các căn cứ Hải quân ở Đài Loan, quần đảo Lưu Cầu, đảo
Sakhalin, các quần đảo Kuril, Mariana, Marshall.... rất thuận lợi cho Nhật có thể tự
do di chuyển, phòng ngừa các cuộc tấn công xảy ra bên ngoài Nhật Bản. Trong khi
đó, Mỹ mới có đặt chân vào vùng Thái Bình Dương từ hồi năm 1899 và đang xây
dựng lực lượng, thế nhưng với sự tăng trưởng không ngừng của Nhật về Hải quân
đã làm Mỹ xem xét lại và quyết định sẽ tăng cường hải quân vào khu vực này,
trong khi đó Mỹ cũng lo ngại vùng Thái Bình Dương rộng lớn sẽ gây khó khăn cho
nó khi có chiến tranh, do đó Mỹ cũng đem quân, xây dựng các căn cứ ở Guam,
Philippines. Căng thẳng Nhật - Mỹ còn liên quan đến vấn đề Cộng hòa Viễn Đông.
Trong khi Nhật muốn bóp chết chính quyền Viễn Đông thì Mỹ cũng lo ngại về
hành động của Nhật ở đây, và cho các công ty của mình vào nước này khai
khoáng, nhưng Nhật đã phản đối quyết liệt.
Ngày 12 - 11 - 1921, Hội nghị Washington được khai mạc với sự tham gia
của 9 nước: Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc.


Nước Nga Xô viết - một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự hội nghị.
Quyền lãnh đạo hội nghị nằm trong tay bốn nước: Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, nhưng
quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội
nghị Washington được thể hiện trong ba hiệp ước: Hiệp ước 4 nước (Anh, Pháp,
Mĩ, Nhật) , Hiệp ước 9 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào
Nha, Trung Quốc) và Hiệp ước 5 nước (Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia).
Hiệp ước 4 nước
Được gọi là Hiệp ước “không xâm lược ở Thái Bình Dương” kí ngày 13-121921 và có giá trị trong 10 năm. Các bên thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về
các đảo ở vùng Thái Bình Dương” thực ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu
vực rộng lớn này. Đồng thời cũng nhân dịp này Mĩ gây áp lực với Anh để liên
minh Anh - Nhật (được kí kết từ năm 1902) không còn hiệu lực nữa (điều 4). Với
Hiệp ước này, Mĩ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh - Nhật mà còn trở thành

nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương.
Hiệp ước 9 nước
Kí ngày 6 - 2 - 1922, gồm 9 điều, công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh
thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa”
và “khả năng đồng đều” cho các nước trong các hoạt động thương mại và công
nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, một công ước đặc biệt được ký
kết thống nhất thuế hải quan của Trung Quốc với tỉ lệ bằng 5% giá trị hàng hóa, và
Trung Quốc không được tăng thuế lên mức 12,5%. Tóm lại với hiệp ước này,
Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và
Nhật Bản. Đặc biệt là Mĩ đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung
Quốc.
Hiệp ước 5 nước
Kí kết cùng ngày 6-2-1922, được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải
quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương
theo tỉ lệ: 5 - 5 - 3 - 1,75 - 1,75 (cụ thể: Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000 tấn, Nhật:
315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn). Đồng thời các nước này cũng
qui định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và tầu tuần dương hạm. Với hiệp ước
này, Mỹ giành được quyền bình đẳng hải quân với Anh với nguyên tắc "sức mạnh
gấp đôi" bị phá vỡ, Nhật cũng giành được thắng lợi quan trong khi 5 nước tuyên bố
không xây dựng các căn cứ quân sự ở Thái Bình Dương, giúp nó nắm ưu thế trên
vùng biển rộng lớn này.
Kết hợp với hệ thống Hoà ước Versailles, các hiệp ước của Hội
nghị Washington đã tạo nên Hệ thống Versailles - Washington. Đó là trật tự thế
giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mĩ
giành được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch”
theo cách nói của Lê-nin. Những điều khoản ký kết ở Véc xai và Oasinhtơn còn là
sự chà đạp trắng trợn đến quyền dân tộc của các nước đế quốc bại trận cũng như


các nước thuộc địa. Nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành những nước thoả

mãn và những nước bất mãn với hệ thống này, tạo nên mầm mống của những cuộc
xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài
bốn năm (1914 - 1918) với những tổn thất nặng nề cho toàn nhân loại, hoà bình đã
được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.
2. Trật tự Vécxai - Oasinhtơn từng bước bị sói mòn và sụp đổ
2.1. Trật tự Vécxai - Oasinhtơn từng bước bị sói mòn
2.1.1.Trật tự Vécxai – Oasinhtơn bị xói mòn ngay từ sau hệ thống hòa
ước Véc xai
Hòa ước Vécxai với Đức là hòa ước có sự sắp đặt rất khắt khe của các cường
quốc đối với 1 một nước Đức bại trận. Nó có thể được so sánh với Hiệp định Tilsit
mà Hoàng đế Pháp Napoleon I ký với Nga để áp đặt nước Phổ năm 1807, hoặc là
Hiệp ước Brest - Litopsk mà Đế chế Đức áp đặt vào nước Nga Xô viết vào năm
1918. Lenin đã bình luận hết sức mỉa mai về Hội nghị này: "Chúng muốn quyết
định xem cho ai nhiều than hơn, thế là chúng cãi cọ trong suốt 5 tháng nay, chúng
không còn kiềm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ
còn lại cái đuôi". Việc hòa ước Versailles được công bố vào ngày 7/5/1919 đã gây
ra một sự phản ứng mạnh mẽ không chỉ trong chính phủ, quân đội, mà còn lan ra
toàn thể người dân Đức. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận nó
và cho rằng nó là hòa ước "vô lý"; còn nhân dân Đức thì ủng hộ, hậu thuẫn chính
phủ nhiệt tình trong cuộc đấu tranh này. Chính phủ hỏi ý kiến quân đội: Nếu từ
chối ký vào hòa ước, liệu Quân đội có thể chống cự cuộc tấn công của Đồng minh
hay không? Ngày 17/6, Thống chế Hindenburg cho rằng, nếu từ chối ký hòa ước,
Đức sẽ có thể gây chiến tranh chiếm vùng Posen, nhưng sẽ rất khó khăn nếu Đồng
minh tấn công kịch liệt và chúng ta sẽ thất bại. Chi bằng chúng ta thà thua trong
danh dự còn hơn chấp nhận một nền hòa bình nhục nhã. Lời nói này của
Hindenburg khiến người dân cảm thấy như là không thực sự trung thực cho
lắm. Nhân dân Đức không biết Hindenburg đã nghĩ rằng nếu cố chống cự Đồng
minh thì không những vô vọng, mà còn có thể khiến cho cấp chỉ huy quân đội quý
giá bị tiêu diệt và từ đó nước Đức cũng bị hủy diệt theo. Vài ngày sau, khi bị Đồng
minh bắt phải ra ngay quyết định cuối cùng, Chính phủ đã họp lại nội các và quân

đội và 4 ngày sau, quốc hội Đức mới chính thức ký vào văn kiện Hòa ước
Versailles.
Việc ký kết hòa ước này gây sự phản ứng rất mạnh mẽ ở nhiều nơi. Ở Liên
Xô, khi nghe tin hòa ước được ký kết, Lê-nin đã nhận xét: "Đấy là một thứ hòa
ước kỳ quái, một thứ hòa ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó
có những con người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải
là một hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn
nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận". Đồng thời ở Pháp, Thống chế Foch, viên


tướng Pháp có nhiều công lao lớn trong Thế chiến I, đã không ngừng phản đối
Clemenceau rất kịch liệt và không bằng lòng với những nội dung Hòa ước đã ký
với Đức, ông ta cũng dự báo về những thất bại của Hòa ước đó. Ông ta từng chứng
kiến quân Đức hủy hạm đội của mình để tránh rơi vào tay giặc, quân và dân Đức
đốt cháy lá cờ Pháp ở nước Đức mà quân Đức cướp trong cuộc chiến 1870 - 1871,
nhằm ngăn cản việc giao các lá cờ này cho Pháp... Ông viết thư cho vợ: "Bọn họ
nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình
của Clê-măng-xô". Do đó, Foch từ chối làm lễ ký kết Hiệp ước này vào ngày 28
tháng 6 năm 1919 tại Versailles. Foch có lời tuyên bố, mà sau này càng trở nên
đúng: "Đây không phải là một Hòa ước. Đây là một Thỏa ước ngừng bắn trong
vòng 20 năm". Bất chấp sự nỗ lực lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này thất bại
vì không thể thay đổi sự cân bằng chiến lược Đức - Pháp: Đức thì đông dân, có
tiềm lực quân sự, chính trị mạnh nhưng trong khi đó quân đội Pháp lại quá yếu,
ảnh hưởng rất nhỏ bé trong phe Hiệp ước nên rất khó đương đầu với Đức. Chính vì
vậy, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối phê chuẩn bản Hòa ước này vào tháng 1
năm 1920, và liên minh giữa Anh Quốc và Pháp bắt đầu suy sụp. Foch chán ghét
một liên minh quân sự Pháp - Anh - Mỹ, cái mà Clemenceau đặt niềm tin to lớn.
Thành thử không những chiến thắng của Pháp vào năm 1918 hoàn toàn là một
chiến thắng mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập một nền hòa bình lâu dài.
Người Nhật cũng thể hiện sự không bằng lòng một cách kín đáo: trong hội nghị,

đại diện của Nhật nở nụ cười bí hiểm, hướng ánh mắt xa xăm về Châu Á – Thái
Bình Dương.
“Cơm không lành, canh không ngọt”, nguyện vọng vươn lên vị trí bá chủ
của nước Mỹ chưa được thỏa mãn. Họ nhanh chóng triệu tập hội nghị ở Oasinhtơn
ngay sau đó ít lâu.
Hội nghị Washington hoàn toàn có lợi cho Mĩ, trong khi nước Anh phải
chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc “sức mạnh quân sự gấp đôi” đã có từ năm
1914, theo đó hải quân Anh phải có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới
cộng lại, đồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh - Nhật. Từ đây hải quân Mĩ ngang
hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ còn thực hiện được việc xâm nhập vào thị
trường viễn Đông và Trung Quốc thông qua chính sách “mở cửa”. Với hệ thống
Hiệp ước Washington, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một
khuôn khổ trật tự mới ở Châu Á - Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. Người Nhật
cũng có điều kiện phát triển lực lượng hải quân, phục vụ cho những kế hoạch tiếp
theo của mình.
Chúng ta có thể nhận ra mong muốn cân bằng quyền lực giữa các nước lớn
đặc biệt là của Anh và Pháp nhằm tạo ra một trật tự thế giới mới sau Chiến tranh
thế giới thứ nhất có lợi cho họ. Tuy nhiên, những toan tính này vấp phải mưu đồ
riêng của Mỹ và Nhật, hai quốc gia đã mạnh lên rất nhiều sau chiến tranh, đặc biệt,
Mỹ là chủ nợ của toàn châu Âu. Những giành giật, giao kèo mới ở Véc xai và sau


đó là Oasinhtơn khiến các nước lớn không tìm ra được tiếng nói chung, dần rà, họ
xa cách trong các việc xử lý các vấn đề nóng bỏng sau này. Đó là điều kiện vô
cùng thuận lợi để nước Đức, và các nước phát xít có thời cơ hành động.
2.1.2. Vấn đề thực hiện Hoà ước Vécxai kí với Đức.
Tiếng nói chung trong việc giải quyết vấn đề Đức đã không xuất hiện.
Việc thực hiện các điều khoản của Hoà ước Vécxai kí với Đức chiếm một vị
trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm 20. Về vấn đề bồi thường
chiến tranh, Hội nghị Luân Đôn ngày 30 - 4 - 1921 đã qui định số tiền bồi thường

của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả từ mùa hè năm 1921. Tuy
nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng diễn ra ở Đức đã khiến
cho nước này không có khả năng thực tế để trả món nợ đó. Sau việc liên quân Pháp
- Bỉ chiếm đóng vùng Ruhr (11 - 1 - 1923), nơi sản xuất 90% sản lượng than và
70% sản lượng gang của nước Đức, không mang lại hiệu quả trong vấn đề bồi
thường của Đức, một Hội nghị quốc tế đã được triệu tập ở Luân đôn để xem xét lại
vấn đề này. Hội nghị Luân đôn khai mạc ngày 16 - 7 - 1924 với sự tham gia của
các đại diện Anh (MacDonald), Pháp (Herriot), Italia (Stefani), Nhật (Hayashi), Bỉ
(Teinic), Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Rumani, và Mĩ (Kellogg) (về danh nghĩa Mĩ chỉ
tham gia với một số quyền hạn chế nhưng trên thực tế Mĩ có ảnh hưởng lớn trong
Hội nghị). Hội nghị Luân Đôn đã thông qua kế hoạch Dawes có giá trị trong vòng
5 năm với nội dung chủ yếu là Mĩ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục hồi và
phát triển kinh tế - tài chính để nước này có khả năng trả được các khoản bồi
thường chiến tranh theo lịch trình được Uỷ ban 5 nước Anh, Pháp Mĩ, Italia qui
định như sau:
- Năm thứ nhất trả 1 tỉ mác vàng;
- Năm thứ hai: 1,22 tỉ mác vàng;
- Năm thứ 3: 1,2 tỉ mác vàng;
- Năm thứ tư: 1,75 tỉ mác vàng;
- Từ năm thứ năm: mỗi năm 2,5 tỉ mác vàng.
Với kế hoạch Dawes, Pháp đã phải có những nhượng bộ quan trọng: Pháp
phải rút khỏi vùng Ruhr (năm 1925) việc giải quyết vấn đề bồi thường chiến tranh
đã tuột khỏi tay Pháp chuyển sang tay người Mĩ. Mĩ và Anh có điều kiện mở rộng
ảnh hưởng về kinh tế - tài chính vào nước Đức. Kế hoạch Dawes đã góp phần quan
trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức. Những trận “mưa đô la” từ Mĩ
và Anh qua kế hoạch này đã tạo điều kiện trang bị những kĩ thuật hiện đại và nâng
cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức. Trong năm đầu thực hiện kế hoạch
Dawes, khi số tiền Đức cho vay được ấn định là 800 triệu mac, thì trên thực tế Đức
nhận được đến 921 triệu mac (461 triệu của Mỹ, 227 triệu của Anh). Từ đó đến
năm 1929, Đức đã nhận viện trợ của Mĩ, Anh để vay, tín dụng và đầu tư vào công

nghiệp khoảng 20 - 25 tỉ mac vàng. Số tiền viện trợ đó không những đủ để trả nợ
cho các đế quốc thắng trận (Đức trả lại cho họ tới 11 tỉ mac) mà còn đủ để phát


triển kinh tế của mình. Năm 1929, tổng sản lượng công nghiệp Đức đạt 113% mức
trước chiến tranh, vượt qua Anh, Pháp. Cũng trong năm 1929, kế hoạch Dawes lại
được điều chỉnh theo hướng giảm bớt gánh nặng bồi thường chiến tranh cho Đức.
Sau một thời gian dài thảo luận, tháng 8 - 1929, Hội nghị quốc tế của 12 nước tư
bản họp ở La Hay đã chính thức thông qua kế hoạch Young. Theo đó số tiền bồi
thường của Đức giảm xuống còn 113,9 tỉ mác vàng và được trả trong thời hạn kéo
dài tới 60 năm, đồng thời quân đội chiếm đóng của Pháp, Bỉ sẽ phải rút khỏi vùng
Rhenanie trước ngày 30 - 6 - 1930. Đến đây, uỷ ban bồi thường đã chấm dứt hoạt
động, thay vào đó Ngân hàng thanh toán quốc tế sẽ chịu trách nhiệm theo dõi việc
trả tiền bồi thường chiến tranh của Đức. Như vậy, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Anh
và Mĩ với ý đồ sử dụng Đức như một con đập ngăn làn sóng cách mạng có khả
năng tràn sang phía Tây từ Liên Xô, chỉ trong một thời gian ngắn nước Đức chẳng
những đã phục hồi nhanh chóng mà còn tăng cường tiềm lực kinh tế - quân sự của
mình.
2.1.3. Các hội nghị quốc tế về hoà bình, an ninh tập thể và giải trừ quân
bị
Các nước lớn ngày càng xa cách trong việc thực hiện an ninh tập thể và giải
trừ quân bị.
Bước vào thập niên 20, nhìn chung các nước tư bản đều bước vào thời kì ổn
định và đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế. Sự ổn định về kinh tế và
chính trị của chủ nghĩa tư bản đã tác động không nhỏ đến chiều hướng phát triển
của quan hệ quốc tế. Sau Hội nghị Versailles - Washington, hàng loạt các hội nghị
quốc tế về các vấn đề hoà bình, an ninh tập thể, giải trừ quân bị... đã diễn ra trong
khuôn khổ hệ thống Versailles - Washington.
Hội nghị quốc tế Genova (Italia) diễn ra từ 4 -10 đến 19 - 5 - 1922 với sự
tham gia của đại biểu 29 nước trên thế giới (Mĩ không chính thức tham gia mà chỉ

cử quan sát viên tham dự). Nước Nga Xô viết lần đầu tiên chính thức được mời
tham dự. Hội nghị bàn về những vấn đề kinh tế - tài chính của tất cả các nước Châu
Âu sau chiến tranh, trong đó “vấn đề Nga”. Hội nghị Genova hầu như không đạt
được kết quả đáng kể nào. Trong khi đó, bên lề hội nghị Genova, hai nước Đức và
Nga đã kí kết Hiệp ước Rapallo (16 - 4 - 1922) nhằm khôi phục lại các quan hệ
ngoại giao, cam kết từ bỏ các khoản nợ và bồi thường chiến tranh (điều 116 của
hòa ước Versailles), quốc hữu hóa các tài sản sở hữu nhà nước, đồng thời áp dụng
chính sách tối huệ quốc cho các quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hiệp
ước này như một quả bom nổ tung bên cạnh hội nghị Genova đang diễn ra, và là
một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Nga Xô viết lúc đó. Chail - quan sát viên của
Mỹ tại hội nghị Genova đã đánh giá hiệp ước Rapallo "đã làm rung chuyển toàn
thế giới và giáng một đòn chí mạng vào Hội nghị Genova". Và quả thật, đúng như
Duroselle khi đó đã viết: "Hiệp ước Rapallo làm các đồng minh hốt hoảng", và


mặc dù bị đồng minh phản đối kịch liệt, nhưng Đức vẫn quyết tâm thực hiện vì chỉ
có nó mới giúp Đức tồn tại, đứng vững và tạo đà phát triển mạnh về sau này.
Cuối năm 1922, Hội nghị quốc tế ở Lausanne (Thuỵ sĩ) để bàn về việc kí kết
một hiệp ước hoà bình mới với Thổ Nhĩ Kì và những vấn đề khác liên quan đến
các eo biển ở vùng biển Hắc Hải. Một hòa ước được ký kết, đã xác định lãnh thổ
của nước này bao gồm vùng Tiểu Á và vùng Đông Thessaly ở phần châu Âu,
nhưng Liên Xô đã phủ quyết hòa ước này. Hòa ước hoàn toàn mất hiệu lực.
Để xây dựng một nền an ninh tập thể ở châu Âu trong khuôn khổ hệ thống
Versailles - Washington, một hội nghị quốc tế giữa các nước tư bản châu Âu đã
được triệu tập ở Locarno (Thụy Sĩ) từ ngày 5 đến 16 - 10 - 1925. Hội nghị đã đến
kí kết hệ thống hiệp ước Locarno (143 điều), bao gồm: Hiệp ước đảm bảo chung
(còn gọi là hiệp ước đảm bảo Rhenanie) giữa Anh, Pháp, Đức, Italia và Bỉ, các
hiệp ước Pháp - Đức, Đức - Bỉ, Đức - Tiệp, Đức - Ba Lan về trọng tài và các hiệp
ước đảm bảo Pháp - Ba Lan và Pháp - Tiệp. Các hiệp ước nói trên là sự cam kết
đảm bảo đường biên giới giữa các nước có liên quan; phi quân sự hóa vùng

Rhenanie theo những điều khoản của Hệ thống Versailles. Trong trường hợp Đức
xâm chiếm vùng phi quân sự này, các nước ký hiệp ước có toàn quyền, kể cả dùng
vũ lực để chống lại (điều 2). Đồng thời, cũng tại hội nghị này các nước đã đi đến
thoả thuận đồng ý để nước Đức tham gia Hội Quốc Liên (tuy nhiên phải đến tháng
9 - 1926 Đức mới trở thành viên chính thức của Hội Quốc Liên).
Với việc kí kết hệ thống hiệp ước Locarno và việc nước Đức tham gia Hội
Quốc Liên, mâu thuẫn giữa các cường quốc phương Tây dường như dịu đi và các
chính khách tư sản, các nhà báo đã tán tụng nó và họ đã "mơ" về nền hòa bình mà
châu Âu chờ đợi từ lâu (!). Hiệp ước trên đã giáng cho các liên minh của Pháp
những thất bại nặng nề và Pháp cũng từ đó mất hết hy vọng làm suy yếu Đức sau
hiệp ước Versailles. Với việc ký hiệp ước trên, Đức đã thoát dần ra khỏi vị trí là
nước bại trận, vươn lên bình đẳng về chính trị - kinh tế với các nước và "hợp pháp
hóa" địa vị trên trường quốc tế. Còn Anh và Mỹ thì tỏ ra hài lòng về Hệ thống hiệp
ước này, bởi một mặt, hệ thống này khống chế được Pháp, buộc Đức ràng buộc
vào các cam kết nhất định đối với các cường quốc phương Tây, mặc khác nó tạo
điều kiện để sử dụng Đức trong các ý đồ chống Liên Xô.
Trong bối cảnh đó, về phía mình, Liên Xô không thể ngồi yên nhìn toàn thế
giới bị chi phối bởi các cường quốc, nhất là Đức, một nước vừa "nổi lên" sau hòa
ước Locarno. Tháng 10 - 1925, Liên Xô và Đức bắt đầu ký các hiệp ước hợp tác về
kinh tế (đường sắt, hàng hải...). Song, mục tiêu lớn nhất của Liên Xô là phải đạt
một hiệp ước trung lập và không tấn công lẫn nhau với Đức. Tháng 3 - 1926, Đức
đề nghị gia nhập vào Hội Quốc Liên và do nhiều trục trặc khác nhau trong đàm
phán, Đức đã dần xích về Liên Xô. Ngày 24 - 4 - 1926, hai nước đã ký với nhau
hiệp ước về trung lập và không tấn công nhau Xô - Đức tại Berlin (Đức), khẳng
định quan hệ hai nước sẽ tuân thủ theo hiệp ước Rapallo, cam kết theo nguyên tắc


trung lập trong trường hợp bên kia bị một nhóm nước hay nước thứ ba tấn công,
nếu các bên một nhóm nước hay nước thứ ba tẩy chay, bao vây, thì bên kia sẽ
không tham gia các hoạt động chống lại bên đã ký hiệp ước. Phía Đức còn thông

báo là sẽ không bị ràng buộc bởi các quyết định của Hội để chống Liên Xô. Hiệp
ước Xô - Đức là một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Nga Xô viết khi đó. Sau đó,
Liên Xô có ký kết các hiệp ước với một loạt các nước khác nhau để khẳng định,
củng cố vị thế lúc đó.
Như vậy, sự kiện các hiệp ước Xô - Đức, Locarno, Thổ Nhĩ Kì và Đức gia
nhập Hội Quốc Liên...đã làm sáng lên những tia hy vọng về một nền hòa bình có
cơ may được xác lập ở châu Âu và trên toàn thế giới. Trong bối cảnh lòng tin vào
an ninh tập thể lên đến đỉnh cao mà tháng 4 - 1927, Ngoại trưởng Pháp Aristide
Briand đề nghị với Ngoại trưởng Mĩ Frank B. Kellogg về việc Pháp và Mỹ ký một
hiệp ước "hữu nghị vĩnh viễn, theo đó hai nước cam kết từ bỏ việc chiến tranh như
là một phương tiện chính trị quốc gia". Ngoại trưởng Mĩ đồng ý, nhưng sẽ mở
rộng hiệp ước cho nhiều nước cùng tham gia. Sau nhiều cuộc đàm phán liên
tục, ngày 27 - 8 - 1928 tại Pari đã diễn ra lễ ký kết Hiệp ước từ bỏ chiến tranh nói
chung, còn được gọi là Hiệp ước Briand - Kellogg. Hiệp ước này đã được nhiều
nước trên thế giới hưởng ứng và có tới 57 quốc gia kí kết tham gia, trong đó có
Liên Xô. Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Hiệp ước và
mong muốn Hiệp ước này sớm có hiệu lực. Một năm sau, nhằm thúc đẩy việc vận
dụng vào thực tế hiệp ước này, theo sáng kiến của Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô
Maxim Litvinov (1876 - 1951), 8 nước (Liên Xô, Rumania, Latvia...) đã cùng nhau
ký "Nghị định thư Litvinov" (9 - 2 - 1929) kêu gọi hiện thực hóa hiệp ước Briand Kellogg vào thực tiễn mà không chờ đợi cho đến khi nó được các nước khác phê
chuẩn.
Mặc dù Hiệp ước Briand - Kellogg được đánh giá là “đánh dấu đỉnh cao của
làn sóng hoà bình trong thập niên 20,” nhưng thực tế cho thấy việc đặt niềm tin vào
hiệp ước này là “một ảo tưởng nguy hiểm” bởi lẽ chỉ vài ngày sau khi kí kết hiệp
ước Briand - Kellogg, Anh và Pháp đã tiến hành kí kết ngay một thoả hiệp riêng rẽ
vấn đề vũ khí Hòa bình và an ninh tập thể trong khuôn khổ trật tự Versailles Washington, Hội Quốc Liên là rất mong manh, xa vời. Những diễn biến tiếp theo
trong quan hệ quốc tế thập niên 30 sẽ tiếp tục chứng minh điều đó.
Những toan tính riêng vì lợi ích dân tộc của các nước lớn đặc biệt là Mỹ,
Anh, Pháp đã khiến họ xa cách, và không tìm được tiếng nói chung trong việc giải
quyết các vấn đề quốc tế, đặc biệt là vấn đề Đức. Nước Đức không hề bị suy yếu

hoàn toàn sau chiến tranh, nung nấu ý định phục thù, và có điều kiện phục thù. Trật
tự Véc xai- Oasinhtơn từng bước bị xói mòn nhanh chóng.
2.2. Sự sụp đổ của trật tự Vécxai – Oasinhtơn
2.2.1. Sự hình thành các lò lửa chiến tranh


Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt
thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình
của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929, đã nhanh
chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những
hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Hàng trăm triệu người (công
nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc
biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những
năm 1929 - 1933. ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên
cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau
trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các
nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị
trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên
chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của
mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những
năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những
điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai – Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc
chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp... đã
tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế - xã hội , duy trì
nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ
thống Vécxai – Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên
30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là
Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang
giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Versailles - Washington dẫn

tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới
mới.
Lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vécxai –
Oasinhtơn bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaka đã vạch
một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức bản
“tấu thỉnh”', trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất công
mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Oasinhtơn (1921 - 1922) và đề ra kế
hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới. Sau hai
lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc), ngày 18 - 9 - 1931
Nhật Bản dựng “Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng


Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc.
Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm
vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính
phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến vùng Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc
địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới.
Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền
lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh,
Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính toán
rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh
xâm lược Liên Xô. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn
điều tra V. Lytton do Hội Quốc Liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24 - 2 - 1933 Hội
Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Mãn
Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật dựng lên nhưng
mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc.
Như vậy, Hội Quốc liên đã không công khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm
lược và không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân
sự, Hội Quốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó không đem lại

kết quả nào”. Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai
tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 - 3 - 1933 Nhật Bản
tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở
Đông á do Hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu
của Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu
mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu
Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu
Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 - 1933. Có thể nói, lực lượng quân
phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp
nhận hoà ước Versailles. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính phủ Hermann
Muller - chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Weimar - và việc Heinrich
Bruning lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì chuyển biến mới
trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một
chính quyền ''mạnh'', một nền chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở
thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực
lượng thực tế có thể đáp ứng được nhu cầu đó và Adolph Hitler được coi là “người
hùng” có thể ngăn chặn được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa Bônsêvích”. Ngày


30-1-1933 Tổng thống P. Hindenburg đã cử Hitler, lãnh tụ của Đảng Quốc xã thay
Schleicher làm Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức.
Việc Hitler lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức,
mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”. Bởi
lẽ, “đối mặt với Hitler, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp và chủ
nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ tiếp theo”
Quốc tế cộng sản đã chỉ ra rằng "chủ nghĩa phát xít - đó là nền chuyên chính khủng
bố công khai của những phần tử phản động nhất, sôvanh nhất và đế quốc chủ nghĩa
nhất của tư bản tài chính".
Quả thật, ngay từ những năm 20, Hitler và Đảng Quốc xã đã công khai bày

tỏ tham vọng bá chủ thế giới của mình. Trong tác phẩm "Cuộc chiến đấu của tôi" tác phẩm lý luận chủ chốt của Đảng Quốc xã mà Hitler là tác giả, đã đề cập đến
"Kế hoạch lục địa", theo đó Đức dự định là sẽ chinh phục châu Âu, trong đó chủ
yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đông châu Âu, trước hết là Nga và các
vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hitler cũng không loại trừ một cuộc chiến tranh với
phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó nước Pháp được coi là
“kẻ thù truyền thống”. Hitler còn đề ra kế hoạch Âu - Á (Eurasia) và Âu - Phi
(Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Phi, châu Á và châu Mĩ.
Việc làm đầu tiên của Hitler sau khi lên nắm quyền là tái vũ trang nước Đức và
thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược.
Tháng 10 - 1933 Chính phủ Đức quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở
Genova và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 - 3 - 1935, Hitler công
khai vi phạm Hoà ước Versailles, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân, thành lập
36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 - 6 - 1935
Đức kí với Anh Hiệp định về hải quân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội
tàu nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh.
Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Vécxai và tăng cường sức mạnh quân sự
của nước Đức. Đồng thời, Hitler tìm cách bí mật thủ tiêu các chính khách phương
Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng Rumani I. Duca, Ngoại
trưởng Pháp L. Barthou, nhà vua Nam Tư Alexandre I và thủ tướng Áo E.
Dollfuss. Không dừng lại ở đó, ngày 7 - 3 - 1936 Hitler ra lệnh tái chiếm vùng
Rheinanie, công khai xé bỏ Hoà ước Versailles, Hiệp ước Locarno và tiến sát biên
giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu.
Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu


Mặc dù là nước thắng trận nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia
thế giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mở rộng ảnh
hưởng ở vùng Ban căng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chủ vùng biển
Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và xem
xét lại Hệ thống Versailles - Washington có lợi cho mình, giới cầm quyền phát xít

ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực
hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên ngoài. Thất bại trong việc ký kết
Hiệp ước tay tư (Italia - Anh - Đức - Pháp) nhằm xem xét lại đường biên giới đã
qui định ở châu Âu trong khuôn khổ Hệ thống hoà ước Vécxai tháng 6 - 1933, từ
năm 1934 Mussolini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược, thi hành đạo luật quân sự
hoá đất nước. Lúc này quan hệ giữa Italia với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về
quyền lợi ở vùng Ban căng. Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tòng quân (3 1935), Italia đã kí kết với Anh, Pháp bản Hiệp ước Stresa ngày 14 - 4 - 1935 nhằm
thiết lập liên minh chống Đức. Nhưng liên minh này đã nhanh chóng tan vỡ bằng
việc Anh kí với Đức một hiệp ước riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6 1935) và sự kiện Italia chính thức xâm lược Êtiôpia ngày 3 - 10 - 1935. Bốn ngày
sau sự kiện này, ngày 7 - 10 - 1935 Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án Italia và
thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế - tài chính. Tuy
nhiên, “lệnh trừng phạt chỉ làm Italia bực mình chứ không thực sự ngăn cản họ tiếp
tục các chiến dịch”. Những sự kiện trên đây đã khiến Mussolini rời bỏ liên minh
Anh, Pháp, xích lại gần hơn với nước Đức phát xít. Trong khi đó, sự bất lực của
Hội Quốc liên cùng với thái độ và hành động thoả hiệp của các nước Anh, Pháp,
Mỹ đã khuyến khích hành động xâm lược của phát xít Italia. Sau khi chiếm được
Êtiôpia, Italia đã ký với Đức Nghị định thư tháng 10 - 1936, đánh dấu sự hình
thành trục Beclin - Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng
cố liên minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu.
Cả hai nước đều đưa quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát
xít Franco trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939).
Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa
chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25 - 11 - 1936, Đức và Nhật đã kí kết Hiệp ước
chống Quốc tế cộng sản với những cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối
ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời
còn nhằm chống cả Anh, Pháp và Mĩ. Italia tham gia Hiệp ước này ngày 6 - 11 1937. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin - Rôma - Tôkiô chính thức hình
thành. Việc Italia rút ra khỏi Hội Quốc Liên ngày 3 - 12 - 1937 đã hoàn tất quá


trình chuẩn bị để các nước khối Trục được tự do hành động, thực hiện kế hoạch

gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ của mình.
2.2.2. Sự can thiệp yếu ớt của Hội quốc liên
Vào cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng
thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới
sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục phát xít do Đức,
Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong
khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch chiến tranh từ đầu những
năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ bắt đầu quá trình này vào những năm cuối
của thập niên 30. Hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề thị
trường và quyền lợi nhưng đều thống nhất với nhau trong mục đích chống Liên
Xô, tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Điều đó được thể
hiện trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản với chủ
nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng thế giới. Như
vậy trong quan hệ quốc tế đã diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng căng thẳng và
chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xô, Khối Trục phát xít và Khối đế quốc Anh,
Pháp, Mĩ. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã lan tràn khắp từ Âu sang Á, từ Thượng
Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha
Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình thức là
cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng phát xít
Phrancô, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế. Vấn đề
không chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban Nha. Đức và Italia đã trực
tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancô chống lại Chính phủ Cộng hoà với
mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược cho kế hoạch bành trướng
của mình ở châu Âu, châu Phi, châu á và Đại Tây Dương. Trong bối cảnh đó, các
chính phủ Anh, Pháp đã thi hành chính sách “không can thiệp” tuyên bố cấm xuất
khẩu vũ khí và vật liệu chiến tranh sang Tây Ban Nha. Ngày 9 - 9 - 1936, “Uỷ ban
về vấn đề không can thiệp” được thành lập. Mĩ không chính thức tham gia vào Uỷ
ban này nhưng trên thực tế cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha.
Trong khi không áp dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp

trực tiếp của Đức và Italia ở Tây Ban Nha, chính sách “không can thiệp” của Anh,
Pháp, Mĩ về thực chất là hành động thoả hiệp với các lực lượng phát xít chống
nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Hơn nữa, các công ti độc quyền của Anh, Pháp, Mĩ
vẫn tiếp tục có quan hệ thương mại và tài chính với lực lượng phát xít Franco.
Cuối cùng, các chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ quân phiến loạn Franco,
lực lượng đã chiếm ưu thế rõ rệt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.
Ngày 10 - 2 - 1939, hải quân Anh đã hỗ trợ cho lực lượng phiến loạn chiếm
đảo Minorca nằm trong quần đảo Balearic. Ngay sau đó, chính phủ Pháp đã gửi tối


hậu thư cho Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha với yêu cầu giao nộp Madrid và các
vùng lãnh thổ khác cho lực lượng Phrancô. Ngày 27 - 2 - 1939, Anh và Pháp đồng
thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha và tuyên bố
công nhận chính quyền Franco. Liên Xô là nước đứng về phía nước Cộng hoà Tây
Ban Nha trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Mặc dù lúc đầu Liên Xô đã tham gia
Uỷ ban về các vấn đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và
Italia đã khiến Liên Xô phải hành động. Cả đất nước Xô viết tham gia phong trào
ủng hộ nước Cộng hoà Tây Ban Nha: số tiền quyên góp đã lên tới 47 triệu rúp.
Đồng thời, Liên Xô còn tham gia trong lực lượng tình nguyện quốc tế chiến đấu
bảo vệ nước Cộng hoà đến từ 53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so sánh lực lượng
quá chênh lệch, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc với thất bại của Chính phủ
Cộng hoà. Ngày 28 - 3 - 1939, lực lượng Franco với sự hỗ trợ của quân đội Italia
đã chiếm thủ đô Madrid. Sự sụp đổ của nền Cộng hoà Tây Ban Nha cho thấy mối
đe doạ đối với nền hoà bình ở châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Hội nghị Munich (9 - 1938)
Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị chiến
tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một cường quốc
công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc quân sự. Tháng
3-1938, Đức tiến hành thôn tính áo và thông qua đạo luật sáp nhập áo vào Đức, vi
phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Versailles. Hành động ngang ngược của Hitler

đã không gặp phải trở ngại nào đáng kể từ phía các cường quốc tư bản phương
Tây. Chính phủ Anh chỉ thị không được khuyến khích Áo kháng cự, trong khi
Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt. Sau khi chiếm áo, Đức chuẩn bị thôn tính Tiệp
Khắc, một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị lục địa
châu Âu. Để thôn tính Tiệp Khắc, Hitle đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Sudete"
- vùng đất ở Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những
diễn biến phức tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng Xuyđét ra
khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu
Âu. Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp
lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của Hitler. Điều này đã gây nên
một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên
Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp Khắc và đưa ra những
biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng tham mưu Liên Xô, Pháp và
Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung quân ở biên giới phía Tây và đặt quân
đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc Liên thảo
luận những biện pháp để bảo vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị
các chính phủ Anh, Pháp gạt bỏ.
Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức
và Italia đã tham dự Hội nghị Munich (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc.
Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến để nghe kết


quả. Hiệp ước Munich qui định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Sudete (trong
vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng lãnh thổ đã
được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp,
chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Muyních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi
khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với nhiều công trình quân sự quan trọng. Để đổi
lại, Hítle đã kí với Anh bản Tuyên bố không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh.
Sau đó, ngày 6 - 12 - 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí
kết tại Pari. Hiệp ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các

cường quốc tư bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc
chiến tranh với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô.
“Chính sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản
thân hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp đầu hàng của các nước này chỉ càng làm
cho nước Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh. Ngày
15 - 3 - 1939, Hítle công khai xé bỏ Hiệp ước Muyních chiếm đóng toàn bộ lãnh
thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21 - 3 Hítle đưa ra yêu sách đòi Ba Lan phải
trao thành phố cảng Đăng dích cho Đức. Một ngày sau quân đội Đức tràn vào
chiếm vùng lãnh thổ Mêmen của Litva. Đồ ng thời, kế hoạch xâm lược Ba Lan
cũng được chuẩn bị ráo riết.
Trong lúc này phát xít Italia cũng tăng cường hành động. Tháng 4 - 1939
Mussolini cho quân xâm lược Anbani. Liên minh phát xít Đức - Italia được mở
rộng tới mức tối đa với việc kí kết hiệp ước mới Đức - Italia (thường được gọi là
Hiệp ước Thép) theo đó nếu một bên có chiến tranh với một nước hoặc một nhóm
nước khác thì bên kia sẽ tiến hành giúp đỡ ngay lập tức bằng các lực lượng hải, lục
và không quân. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới chỉ còn là gang tấc, tuy nhiên
các cường quốc phương Tây vẫn tìm mọi cách để hướng cuộc chiến tranh về phía
Liên Xô.
Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai chính
thức bắt đầu.
Những diễn biến trong quan hệ quốc tế trong những năm 1929-1939 là sự
tiếp tục của những xa cách giữa các nước lớn trong vấn vấn đề an ninh tập thể và
giải trừ quân bị. Chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế 1929-1933 khiến Mỹ,
Anh, Pháp cần quan tâm nhiều hơn đến việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội
trong nước (riêng nước Mỹ, họ còn thực hiện chính sách biệt lập, không can thiệp
các vấn đề ngoài châu Mỹ). Họ mất dần khả năng kiểm soát nhiều khu vực trên thế
giới. Mặc dù là những quốc gia đứng đầu Hội quốc liên, nhưng vì sức mạnh kinh tế
suy giảm, họ không thể đưa ra được các biện pháp trừng phạt hữu hiệu, dù là quân
sự hay kinh tế, có nguy cơ khiến họ lún sâu hơn vào vũng lầy khủng hoảng. Đây là



điều kiện vô cùng thuận lợi cho Đức, Ý, Nhật vươn lên và dần xóa bỏ các rào cản
chính trị, quân sự theo khuôn khổ trật tự Vécxai – Oasinhtơn. Các nước phát xít
còn có điều kiện tự do hành động nhờ sự dung dưỡng bởi sự cho qua, thờ ơ của các
nước lớn: Mỹ thi hành chính sách biệt lập; Anh, Pháp nhân nhượng hết từ lần này
đến lần khác, đỉnh cao của sự nhân nhượng trong Hội nghị Muynich. Những toan
tính của Mỹ, Anh, Pháp hướng đến mong muốn các nước phát xít sẽ chĩa mũi dao
tiêu diệt Liên Xô – kẻ thù chung của thế giới tư bản. Nhưng không, Đức, Ý, Nhật
được đà lấn tới và dần xóa bỏ hoàn toàn các cam kết ở Véc xai và Oasinhtơn trong
những năm 30 của thế kỷ XX. Những cam kết này thực sự vô nghĩa khi chiến tranh
bùng nổ. Sự kiện 1-9-1939 vừa là sự bắt đầu cho một cuộc chiến tranh thế giới mới
- Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), vừa là mốc đánh dấu sự sụp đổ hoàn
toàn của trật tự Vécxai – Oasinhtơn sau 20 năm tồn tại.
*
*
*
Từ những sự kiện đã nêu ở trên, có thể đi đến một số nhận xét sau:
- Trật tự Véc xai – Oasinhtơn là trật tự được hình thành trên cơ sở hệ thống
hòa ước Vécxai và hệ thống các hiệp ước Oasinhtơn, phù hợp với tương quan lực
lượng giữa các nước đế quốc sau chiến tranh thế giới thứ nhất, song cũng ẩn chứa
nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết.
+ Đây là trật tự của các nước đế quốc thắng trận, chà đạp lên quyền dân tộc
của cả những nước thắng trận và các nước thuộc địa. Nước Đức bị kiệt quệ, lại
phải chịu những điều khoản nghiệt ngã trong hòa ước Vécxai (mất lãnh thổ, mất
dân, mất thuộc địa, chiến phí nặng nề), nên họ luôn nung nấu ý định phục thù.
+ Trong trật tự Vécxai – Oasinhtơn, các nước đế quốc chi phối chủ yếu là
Mỹ, Anh, Pháp. Cơ quan quyền lực quốc tế là Hội quốc liên song vai trò mờ nhạt,
và yếu kém trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Lý do quan trọng là sự
mâu thuẫn, nghi kỵ giữa các nước đế quốc thắng trận, đặc biệt là giữa Mỹ, Anh,
Pháp. (Biểu hiện rõ nhất là nguy cơ đổ vỡ của hội nghị Véc xai, việc giải quyết vấn

đề bồi hoàn chiến phí của Đức, việc xử lý các xung đột khu vực do các nước đế
quốc phát xít gây ra…).
+ Liên Xô không có vị thế quốc thế trong trật tự Vécxai - Oasinhtơn.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm sâu sắc thêm những mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc (ý chí phục thù của Đức, khát vọng thuộc địa của Ý
và Nhật, tham vọng duy trì trật tự Vécxai – Oasinhtơn đang có lợi cho mình), dẫn


tới việc lên cầm quyền của các thế lực phát xít ở Đức, Italia và Nhật Bản. Chủ
nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên, được sự dung dưỡng từ các nước Mỹ, Anh, Pháp
ngày càng lớn mạnh, là kẻ đã xé tan các hòa ước, đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn của
trật tự Vécxai – Oasinhtơn, và cũng là tội phạm đã châm ngòi Chiến tranh thế giới
thứ hai.
- Từ đó, ta có thể nhận định, việc không giải quyết được, thậm chí làm sâu
sắc hơn các mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong trật tự Vécxai – Oasinhtơn
chính là nguyên nhân xâu xa của chiến tranh; còn khủng hoảng kinh tế thế giới
1929-1939 là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai.
Như vậy, thế giới chỉ được hít thở trong bầu trời hòa bình trong 20 năm ngắn
ngủi (1919-1939). Trật tự Vécxai – Oasinhtơn thực chất chỉ là “cuộc hưu chiến
trong 20 năm”. Thế giới lại phải chuẩn bị đương đầu với một cuộc chiến tranh thế
giới mới tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại – Chiến tranh thế giới thứ hai (19391945). Đây sẽ mãi là bài học đắt giá cho toàn nhân loại yêu chuộng hòa bình, đừng
để tương lai chúng ta “bên miệng hố chiến tranh” lần nào nữa.



×