Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

ĐỀ tài lựa CHỌN vấn đề dạy và PHƯƠNG PHÁP ôn tập CHO học SINH GIỎI QUỐC GIA KHI GIẢNG dạy CHUYÊN đề QUAN hệ QUỐC tế GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.49 KB, 30 trang )

LỰA CHỌN VẤN ĐỀ DẠY VÀ PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA KHI GIẢNG DẠY
CHUYÊN ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919-1939).
Gv. Trương Thị Xuân
Trường THPT Chuyên Lê QuItalia Đôn-Quảng Trị

MỞ ĐẦU
Bất kì một trường học nào, trong công tác dạy và học luôn quan tâm tới chất lượng giáo dục mũi nhọn và chất lượng giáo dục đại
trà.
Trong đó, ở các trường phổ thông , chất lượng giáo dục mũi nhọn được thể hiện chủ yếu qua các kì thi học sinh giỏi cấp huyện,
cấp tỉnh; riêng trường chuyên và năng khiếu việc đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn tập trung ở kết quả thi học sinh giỏi quốc gia.
Vì thế bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia luôn là nhiệm vụ trọng tâm của trường.
Tuy nhiên, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử hết sức gian nan, vất vả, nhất là khi học sinh đang còn tình trạng thờ ơ
với môn sử, chất lượng học sinh chuyên sử thường thấp hơn các chuyên khác do đó nguồn tuyển chọn học sinh giỏi cho đội tuyển dự
thi quốc gia còn hạn chế; không những thế nguồn tài liệu phục vụ dạy học của giáo viên còn chưa thống nhất và đầy đủ. Cho nên, việc
tổ chức các buổi hội thảo để cùng nhau xây dựng, trao đổi kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia là điều hết sức cần thiết.
Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới là một chuyên đề lịch sử tương đối khó bởi nó mang tính khái quát và lí luận
cao. Toàn bộ kiến thức của chuyên đê nằm rải rác ở một số bài trong sách lịch sử lớp 11 chứ không hề tập hợp thành một chuyên đề
chung có sẵn cho nên giáo viên phải tự mình tập hợp các tài liệu thành một chuyên đề riêng. Tuy nhiên, đây là một trong những vấn đề
quan trọng của lịch sử thế giới trong các kì thi học sinh giỏi các cấp và quốc gia, bởi quan hệ quốc tế là hệ quả của chính sách đối nội,
đối ngoại của các nước lớn trên thế giới.
Vì vậy, thông qua chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”, chúng tôi hi vọng có thể góp
một chút công sức cùng các đồng nghiệp hoàn thiện tài liệu ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia trong lĩnh vực này.
Chuyên đề của chúng tôi được xây dựng gồm hai phần.
Phần I: Một số vấn đề chuyên sâu trong lịch sử quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1919-1939).


I. Nội dung cơ bản của chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939).
II. Một số vấn đề chuyên sâu trong chuyên đề quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939).
Phần II. Phương pháp ôn tập chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”.
1. Một số vấn đề chung
2. Một số phương pháp ôn tập cho học sinh


a. Thảo luận, trao đổi vấn đề.
b. Xây dựng hệ thống bài tập, câu hỏi.
c. Rèn luyện kĩ năng làm bài

NỘI DUNG
Phần I: Một số vấn đề chuyên sâu trong quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1919-1939).
Nội dung cơ bản của quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1919-1939).
I. Nội dung cơ bản của chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”.
1. Quan hệ quốc tế giai đoạn 1919-1929
Nội dung quan hệ quốc tế trong giai đoạn này xoay quanh việc thành lập trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ nhất và
quan hệ quốc tế giữa các nước mà trật tự này mang lại.
1.1. Hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn


Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đã họp hội nghị hoà bình ở Vécxai (ngoại ô thủ đô Pari
của Pháp) để phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới sau chiến tranh. Hội nghị khai mạc ngày 18/1/1919 và
kéo dài suốt năm sau. Hội nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển to lớn.
Tham dự hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là 3 cường quốc Mĩ,
Anh, Pháp. Các cường quốc thắng trận đều có những Italia đồ và tham vọng hết sức khác nhau trong việc phân chia, thiết lập một trật tự
thế giới sau chiến tranh, do đó hội nghị Vecxai đã diễn ra hết sức gay go quyết liệt. Sau 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi bất đồng,
cuối cùng các cường quốc thắng trận đã cố gắng tìm cách thoả hiệp với nhau và các văn kiện của Hội nghị Vecxai trước sau đều được
kí kết.
*Hội quốc liên
Hội quốc liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ Uynxơn. Quy ước thành lập Hội quốc liên nêu rằng mục đích
thành lập tổ chức này là nhằm: phát triển sự hợp tác, đảm bảo hoà bình và an ninh cho các dân tộc và để thực hiện mục đích đó người ta
đã đề ra một số nguyên tắc như không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo
lí, phải thi hành những cam kết quốc tế …. Như vậy, Hội quốc liên được thành lập trước hết nhằm giữ gìn trật tự của thế giới tư bản
chủ nghĩa do các đế quốc chiến thắng sắp xếp lại trong Hội nghị Vecxai, là kết quả của sự dung hoà các mâu thuẫn trong phe đế quốc
chủ nghĩa về việc phân chia lại thế giới sau chiến tranh. Tóm lại Hội Quốc liên chỉ tồn tại về mặt hình thức còn hiệu quả hoạt động của
nó rất hạn chế. Thành phần tham gia Hội quốc liên bao gồm các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1919) và

những đồng minh của họ. Mặc dù đây là sáng kiến của Mỹ nhưng Mỹ từ chối tham gia vào Hội quốc liên vì không đạt được mục đích
của mình trong hội nghị Vécxai.
*Hoà ước Vécxai với Đức.


Đức là nước lớn nhất trong phe Liên minh, thủ phạm chính gây ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất nên hoà ước kí kết với Đức có
vai trò đặc biệt quan trọng. Theo Hoà ước Vécxai về Đức, Hoà ước này xác định sự thất bại của Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất,
gồm các điều khoản chủ yếu về lãnh thổ, về đảm bảo an ninh và bồi thường chiến tranh. Theo Hoà ước Vecxai, nước Đức mất 1/8 đất
đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Đây là
những thiệt hại quá sức chịu đựng của nước Đức.
*Những hoà ước khác:
Ngoài hoà ước Vecxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt được kí kết với các nước Đồng minh của Đức trong 2 năm
1919 – 1920 như hoà ước kí với Áo, Bungari, Hunggari và với Thổ Nhĩ Kì. Nội dung chung của các hoà ước đó là các nước Đồng minh
của Đức phải bồi thường chiến phí, bị tước bỏ thuộc địa và phải bồi thường một phần lãnh thổ hoặc chia cắt quốc gia. Kết quả của các
hòa ước trên đã xé nhỏ lãnh thổ và làm sụp đổ một số đế quốc châu Âu như đế quốc Áo-Hung, Thổ Nhĩ Kì.
Hội nghị Vecxai kết thúc, hệ thống hoà ước Vecxai được kí kết nhưng cả hai phe chiến thắng lẫn chiến bại đều không thoả
mãn, đặc biệt là Mĩ. Mĩ không công nhận sự phân chia thế giới mới được quy định trong hệ thống hoà ước Vecxai và Mĩ muốn mở một
hội nghị riêng rẽ để quy định lại các điều khoản theo hướng có lợi cho mình. Tháng 11/1921, Mĩ mời 8 nước là Anh, Pháp, Italia, Bỉ,
Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc họp hội nghị ở Oasinhtơn.
Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ. Trước áp lực của Mĩ, Nhật phải từ bỏ một phần ưu thế khá lớn đã giành được
trong chiến tranh thế giới thứ nhất ở Trung Quốc. Anh phải nhượng bộ Mĩ, nhận quyền bình đẳng về hải quân và huỷ bỏ Liên minh
Anh Nhật ( nhằm chống lại Mĩ). Như thế Mĩ nắm được thị trường Viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân của mình lên
hàng đầu thế giới trước sự lùi bước tạm thời của các đế quốc khác nhất là Nhật.


Như vậy, trong những năm 1919 – 1922, trên cơ sở của hiệp ước Vecxai và hoà ước Oasinhtơn, đã hình thành nên một trật
tự thế giới mới theo những điều khoản của hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn.
1.2. Sự phát triển của các nước tư bản chủ nghĩa trong những năm 1919 – 1929.
Trong mười năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai thời kì:
Thời kì thứ nhất (1919 – 1923): Là thời kì khủng hoảng về kinh tế, bất ổn về chính trị. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, do

hậu quả của chiến tranh tất cả các nước tư bản dù là thắng trận hay bại trận ( trừ Mĩ) đều lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, và bất
ổn về chính trị do phong trào công nhân trong nước và phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa dâng cao. Tuy nhiên cuối cùng
chính quyền các nước tư bản cũng giải quyết được khủng hoảng về kinh tế, đàn áp phong trào cách mạng để đưa đất nước phát triển ổn
định trong giai đoạn sau.
Thời kì (1924-1929): Là thời kì các nước tư bản bước vào thời kì ổn định về chính trị và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế.
Tuy nhiên sự phát triển kinh tế diễn ra không đồng đều giữa các nước tư bản.

2. Quan hệ quốc tế giai đoạn 1929 – 1939.
Nội dung lớn của quan hệ quốc tế giai đoạn này là việc phát triển những mối quan hệ, những mâu thuẫn dẫn đến việc hình thành
hai khối đế quốc đối lập và sau cùng là dẫn đến việc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo
tưởng về một kỉ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn
bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, đặt chủ nghĩa tư bản trước ngưỡng cửa của


sự suy vong nếu không có những điều chỉnh hợp lí. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vốn đã tồn tại trước đó nay trở nên cực kì
gay gắt.
Trong bối cảnh đó, đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển để giải
quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng giữa các nước TBCN dẫn đến sự hình thành 2 khối đế quốc đối lập: một bên là khối phát xít Đức,
ITALIA, Nhật với một bên là khối các nước tư bản dân chủ Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã đe dọa phá vỡ hệ
thống hòa ước Vecxai-Oasinhtơn, dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới
mới.
2.1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và phe trục
a. Lò lửa chiến tranh ở Nhật.
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vécxai bằng sức mạnh quân sự bắt đầu bằng việc xâm lược
Trung Quốc. Năm 1931, Nhật Bản tấn công vùng Đông Bắc Trung Quốc biến vùng này thành thuộc địa và lập ra nhà nước “Mãn Châu
độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu. Sau đó, Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc. Để có thể tự do hành
động, tháng 3/1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông Á do hiệp ước
Oasinhtơn năm 1922 quy định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của hệ thống Vécxai-Oasintơn. Từ năm 1937, Nhật Bản bắt đầu mở rộng
chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.

b. Lò lửa chiến tranh ở Đức.
Do nước Đức bị thiệt hại quá nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hơn nữa hòa ước Vécxai đặt nước Đức vào
“cảnh nô dịch chưa từng nghe, chưa từng thấy” (V.I.Lê-nin) nên giới cầm quyền Đức đã sớm nuôi chí phục thù. Để thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và để thực hiện Italia đồ phục thù, Đức đã phát xít hóa bộ máy nhà nước. Tháng 1/1933, Hit-le lãnh tụ


của Đảng Quốc gia Xã hội Đức nên nắm quyền tổng thống đã mở ra thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức. Về đối nội, Hit-le đã tiến
hành thủ tiêu nền dân chủ trong nước, đặt Đảng cộng sản Đức ra ngoài vòng pháp luật, xây dựng một nước Đức theo đường lối quân sự
hoá để chuẩn bị chiến tranh xâm lược, biến nước Đức thành một trại lính khổng lồ. Về đối ngoại Hit-le, thực hiện chính sách xâm lược
đối với tất cả các nước nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ toàn cầu. Để tự do hành động, năm 1933, Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên.
Tháng 5/1935, Hit-le công khai vi phạm hoà ước Vec-xai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân thành lập 36 sư đoàn. Không dừng lại
ở đó, tháng 3/1936, Hít-le ra lệnh tái chiếm vùng Rênani, công khai xoá bỏ hoà ước Vec-xai, tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến
tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện tại châu Âu.
c. Lò lửa chiến tranh ở Italia.
Mặc dù là nước thắng trận trong thế chiến thứ nhất, nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia thế giới theo hệ
thống Hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Tháng 10/1922, Mutxôlini thủ lĩnh Đảng phát xít ITALIA lên nắm quyền thủ tướng, đưa lịch sử
nước Italia bước vào thời kì đen tối. Sau khi nắm chính quyền, Mutxôlini tiến hành thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ trong nước,
chống lại Đảng cộng sản. Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giới cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân
sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên ngoài. Tháng 10/1935, Italia
chính thức tiến hành chiến tranh xâm lược Êtôpia, năm 1936 tiến hành can thiệp chống nước cộng hoà Tây Ban Nha. Để được tự do
hành động, tháng 12/1937, Italia tuyên bố rút khỏi hội Quốc Liên. Lò lửa chiến tranh thứ hai đã hình thành ở châu Âu.
d. Sự hình thành khối trục phát xít Đức – Italia - Nhật (11/1937)
Để tăng thêm sức mạnh, ba nước Đức, Ialia, Nhật đã quyết định xích lại gần nhau. Tháng 10/1936, Italia đã kí với
Đức bản nghị định thư đánh dấu sự hình thành trục Béclin – Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên
minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối


liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25/11/1936, Đức và Nhật kí Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản, cam kết phối hợp các
hoạt động chính trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh,
Pháp, Mĩ. Ngày 6/11/1937, ITALIA tham gia hiệp ước này. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin-Rôma-Tôkiô chính thức hình

thành.
2.2 Thái độ của Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ đối với phe phát xít.
Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XIX, quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu
thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là khối Trục phát xít do Đức,
ITALIA, Nhật cầm đầu; hai là khối đế quốc dân chủ do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục ráo riết chuẩn bị kế hoạch chiến
tranh ngay từ đầu những năm 30, thì khối đế quốc dân chủ Anh, Pháp, Mĩ mới bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập niên
30. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
Ngay sau khi phát xít hoá bộ máy chính quyền và đặc biệt sau khi đã liên kết với nhau trong phe Trục, các nước phát
xít Đức, ITALIA, Nhật công khai tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ, phá vỡ trật tự của hoà ước Vecxai-Oasinhtơn.
Trước tình hình đó, thái độ của Lên Xô và các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ hoàn toàn khác nhau. Trong khi Liên Xô kiên quyết
chống lại những hành động xâm lược, phá hoại hoà bình thế giới của phe phát xít, kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mĩ cùng hợp tác để
thực hiện thì các nước Anh, Pháp, Mĩ lại có những hành động đi trái ngược lại với thiện chí của Liên Xô. Các nước này không muốn
hợp tác cùng Liên Xô chống phát xít mà thi hành chính sách thoả hiệp, nhượng bộ làm ngơ trước những hành động xâm lược của chủ
nghĩa phát xít để cho các nước phát xít tự do hành động với mưu đồ hướng mũi nhọn chiến tranh của phe phát xít để tiêu diệt nước Liên
Xô xã hội chủ nghĩa. Một loạt các sự kiện diễn ra nửa cuối thập niên 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ điều này.Đỉnh cao của chính sách


thỏa hiệp của Anh, Pháp được thể hiện tại Hội nghị Muy-nich. Hoạt động của phe phát xít cùng chính sách hai mặt của Anh, Pháp, Mỹ
đã làm bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai.

II. Một số vấn đề chuyên sâu trong chuyên đề “quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)”
Để có thể ôn tập cho học sinh một cách toàn diện kiến thức của chuyên đề, trong quá trình giảng dạy bồi dưỡng, chúng tôi đã kết
hợp ôn tập kiến thức theo chiều dọc và chiều ngang, bằng cách dựa vào những kiến thức cơ bản đã trang bị cho học sinh khi học tập
trên lớp theo chương trình sách giáo khoa và chuyên đề đã tổng hợp, chúng tôi thường đi sâu vào một số vấn đề, bài tập mang tính khái
quát, vận dụng kiến thức ở mức độ cao hơn, đòi hỏi học sinh phải tư duy tối đa để giải quyết. Với phương pháp ôn tập như vậy, sẽ giúp
học sinh không chỉ nắm được bề rộng mà còn nắm được chiều sâu kiến thức, đồng thời thông qua đó có thể rèn luyện và nâng cao kĩ
năng khái quát, phân tích, so sánh của học sinh; giúp học sinh không bị lúng túng trong quá trình làm bài thi.

Vấn đề 1: So sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa trật tự hai cực Ianta và trật tự Vécxai Oasinhtơn.
Trong lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến hai cuộc đại chiến thế giới. Chiến tranh thế giới thực chất là một hoạt động của các

cường quốc và đồng minh của họ nhằm xóa bỏ trật tự thế giới cũ để thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình.Vì thế sau mỗi
cuộc đại chiến thế giới, các nước thắng trận đều tiến hành phân chia thành quả thắng lợi, thiết lập lại trật tự thế giới.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với việc triệu tập hai hội nghị hòa bình ở Vécxai và Oasinhtơn, các nước thắng trận tiến hành kí
kết một loạt các hiệp ước tạo nên hệ thống hòa ước Vécxai (1919-1920) và hệ thống hòa ước Oasinhtơn (1921-1922), thông qua đó
thiết lập trật tự thế giới Vécxai-Oasinhtơn.
Đến đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc đã dẫn tới những chuyển biến căn bản trong tình hình quốc tế. Để
giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, một hội nghị quốc tế được triệu tập với sự tham gia của nguyên thủ ba quốc gia Liên Xô, Anh, Mỹ


tại Ianta. Những thỏa thuận tại hội nghị đã trở thành khuôn khổ để thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh- trật tự hai cực
Ianta.
Như vậy, trong thế kỉ XX đã xuất hiện hai trật tự thế giới với những nét tương đồng và khác biệt.
*Giống nhau:
Thứ nhất, cả hai trật tự đều được hình thành sau các cuộc đại chiến thế giới tàn khốc và đêù do các nước thắng trận thiết lập nên.
Trật tự Vécxai-Oasinhtơn được xác lập sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại của phe liên minh là Đức,
Áo-Hung, Thổ Nhĩ Kì, Bungary. Để phân chia thành quả thắng lợi và thiết lập trật tự thế giới mới sau chiến tranh, các nước thắng trận
thuộc phe Hiệp ước đã triệu tập Hội nghị hòa bình tại Vécxai (1919-1920). Hội nghị Vécxai không mang lại kết quả như Mỹ mong
muốn vì thế đến năm 1921, Mĩ đã triệu tập hội nghị Oasinhton.
Trật tự hai cực Ianta được thiết lập sau khi chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) kết thúc. Sau chiến tranh, tình hình quốc tế
có những chuyển biến lớn làm thay đổi hoàn toàn so sánh lực lượng trên phạm vi toàn thế giới. Các nước tư bản châu Âu bị suy yếu
nghiêm trọng, các nước phát xít bị tiêu diệt và kiệt quệ hoàn toàn. Trong lúc đó, Mỹ vươn lên trở thành một siêu cường khống chế thế
giới tư bản chủ nghĩa. Với tư cách là nước thắng trận Liên Xô và là một cường quốc lớn. Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh đồng
thời để thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh, các nước đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh (Liên Xô, Mỹ, Anh)
đã triệu tập hội nghị Ianta từ ngày 4 đến ngày 12-2-1945. Thực chất hội nghị Ianta là cuộc đấu tranh quyết liệt và căng thẳng để phân
chia quyền lợi và phạm vi ảnh hưởng, cân bằng quyền lực giữa những nước lớn. Việc giải quyết vấn đề các nước phát xít và khu vực
phát xít chiếm đóng, phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các nước thắng trận tại hội nghị Ianta đã tạo ra khuôn khổ một trật tự thế giới
mới. Khuôn khổ trật tự thế giới này chịu sự chi phối sâu sắc của hai siêu cường Liên Xô và Mỹ.
Thứ hai, cả hai trật tự đều đem lại quyền lợi cho các nước thắng trận và trừng trị những nước bại trận.
Trong trật tự Vécxai-Oasinhton, các nước thắng trận được rất nhiều lợi lộc, đặc biệt ba cường quốc Anh, Pháp, Mỹ giành được
nhiều ưu thế nhất . Anh chẳng những giữ vững quyền bá chủ mặt biển mà còn mở rộng hệ thống thuộc địa . Pháp và Nhật cũng giành



được khá nhiều quyền lợi , Mỹ khẳng định quyền lợi của mình ở khu vực Viễn Đông và Trung Quốc. Trong khi đó, những nước bại
trận phải chấp nhận những điều khoản hết sức khắt khe, nhất là Đức.Toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều giao cho các cường quốc
Anh, Pháp, Nhật Bản quản lItalia. Với việc kí kết hòa ước Vécxai, Đức mất 1/8 đất đai, gần ½ dân số, ¾ mỏ sắt, gần /13 mỏ than, 2/5
sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt, đồng thời, Đức phải bồi thường 132 tỉ mác. Đức bị hạn chế vũ
trang đến mức tối đa. Các thuộc địa trở thành vùng “ủy trị” của Hội Quốc Liên. Những đồng minh của Đức cũng chịu những tổn thất
hết sức nặng nề , lãnh thổ bị xé nhỏ dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Áo-Hung và đế quốc Thổ Nhĩ Kì.
Trong trật tự hai cực Ianta, việc triệu tập hội nghị và nội dung hội nghị đều do các nước thắng trận chi phối, trong đó vai trò của
ba cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh là quan trọng hơn cả. Nhìn chung các cường quốc đều khá hài lòng và đạt được những điều họ mong
muốn. Các nước thắng trận thỏa thuận, phân chia phạm vi ảnh hưởng của mình sau chiến tranh. Theo đó, ở châu Âu, Liên Xô kiểm
soát Đông Âu và đông Béc-lin, quân đội Anh, Pháp kiểm soát Tây Âu và tây Béc-lin; ở châu Á, quân đội Liên Xô kiểm soát bắc vĩ
tuyến 38 của Triều Tiên, lấy lại những vùng đất đã bị mất trong chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), còn quân đội Mỹ kiểm soát nam vĩ
tuyến 38 của Triều Tiên; phần còn lại của châu Á tiếp tục thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây; Nhật Bản
sẽ do quân đội Đồng minh chiếm đóng.
Thứ ba, cả hai trật tự đều thành lập một tổ chức quốc tế để giải quyết vấn đề hòa bình, an ninh thế giới sau chiến tranh và duy trì
trật tự đã thiết lập
Tại hội nghị Vécxai, các nước thắng trận đã thành lập Hội Quốc Liên theo sáng kiến của Mỹ, nhằm mục đích khuyến khích sự
hợp tác quốc tế, thực hiện nền hòa bình, an ninh thế giới. Với mục đích đó, người ta đề ra một số nguyên tắc như không dùng chiến
tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế. Trên danh
nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành tổ chức giám sát chính trị quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh và bảo vệ hòa bình thế giới.
Tại hội nghị Ianta, các cường quốc đã quyết định thành lập một tổ chức quốc tế thay thế cho Hội Quốc Liên, đó là Liên Hợp
Quốc. Tại Sanphranxico (Mỹ) , hội nghị đại biểu 50 nước đã thông qua Hiến chương Liên Hợp Quốc và thành lập tổ chức Liên Hợp
Quốc. Đây là tổ chức quốc tế lớn nhất giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, an ninh quốc tế, thúc đẩy việc giải quyết các


vụ tranh chấp xung đột trong khu vực, phát triển các mối quan hệ giao lưu quốc tế, chính trị, xã hội, kinh tế giữa các quốc gia thành
viên.
*Khác nhau
Khi trật tự cũ không còn phù hợp với tình hình quốc tế thì nó được thay thế bởi một trật tự thế giới mới. Trật tự hai cực Ianta ra

đời là hệ quả của quá trình dùng chiến tranh để gải quyết mâu thuẫn vốn chất chứa từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất mà trật tự Vécxai
-Oasinhton không thể điều hòa được , cho nên bên cạnh những điểm giống nhau, giữa hai trật tự vẫn còn nhiều điểm khác biệt. Cụ thể:
Thứ nhất, nếu như trật tự Vécxai -Oasinhton quyền lực chi phối hoàn toàn thuộc về các cường quốc tư bản như Anh, Pháp, Mỹ
thì trong trật tự hai cực Ianta quyền lực chi phối thuộc về hai quốc gia đại diện cho hai hệ thống chính trị- xã hội đối lập: Liên Xô với
phe xã hội chủ nghĩa và Mỹ với phe tư bản chủ nghĩa.
Ở trật tự Vécxai –Oasinhton, quyền lực chi phối của ba cường quốc Anh, Pháp, Mỹ được thể hiện rõ nét trong hội nghị Vécxai
và hội nghị Oasinhton. Trong hội nghị Vécxai (1919-1920), có năm cường quốc tham gia điều khiển là Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản,
Iatalia nhưng thực sự nắm quyền quyết định là Tổng thống Mỹ Uynxơn, thủ tướng Anh Lôi Giooc và thủ tướng Pháp Clêmăngxô. Hội
nghị có ba loại phiên họp khác nhau, quan trọng nhất là “Hội nghị tối cao”. Trật tự mới này đã đem lại lợi ích cho các nước thắng trận
nhất là Anh, Pháp. Do chưa thỏa mãn quyền lợi nên Mỹ đưa ra sáng kiến triệu tập Hội nghị Oasinhton. Với hệ thống hiệp ước
Oasinhtơn, Mỹ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự ở châu Á-Thái Bình Dương do Mỹ chi phối.
Kết hợp với hòa ước Vécxai , các hiệp ước của hội nghị Oasinhton, các nước đế quốc đã xác lập một trật tự thế giới mới trong đó ba
cường quốc Anh, Pháp, Mỹ giành được nhiều ưu thế.
Còn trong trật tự Ianta, quyền lực chi phối thuộc về hai siêu cường Liên Xô và Mỹ, thể hiện rõ nét nhất trong việc phân chia
phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á tại hội nghị Ianta. Trong trật tự hai cực Ianta, hai cường quốc đứng đầu hai cực về cơ bản đã
đạt những mục tiêu mà mình theo đuổi. Đối với Liên Xô, lúc này là thời điểm mà vị thế quốc tế của Liên Xô đạt tới đỉnh cao nhất kể từ
sau cách mạng tháng Mười Nga 1917. Liên Xô là nước duy nhất có thể tạo ra thế cân bằng với Mỹ, đồng thời là lực lượng có khả năng
đưa chủ nghĩa xã hội vượt ra phạm vi một nước, trở thành một hệ thống trên thế giới. Trong khi Mỹ ra sức câu kết, giúp đỡ các thế lực
phản động chống phá cách mạng với mưu đồ vươn lên vị trí “thống trị” thế giới thì Liên Xô trở thành thành trì của cách mạng thế giới


luôn hậu thuẫn cho phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình dân
chủ và tiến bộ xã hội làm cho lực lượng cách mạng trên thế giới ngày càng phát triển đồng thời làm suy yếu lực lượng phản cách mạng
nên các nước đế quốc không còn có thể hoàn toàn thao túng được quan hệ quốc tế. Hàng loạt nước, vùng lãnh thổ trên thế giới đã bị lôi
cuốn vào mới quan hệ giữa hai cực Xô, Mĩ.
Thứ hai, về cơ cấu tổ chức, trong trật tự Vécxai -Oasinhton thành lập tổ chức Hội quốc liên hoàn toàn phục vụ cho các nước đế
quốc thắng trận. Còn trong trật tự hai cực Ianta thành lập cơ quan duy trì hòa bình, an ninh là Liên Hợp Quốc. Nếu như Hội quốc liên bị
các nước đế quốc thắng trận chi phối, mang tính “đế quốc chủ nghĩa” thì Liên Hợp Quốc, với sự tham gia của Liên Xô (sau này có
Trung Quốc) đại diện cho phe xã hội chủ nghĩa đã làm cho tổ chức này tiến bộ hơn.
Hội quốc liên là một tổ chức chính trị có tính chất quốc tế đầu tiên, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỉ XX.

Về danh nghĩa, Hội quốc liên trở thành một tổ chức giám sát thế giới mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới. Tuy
nhiên, trên thực tế những hoạt động của hội quốc liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc thắng trận áp đặt tại hội
nghi Vécxai , Oasinhton. Với chế độ “ủy nhiệm”, Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và Thổ Nhĩ Kỳ. Các biện pháp
về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang Italia nghĩa về hình thức vì để Hội quốc liên trở thành công cụ có hiệu quả, tổ chức này
phải có Italia chí quân sự thống nhất và khả năng quân sự cần thiết. Việc hình thành chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa phát xít tự do hành
động đã cho thấy sự bất lực của Hội quốc liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội quốc liên hình thành theo sáng kiến của
Tổng thống Mỹ nhưng Mỹ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mỹ không được thực hiện trong hội nghị Vécxai . Tính
chất bất bình đẳng thể hiện rõ nét trong việc các nước chậm phát triển không có quyền tham gia giải quyết các công việc thế giới. Liên
Xô và Đức cũng không được tham gia vào tổ chức này. Đó là những nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của Hội quốc liên.
Trong khi đó, tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời trong trật tự hai cực Ianta bao gồm năm cơ quan chính là: Đại Hội đồng, Hội đồng
bảo an, Hội đồng kinh tế -xã hội, Tòa án quốc tế, Ban thư kí. Trong hơn 60 năm, Liên Hợp Quốc đã chứng tỏ vai trò quan trọng của
mình trong đời sống chính trị quốc tế. So với Hội quốc liên, Liên Hợp Quốc thể hiện rỏ tính chất toàn cầu: thành phần tham gia bao
gồm tất cả các quốc gia độc lập trên tất cả các châu lục không phân biệt đặc điểm về lịch sử, văn hóa, chế độ chính trị, trình độ kinh tế
và đặc biệt là tính toàn diện, chương trình nghị sự không chỉ tập trung vào vấn đề duy trì hòa bình, an ninh mà bao gồm các hoạt động
nhằm thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,


văn hóa, khoa học-kĩ thuật.....Với tư cách là một tổ chức đa phương toàn cầu lớn nhất, Liên Hơp Quốc trở thành diễn đàn toàn cầu duy
nhất thúc đẩy hiểu biết chung giữa các nước , là diễn đàn vừa hợp tác vừa đấu tranh, là tổ chức không thể thiếu trong đời sống chính trị
quốc tế. Với nguyên tắc cơ bản mang tính quyết định là sự nhất trí của năm nước lớn ủy viên thường trực Hội đồng bảo an (Liên Xô,
Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc) đã góp phần đảm bảo cho sự chung sống hòa bình , ngăn chặn không cho một cường quốc nào có thể
vươn lên khống chế Liên Hợp Quốc vào mục đích bá quyền của nước lớn.
Thứ ba, trật tự Vécxai -Oasinhton không giải quyết thỏa đáng các vấn đề chế độ, chính trị, lãnh thổ và bồi thường chiến tranh đối
với các nước chiến bại mà nó được thành lập bằng sự áp đặt, nô dịch của các nước thắng trận thông qua các điều khoản nặng nề. Còn
đối với trật tự Hai cực Ianta giải quyết thỏa đáng hơn các vấn đề này.
Thứ tư, trật tự Vécxai -Oasinhton (1919-1939) có thời gian tồn tại ngắn hơn trật tự hai cực Ianta (1945-1991). Cuộc đối đầu của
hai siêu cường, hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thế giới phân đôi thành hai hệ thống đối lập, dẫn đến tình trạng “chiến
tranh lạnh” căng thẳng, các nước ra sức chạy đua vũ trang, hình thành các khối liên minh quân sự-chính trị “đặt thế giới đung đưa bên
miệng hố chiến tranh”. Cuốn hút từng quốc gia từng khu vực trên thế giới vào quan hệ giữa hai cực như vậy phạm vi tác động của trật
tự hai cực Ianta rộng hơn trật tự Vécxai-Oasinhton.

Nguyên nhân tạo nên những sự khác nhau trên là do: Trật tự Vécxai -Oasinhton được hình thành khi chiến tranh thế giới thứ nhất
đã kết thúc, số phận các nước bại trận đã được định đoạt trên chiến trường; còn trật tự hai cực Ianta diễn ra khi chiến tranh thế giới thứ
hai bước vào giai đoạn kết thúc , mặt khác, sự có mặt của Liên Xô trong trật tự thế giới Ianta đã tạo nên những điểm tích cực hơn so với
trật tự Vécxai-Oasinhton, kìm hãm những tham vọng của các nước đế quốc.

Vấn đề 2: Bối cảnh ra đời và tác động của trật tự Vécxai -Oaisinhton đến quan hệ quốc tế, nguyên nhân sụp đổ.


a. Bối cảnh :
Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc, quan hệ quốc tế bước sang một thời kì mới và chịu ảnh hưởng hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp của cuộc chiến tranh.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc một cách rõ rệt. Các nước trong phe
Liên minh bị thất bại nặng nề. Các cường quốc châu Âu trong phe Hiệp ước tuy là những nước thắng trận, nhưng do chiến trường chính
diễn ra ở châu Âu nên cũng bị suy yếu, kiệt quệ và trở thành con nợ của Mỹ. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, Áo-Hung bị
sụp đổ. Trong khi đó, các cường quốc ngoài châu Âu (Mỹ, Nhật), nhờ ở xa chiến trường chính, được bao bọc bởi đại dương, không bị
chiến tranh tàn phá nên đã vươn lên nhanh chóng vượt qua các nước tư bản ở châu Âu. Chỉ riêng việc lợi dụng chiến tranh buôn bán vũ
khí đã đem lại cho tư bản Mỹ món lợi nhuận khổng lồ.
- Chiến tranh đế quốc đã đẩy mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản lên cao,làm xuất hiện thời cơ cách mạng ở một số nước, tiêu
biểu là ở nước Nga. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã
tác động lớn đến quan hệ quốc tế giữa các nước. Tạo ra một bước chuyển căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn
tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành
thách thức to lớn đối với các nước tư bản chủ nghĩa bởi cách mạng Nga đã chặt đứt khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ
nghĩa và cách mạng tháng Mười Nga cũng đã chứng minh cho các dân tộc bị áp bức, yêu chuộng hòa bình trên thế giới thấy rằng chủ
nghĩa Mác-Lê nin là một học thuyết khoa học có thể thành công trên thực tế. Từ đây trong quan hệ quốc tế của các nước lớn còn bị chi
phối bởi một yêu cầu khác là làm sao chống phá, tiêu diệt được nước Nga Xô viết.
- Để có đủ nhân lực, vật lực ném vào cuộc chiến tranh thế giới, các nước tham chiến tiến hành vơ vét, bóc lột nặng nề nhân dân
các nước thuộc địa làm cho mâu thuẫn vốn có giữa các nước thuộc địa với chính quốc ngày càng lên cao, mặt khác chiến tranh làm cho
các nước đế quốc-kẻ thù của phong trào cách mạng thế giới suy yếu; hơn nữa thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga không chỉ cổ
vũ mà còn chỉ đường cho các dân tộc khác trên thế giới đấu tranh nên sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cao trào cách mạng đã bùng nổ
và dân cao mạnh mẽ . Ở châu Âu ,cao trào cách mạng kéo dài suốt năm 1918-1923, chính quyền Xô viết đã được thiết lập tại Hungari

và một số nơi của Đức. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc bùng nổ và giành nhiều kết quả
to lớn.
b. Tác động của trật tự Vécxai -Oasinhton đến quan hệ quốc tế.


Thứ nhất, Trât tự Vécxai -Oasinhton là kết quả của hệ thống hòa ước Vécxai và hệ thống hòa ước Oasinhton, trật tự thế giới này
hoàn toàn phục vụ cho các nước thắng trận, chà đạp lên quyền lợi của các dân tộc. Các nước bại trận không những phải chịu bồi thường
những khoản chiến phí nặng nề mà lãnh thổ còn bị cắt bớt hoặc “xé nhỏ” làm tổn thương tinh thần dân tộc và gây ra những mâu thuẫn
sâu sắc giữa các nước đế quốc thắng trận với các nước đế quốc bại trận. Đây là một trong những lí do làm xuất hiện chủ nghĩa phục thù
ở Đức-gốc rễ của việc hình thành chủ nghĩa phát xít Đức.
Thứ hai, hệ thống hòa ước Vécxai -Oasinhton tạo nên mâu thuẫn giữa các cường quốc do sự phân chia quyền lợi không đồng
đều. Anh không những mở rộng hệ thống thuộc địa mà còn giành quyền bá chủ trên mặt biển về hải quân. Pháp được mở rộng lãnh thổ,
đồng thời với sự suy sụp của Đức, đã tạo điều kiện có lợi cho Pháp trong việc thay đổi so sánh lực lượng ở châu Âu. Pháp muốn “bóp
cho Đức lè lưỡi ra” nhưng vì muốn khống chế Pháp, Anh đã giúp đỡ để Mỹ “với tay” sang châu Âu,đẩy mạnh hỗ trợ giúp đỡ Đức về
mặt kinh tế. Tuy nhiên, Sau khi phục hồi kinh tế, Đức không có được thị trường tương xứng và sự phục hồi của quốc gia này trở thành
mối đe dọa cho nước Pháp. Ở châu Á-Thái Bình Dương, Italia đồ bá chủ của Nhật bị thất bại bởi thông qua hệ thống hòa ước
Oasinhton, Mỹ đã can thiệp sâu vào khu vực này. Nội bộ phe đế quốc bị phân chia thành các nước thỏa mãn và những nước không thỏa
mãn với hệ thống. Do vậy, quan hệ giữa các nước lớn ngày càng chồng chéo và mâu thuẫn ngày càng sâu sắc.
Như vậy, với sự phân chia quyền lợi không đồng đều, trật tự Vécxai -Oasinhton đã làm sâu sắc thêm quy luật phát triển không
đều của chủ nghĩa đế quốc, làm cho hòa bình được thiết lập sau thế chiến chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn, mầm móng của một
cuộc chiến tranh thế giới mới đã hình thành.
c. Nguyên nhân sụp đổ của trật tự Vécxai -Oasinhton
Trật tự Vécxai -Oasinhton không làm thỏa mãn tham vọng của nhiều nước, không giải quyết thỏa đáng việc trừng phạt các nước
bại trận nên vấn đề hòa bình, ổn định, tồn tại lâu dài trong trật tự Vécxai -Oasinhton là không thể. Đến tháng 9/1939, khi chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ, thì trật tự này sụp đổ hoàn toàn. Trật tự Vécxai -Oasinhton sụp đổ là do những nguyên nhân sau:
-Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với
ảo tưởng về một kỷ nguyên hoàng kim. Cuộc khủng hoảng bùng nổ tháng 10-1929 đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn
bộ thế giới tư bản chủ nghĩa để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội…làm suy yếu các nước đế quốc.



-Thứ hai, do việc phát triển không đồng đều giữa các nước tư bản cùng với hậu quả cuả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
(1929-1933) đã hình thành những xu hướng khác biệt trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các
nước không có hoặc có ít thuộc địa chủ trương đi theo con đường phát xít hóa, chủ trương phá vỡ trật tự Vécxai -Oasinhton, chuẩn bị
gây chiến tranh chia lại thế giới. Trong khi đó, các nước Anh, Pháp, Mỹ là những nước có nhiều quyền lợi sau chiến tranh (có vốn, thị
trường, thuộc địa) nên chủ trương tiếp tục duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, duy trì nguyên trạng trật tự do hòa ước Vécxai
-Oasinhton tạo ra. Hai xu hướng nhằm thoát khỏi cuộc đại khủng hoảng đã tạo ra hai khối đế quốc đối lập, đặt thế giới trước nguy cơ
một cuộc chiến tranh thế giới mới. Điều này cũng chứng tỏ, trật tự Vécxai -Oasinhton không đủ khả năng duy trì trật tự thế giới mà các
cường quốc đã sắp đặt trước đó.
-Thứ ba, quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp.
Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập và việc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thỏa hiệp tạm thời Vécxai
-Oasinhton. Quan hệ quốc tế giữa các nước đế quốc từ 1929-1939 với việc hình thành ba lò lửa chiến tranh (lò lủa chiến tranh ở Viễn
Đông của phát xít Nhật, 2 lò lửa chiến tranh của phát xít Đức và Italia ở châu Âu) và các hoạt động quân sự của phe phát xít đã báo
hiệu sự sụp đổ của trật tự thế giới Vécxai -Oasinhton.
-Thứ tư, Hệ thống hòa ước Vécxai -oasinhton không thể điều hòa được quyền lợi giữa các nước đế quốc, mà sau khi kí các hòa
ước thì mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã xuất hiện và ngày càng tăng. Vì trật tự thế giới hoàn toàn phục vụ quyền lợi của các nước
đế quốc thắng trận, chà đạp lên quyền lợi của các dân tộc, gây mâu thuẫn giữa các nước đế quốc. Tính chất bất bình đẳng của trật tự
này thể hiện rõ nét trong việc các nước chậm phát triển trên thực tế không có quyền tham gia các công việc của thế giới. Trật tự này
ngày càng làm sâu sắc quy luật phát triển không đồng đều của các nước đế quốc. Như vậy, ngay từ đầu trật tự Vécxai-Oasinhton đã
mang trong mình những mâu thuẫn không thể điều hòa được. Nguyên nhân sâu xa làm sụp đổ trật tự Vécxai-Oasinhton cũng đồng thời
là nguyên nhân dẫn đến việc bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), bởi chiến tranh thế giới thứ hai là sự kiện “khai tử” trật
tự này.
→Như vậy, một trật tự thế giới được hình thành là kết quả của nhiều yếu tố nhưng trong đó quyền sắp đặt và chi phối trật tự
thường phụ thuộc vào quan hệ giữa các cường quốc lớn. Vì vậy, có thể nói một trật tự thế giới luôn luôn biến động không ngừng bởi nó


phụ thuộc vào sự thay đổi vị thế của các quốc gia trên thế giới. Lực lượng nào nắm quyền chi phối trật tự thế giới sẽ có ảnh hưởng rất
lớn đến quan hệ quốc tế trong giai đoạn nó tồn tại.

Vấn đề 3: Lập bảng so sánh những điểm giống nhau (về đặc điểm kinh tế, bản chất, mưu đồ và thái độ trong quan hệ quốc
tế) và những điểm khác nhau (về quá trình xác lập chủ nghĩa phát xít, tiềm lực giữa ba nước phát xít Đức, Italia, Nhật Bản. Qua

đó, nêu bản chất của chủ nghĩa phát xít.
a. Giống nhau:
*Đặc điểm kinh tế: Nghèo tài nguyên thiên nhiên, ít thuộc địa, thị trường tiêu thụ hẹp không tương xứng với sự phát triển kinh
tế...
*Bản chất: Thực hiện nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa
nhất của tư bản tài chính.
*Mưu đồ và thái độ trong quan hệ quốc tế: Đều bất mãn với hệ thống Vécxai -Oasinhton và đều có âm mưu dùng vũ lực và chiến
tranh để phân chia lại thế giới...
b. Khác nhau:
Nội dung so sánh
Quá trình xác lập

Italia
Đức
Thay thế nền dân chủ đại Chế độ dân chủ đại nghị
nghị bằng chế độ phát xít chuyển sang chế độ chuyên
chế phát xít

Quá trình phát xít hóa
diễn ra nhanh và sớm

Quá trình phát xít hóa diễn
ra nhanh chóng

Nhật Bản
Chế độ chuyên chế Thiên
Hoàng dựa trên nền tảng
chủ nghĩa quân phiệt, do
đó quá trình phát xít hóa
diễ ra chủ yếu trong chính

sách của nhà nước.
Quá trình phát xít hóa kéo
dài về thời gian và gắn


Tiềm lực

Hạn chế, “chủ nghĩa đế
Nước lớn, có tiềm lực về
quốc của những kẻ nghèo kinh tế quân sự, có trình độ
khổ”
cao về khoa học-kĩ thuật

liền với các cuộc chiến
tranh xâm lược.
Tương đối mạnh

c. Bản chất của chủ nghĩa phát xít:
Mặc dù các nước phát xít cũng là các nước đế quốc nhưng thực chất chủ nghĩa phát xít là nền chuyên chính khủng bố công
khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. Nó thay thế chế độ dân
chủ tư sản đại nghị bằng nền thống trị độc tài tàn bạo nhất của các tập đoàn đại tư sản. Nó hoàn toàn không phải là sự vùng
dậy của giai cấp tiểu tư sản như các đảng này tuyên truyền hòng lôi kéo đông đảo thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia bị
biến thành lực lượng xung kích của chúng. Do vậy chủ nghĩa phát xít không chỉ mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà đối lập
với tất cả các lực lượng đấu tranh cho hoà bình và dân chủ, chống chiến tranh đế quốc.

Vấn đề 4: Sách lược đấu tranh của Quốc tế Cộng sản trước sự ra đời của chủ nghĩa phát xít.
*Hoàn cảnh:
-Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm xuất hiện chủ nghĩa phát xít ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Để cùng thực hiện chủ
trương gây chiến tranh, phân chia lại thị trường thế giới, các nước phát xít đã liên minh lại với nhau tạo thành phe Trục (Béclin-RômaTôkyô), khối này vừa đối đầu với khối các nước đế quốc dân chủ (đại diện là Anh, Pháp, Mỹ), vừa chống Quốc tế Cộng sản, làm xuất
hiện nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới.

-Ngay từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, phong trào chống phát xít và nguy cơ chiến
tranh lan rộng ở nhiều nước trên thế giới.
-Trong tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva từ ngày 25-7 đến ngày 25-8-1935.
*Nội dung sách lược của Quốc tế Cộng sản:


-Đại hội đã nêu rõ bản chất của chủ nghĩa phát xít là những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư
bản tài chính. Nó không chỉ mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà còn đối lập với tất cả các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và
chống chiến tranh đế quốc.
-Từ đó, Đại hội chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế
quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.
-Nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giành dân chủ và chống nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
-Về tổ chức: chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, thống nhất các lực lượng công nhân trong từng quốc gia và trên
phạm vi quốc tế, rồi mở rộng sự đoàn kết với các tầng lớp nhân dân, với tất cả các lực lượng chống chủ nghĩa phát xít.
*Ý nghĩa:
Đại hội đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh chống chủ
nghĩa phát xít-kẻ thù nguy hiểm nhất của các dân tộc và hòa bình, an ninh thế giới, phù hợp với sự thay đổi của tình hình mới.
Vấn đề 5: Thông qua quan hệ quốc tế trước khi chiến tranh thế giới bùng nổ, hãy làm rõ trách nhiệm của Anh, Pháp, Mỹ về
sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai.
-Thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là chủ nghĩa phát xít mà đại diện là ba nước : Đức, Italia, Nhật Bản nhưng các
nước Anh, Pháp, Mỹ với chính sách ngoại giao hai mặt của mình phải chịu một phần trách nhiệm về sự bùng nổ của cuộc chiến tranh
này. Bởi vì:
+Các nước này đều có chung mục đích là giữ nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa phát
xít nhưng vẫn thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, giới cầm quyền của các nước Anh, Pháp đã không liên kết chặt chẽ với Liên Xô để
chống phát xít. Trái lại, họ thực hiện chính sách nhượng bộ đổi lấy hòa bình, đẩy phát xít hướng mũi nhọn tấn công vào Liên Xô với âm
mưu làm suy yếu cả hai kẻ thù này.
+Mỹ là nước giàu mạnh nhất nhưng lại theo “chủ nghĩa biệt lập” ở Tây bán cầu, không tham gia Hội Quốc liên (mặc dù thành lập
Hội quốc liên là sáng kiến của Mỹ), chủ trương không can thiệp các sự kiện bên ngoài châu Mỹ. Thực chất đây là hành động gián tiếp
tiếp tay, tạo điều kiện cho các nước phát xít hành động.



+Đỉnh cao trong chính sách thỏa hiệp của Anh, Pháp là hội nghị Muy-nich (9-1938). Hội nghị bàn về vấn đề giữa Đức và Tiệp
Khắc nhưng Tiệp Khắc và Liên Xô lại không được mời tham dự. Mặc dù, Tiệp Khắc là đồng minh của Anh, Pháp nhưng trong hội nghị
hai nước này đã bán rẻ bạn đồng minh bằng cách kí kết một hiệp ước trao vùng Xuy đét của Tiệp Khắc cho Đức, đổi lại Đức phải cam
kết chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở châu Âu.
Như vậy, trước hành động xâm lược của phe phát xít, các nước Mỹ, Anh, Pháp đã không hợp tác với Liên Xô để chống phát xít
và nguy cơ chiến tranh, mà còn tiếp tay, dọn đường cho các nước phát xít hành động. Chính thái độ nhượng bộ của Mỹ, Anh, Pháp đã
tạo điều kiện thuận lợi để phe phát xít thực hiện mục đích gây chiến tranh của mình, góp phần làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới
thứ hai.
Vấn đề 6: Tác động của quan hệ quốc tế giai đoạn 1919-1939 tới tình hình Việt Nam.
Quan hệ quốc tế thực chất là quan hệ giữa các nước lớn tuy nhiên nó có tính toàn cầu có tác động đến phạm vi toàn thế giới, chi
phối đến sự phát triển của nhiều nước, nhất là thuộc địa của các cường quốc. Vì thế, quan hệ quốc tế giai đoạn 1919-1939 có tác động
sâu sắc đến tình hình Việt Nam. Cụ thể:
-Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), Pháp tuy là nước thắng trận nhưng do chiến trường chính tập trung ở châu Âu nên
kinh tế Pháp cũng chịu tổn thất hết sức nặng nề: 1,4 triệu người chết, thiệt hại tới 200 tỉ phrăng. Với hệ thống trật tự Vécxai -Oasinhton,
Pháp giành được nhiều lợi lộc, giữ nguyên và mở rộng hệ thống thuộc địa của mình. Điều đó đã tạo điều kiện để Pháp tiến hành cuộc
khai thác thuộc địa nhằm bù đắp thiệt hại, hàn gắn vết thương chiến tranh, đặc biệt là ở Đông Dương và châu Phi. So với cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai này ở Việt Nam có quy mô lớn, tốc độ nhanh, cường độ khai thác cao. Cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp (1919-1929) đã làm cho một phần yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa thâm nhập sâu vào nền kinh
tế Việt Nam, tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển của các giai cấp mới trong xã hội (giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản)-những lực
lượng tiên tiến của thời đại tuy nhiên kinh tế Việt Nam vẫn còn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối, què quặt, lệ thuộc Pháp.
Những chính sách của thực dân Pháp sau chiến tranh đã làm cho mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc nhất là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc với đế quốc Pháp. Đó là những cơ sở kinh tế, xã hội của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam sau chiến tranh
thế giới thứ nhất.


-Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) chính là sự kiện nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế của các nước
đế quốc. Chiến tranh kết thúc không chỉ mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế, nó còn mang lại một hệ quả mà các nước đế
quốc không mong muốn là làm phát triển phong trào cách mạng ở một số nước tiêu biểu là thắng lợi của CM tháng Mười Nga (1917)
và cao trào cách mạng trên thế giới 1918-1923 làm xuất hiện một loạt các đảng cộng sản ở các nước, trên cơ sở đó Quốc tế cộng sản

được thanh lập đã tác động mạnh mẽ tới cách mạng Việt Nam.
-Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc, các nước thắng trận triệu tập hội nghị Vécxai để phân chia thắng lợi.
Đến với hội nghị Vécxai , Tổng thống Mỹ Uyn xơn đã đề ra chương trình 14 điểm trong đó có đề cập tới việc đảm bảo quyền dân tộc tự
quyết cho các dân tộc. Nắm được tình hình hội nghị Vécxai , tháng 6-1919, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội
nghị Vécxai bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình
đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Mặc dù nội dung bản yêu sách của nhân dân An Nam phù hợp với tinh thần của chương
trình 14 điểm của Mỹ nhưng vẫn không được các nước đế quốc chấp nhận. Từ đây, Người rút ra được một luận điểm quan trọng trên
con đường đi tìm chân lí cứu nước: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào sức lực của chính mình.
-Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lê
nin. Luận cương đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con dường cách mạng vô
sản. Việc lựa chọn con đường cách mạng mới mẻ này không chỉ do sự nhạy bén trong nhãn quan chính trị mà còn do sự tác động của
thời đại, khi mà quan hệ giữa các thành phần quốc tế chồng chéo nảy sinh nhiều mâu thuẫn phát triển gay gắt: mâu thuẫn giữa các nước
đế quốc với nhau, mâu thuẫn giữa đế quốc và thuộc địa dẫn tới phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn giữa tư
sản và vô sản dẫn tới sự phát triển của phong trào công nhân và cách mạng xã hội. Sự phát triển gay gắt của những mối mâu thuẫn này
có sự “góp phần” của trật tự thế giới Vécxai -Oasinhton-trật tự thế giới chỉ mang lại lợi ích cho bộ phận cầm quyền của các nước thắng
trận và chà đạp lợi ích của các nước bại trận, nhất là tước đoạt quyền lợi của nhân dân lao động các nước.
-Năm 1929-1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề.
Để bù đắp thiệt hại do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra, các nước tư bản một mặt ra sức “tước lục” công nhân ở chính quốc , mặt khác,
tăng cường bóc lột, trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng lên đời sống nhân dân các nước thuộc địa làm cho mâu thuẫn trong quan hệ
giữa các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân phát triển gay gắt, thúc đẩy làn sóng cách mạng lên cao.
Đông Dương là một thuộc địa lớn của thực dân Pháp, nên cũng chịu tác động mạnh mẽ của cuộc đại khủng hoảng kinh tế 19291933.Thực dân Pháp tăng cường vơ vét, bó lột để bù đắp những tổn thất do cuộc khủng hoảng gây ra ở chính quốc làm cho kinh tế Việt


Nam giai đoạn này khủng hoảng trầm trọng trên mọi mặt (nông nghiệp: giá lúa gạo sụt giảm, công thương nghiệp: đình đốn, giá cả đắt
đỏ), làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân lao động trên đất nước ta hết sức khó khăn. Trong khi đó, thực dân Pháp ra sức khủng bố
phong trào yêu nước ở nước ta kể từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Tình hình kinh tế, chính trị trên làm cho mâu thuẫn dân tộc phát
triển gay gắt. Đây là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới phong trào cách mạng năm 1930-1931. Phong trào đã kiên quyết nhắm vào
hai kẻ thù chính của cách mạng là đế quốc và tay sai.
-Trong giai đoạn 1936-1939, tình hình thế giới đã tác động mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam:
+Đầu những năm 30 của thế kỉ XX, chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền ở Đức, Italia, Nhật Bản đã tiến hành chạy đua vũ trang,

chuẩn bị chiến tranh thế giới. Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đã đe dọa nền hòa bình thế giới cho nên chủ
nghĩa phát xít là bộ phận phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của bọn tư bản tài chính. Cho nên nhiệm vụ của tất cả
các dân tộc trên thế giới lúc này là chống phát xít, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh.
+Trước sự xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc, tháng 7-1935, Đại hội VII Quốc tế cộng sản xác định nhiệm vụ trước mắt của giai
cấp công nhân là chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình, thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng
cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự hội nghị. Sau khi về nước, tháng 7-1936, Ban chấp hành trung ương Đảng
họp hội nghị ở Thượng Hải (Trung Quốc) để định ra đường lối đấu tranh trong thời kì mới. Theo đó, đối tượng của cách mạng trong
giai đoạn mới không phải là thực dân Pháp nói chung mà là bọn phản động thuộc địa không thực hiện chính sách mà thực dân Pháp ban
hành; về mục tiêu đấu tranh, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” và “Cách mạng ruộng đất” thay bằng khẩu hiệu đòi
“tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”; về lực lượng, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương tập hợp rộng rãi từ quần
chúng cơ bản (công nhân, nông dân) đến tầng lớp trên (tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung và tiểu địa chủ) và cả một bộ phận người Pháp
có xu hướng chống phát xít ở Đông Dương.
+sau thắng lợi trong việc đấu tranh chống xu hướng phát xít hóa chính quyền, tháng 6-1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở
Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa, cử phái viên sang điều tra tình hình ở Đông Dương và nới
rộng một số quyền tự do, dân chủ tối thiểu. Tình hình đó mở ra khả năng đấu tranh dân chủ công khai của phong trào cách mạng nước
ta.
Những tác động trên đã tác động đến cách mạng Việt Nam, đưa ra những sách lược với nhiệm vụ, mục tiêu, khẩu hiệu, hình thức
đấu tranh, hình thức tập hợp lực lượng phù hợp với tình hình mới, làm bùng nổ phong trào dân chủ ở nước ta trong những năm 19361939.


Vấn đề 7: Nét khác biệt trong quá trình phát xít hóa ở Nhật Bản so với Đức.
-Do hoàn cảnh lịch sử để lại nên quá trình phát xít hóa bộ máy nhà nước ở Nhật Bản cũng mang những nét riêng biệt. Khác với
Đức quá trình phát xít hóa diễn ra thông qua sự chuyển đổi từ chế độ dân chủ tư sản đại nghị sang chế độ chuyên chế độc tài phát xít,
còn ở Nhật do có sẵn chế độ chuyên chế Thiên Hoàng. Tính chất quân phiệt hiếu chiến của đế quốc Nhật Bản đã có sẵn ngay từ khi
Nhật bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa do tầng lớp Samurai (vốn là bộ phận quItalia tộc võ sĩ, phục vụ các Đaimio trong việc gây
chiến tranh mở rộng lãnh địa) trong chính quyền chủ trương dùng sức mạnh quân sự để xây dựng đất nước.
-Do cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra, Nhật lại thiếu trầm trọng nguồn nguyên liệu, do vậy trong xu thế chung Nhật phải phát xít
hóa bộ máy nhà nước, phải thực hiện quân sự hóa đất nước.
-Quá trình phát xít hóa ở nước Nhật diễn ra tương đối chậm chạp và kéo dài 10 năm (1929-1939), chia làm hai gia đoạn 19291936 và 1936-1939. Còn ở Đức quá trình phát xít hóa diễn ra nhanh chóng, chỉ trong một thời gian ngắn Hít le đã lên cầm quyền do gia
cấp tư sản Đức ủng hộ Hitsle lên cầm quyền, còn những người cộng sản không được sự ủng hộ của Đảng xã hội dân chủ Đức-Đảng có

sức ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân Đức.
-Sự đấu tranh của nhân dân Nhật Bản, chống lại đường lối của bọn phát xít đồng thời chúng cũng đã bị nhân dân Trung Quốc
giáng một đòn mạnh do đó các chính phủ phát xít liên tục bị sụp đổ, chính phủ sau thay chính phủ trước phản động hơn.
-Chủ nghĩa phát xít Nhật do bọn quân phiệt thực hiện và cầm quyền nên đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt Nhật là lợi dụng rộng
rãi bộ máy cảnh sát và quân sự của chế độ quân chủ Nhật.
-Trong quá trình thiết lập chế độ quân phiệt, bọn quân phiệt không ngừng đấu tranh nội bộ lẫn nhau giữa hai tập đoàn có đường
lối xâm lược khác nhau, còn ở Đức, Hítle đã tự xây dựng cho mình một đội quân mạnh và tiến hành can thiệp vũ trang liên tiếp ra bên
ngoài.
-Giai cấp cầm quyền và các tập đoàn lũng đoạn đã dựa vào các thế lực quân phiệt để thực hiện mưu đồ của chúng, một mặt chúng
gây ra các cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài, mặt khác chúng thực hiện hàng loạt các cuộc đảo chính đẫm máu liên tiếp trong
nước, đặc biệt là sự kiện 26/2/1936-cuộc đảo chính của phái sĩ quan trẻ đã sát hại 80 chính khách, đánh dấu việc hoàn thành quá trình
phát xít hóa ở Nhật.


Vấn đề 8: Đánh giá nền hòa bình do Hội nghị Vécxai đem lại, Nguyên soái Phéc-đi-năng Phốc- nguyên tổng tư lệnh quân
đội Đồng minh châu Âu đã nói: “Đây không phải là hòa bình. Đây là một cuộc hưu chiến trong 20 năm”. Chứng minh nhận xét
đó.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc, để lập lại hòa bình và trật tự thế giới mới, các nước thắng trận đã triệu
tập hội nghị Vécxai vào ngày 18/1/1919, với sự tham dự của 27 nước, được chủ trì của Anh, Pháp, Mỹ.
-Tại hội nghị, các hòa ước đã được kí kết, tạo ra hệ thống hòa ước Vécxai , quan trọng nhất là hòa ước Vécxai được kí với Đức.
Ngoài ra, còn có các hiệp ước kí với Áo, Hung, Thổ Nhĩ Kỳ...
-Hòa bình được lặp lại mang trong lòng nó mầm móng một cuộc chiến tranh mới, vì mâu thuẫn giữa các nước thắng trận với
nhau, và mâu thuẫn giữa các nước thắng trận và những nước bại trận, nổi bật là mâu thuẫn giữa Đức và Mỹ, Anh, Pháp.
-Với hòa ước Vécxai , Đức phải chịu những tổn thất rất lớn: mất 1/8 đất đai, trong đó trả Andat, Loren cho Pháp, cắt đất cho Ba
Lan, Bỉ, Đan Mạch....bồi thường chiến phí chiến tranh nặng nề... Hòa ước Vécxai đẩy nước Đức vào “cảnh nô lệ mà người ta chưa
từng nghe, chưa từng thấy” (Lê-nin). Các thế lực quân phiệt là gia cấp tư sản Đức coi hòa ước Vécxai là một “quốc sĩ”, một hòa nước
Vécxai “nhục nhã”, cần phải phục thù. Như vậy mầm móng một cuộc chiến tranh mới vẫn còn tồn tại.
-Nhật Bản, Italia là hai nước thắng trận nhưng cũng bất mãn với hệ thống Vécxai . Những tham vọng của Nhật ở Viễn Đông, ở
Trung Quốc; tham vọng của Italia ở Địa Trung Hải, ở bán đảo Ban-căng không được thỏa mãn nên để xóa bỏ hòa ước Vécxai các nước
này đã nhanh chóng đi vào con đường phát xít hóa, gây chiến tranh chia lịa thế giới.

-Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3/9, Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Như vậy, từ năm 1919, nền hòa bình được lặp lại nhưng thực chất đó là thời kì hưu chiến, đủ để các nước Đức-Italia-Nhật chuẩn
bị lực lượng, thực hiện mưu đồ gây chiến tranh chia lại thế giới, phá bỏ hệ thống Vécxai -Oasinhton mà ngay từ khi mới thành lập các
nước này đã bất mãn.
Phần II: Phương pháp ôn tập chuyên đề “Lịch sử quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939)” cho học
sinh giỏi quốc gia.
1. Một số vấn đề chung khi tiến hành tổ chức ôn tập chuyên đề “Lịch sử quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế
giới (1919-1939)” cho học sinh giỏi quốc gia.


×