Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Xử lý đất không có nền để phục vụ xây dựng và đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.82 KB, 41 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
VỊ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NG

fầ

Muc lục

VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Lòi mở đầu
1. Tổng quan về đất yếu
1.1.
Khái niệm
1.2. XỬ
Nguyên
nhân
MÔN
LÝ Ô NHIỄM
& THOÁI HÓA MỒI TRƯỜNG ĐÁT
1.3. Cách phân biệt nền đất yếu
1.4. Các loại nền đất yếu thuờng gặp
1.5. Ảnh huởng của đất yếu đến xây dựng
2. Các vấn đề khi xây dựng công trình trên nền đất yếu
2.1. Các vấn dê đặt ra với nền đất yếu
2.2. Tiêu chuẩn thiết kế nền đất yếu
3. Các biện pháp xử lý đất nền yếu
3.1. Các biện pháp xử lý về kết cấu công trình
BÁO Các
CÁObiện
CHUYÊN


3.2.
pháp xử ĐÈ
lý về móng
3.3. Các biện pháp xử lý nền
3.3.1. Phương pháp thay nền
3.3.2. Các phương pháp cơ học
4. Các biện pháp xử lý nền hay dùng
4.1. Phương pháp xử lý nền bằng đệm cát
4.2. Phương pháp đầm chặt lớp đất mặt ( cổ kết đóng)
4.3. Bệ phản áp
4.4. Phương pháp gia tải nén trước
4.5. Gia tải trước với thoát nước thẳng đứng
4.6. Phương pháp xử lý nền đất yếu bằng bấc thấm
4.7. Gia cường nền đất yếu bằng cọc
tiết diện
nhỏ
GVHD
: GS.TSKH
Lê Huy
4.8. Cọc tre và cọc tràm
4.9. Phương pháp xừ lý nền đất yếuBá
bằng cọc cát
4.10. Phương pháp xử lý nền bằng cọc vôi và cọc xi măng - đất
SVTH
VõlýMinh
Khải
5. Các công trình có nền móng yếu đã
được:xử
ở Việt
Nam

6. Các phương pháp xử lý nền đất yếu
MSSV : 07706231
6.1. Giải pháp xử lý đất yếu bằng đất trộn xi măng
: DHMT3A
6.2. Giải pháp đê lấn biến trên nền Lớp
đất yếu
không xử lý nhằm phục vụ du lịch

và xây dựng đô thị

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 4 năm 2010



Lòi mở đâu
Những thành phố ở Việt Nam như Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh đều nằm
trên lưu vực đồng bằng sông Hồng và sông Mê Kông. Đây là khu vực có tầng đất phù sa
khá dày và tập trung đất sét yếu. Với mục tiêu nhằm xây dụng và đô thị, rất cần thiết lựa
chọn các giải pháp và công nghệ xử lý nền thích hợp cho điều kiện ở Việt Nam. Đặc tính
của đất yếu cần phải được cải thiện đế phục vụ các yêu cầu thực tế trong quá trình xây
dựng và sử dụng công trình. Đất yếu cũng như đất không có nền thường có độ ấm cao

sức kháng cắt không thoát nước thấp. Đất thuộc dạng cố kết bình thường và có khả năng
thấm nước thấp. Mực nước ngầm trong nền đất thường nằm gần bề mặt, cách tù’ 0,5 đến
2,5m. Một số trường hợp đất yếu có hàm lượng hữu cơ cao và có cả lớp than bùn. Đối
với
một vài loại đất, do lún thứ cấp chiếm từ 10-25% độ lún tống cộng. Trong một số khu
vục của các thành phố, mặt cắt địa kỹ thuật cho thấy nền đất bao gồm các lớp đất với độ
chặt, độ cứng, độ thấm và chiều dày khác nhau. Nói chung đất sét yếu là loại đất có sức
chịu tải thấp và tính nén lún cao. Nen móng của các công trình xây dựng nhà ở, đường

sá,
đê điều, đập chắn nước và một số công trình khác trên nền đất yếu thường đặt ra hàng
loạt các vấn đề phải giải quyết như sức chịu tải của nền thấp, độ lún lớn và độ ốn định
của cả diện tích lớn. Nhiều thành phố và thị trấn quan trọng được hình thành và phát
triển
trên nền đất yếu với những điều kiện hết sức phức tạp của đất nền, dọc theo các dòng
sông và bờ biển. Thực tế này đã đòi hỏi phải hình thành và phát triển các công nghệ


1. TONG QUAN VE DAT
YEU

1.1 Khái niệm
Nen đất là đất yếu nếu ỏ' trạng thái tụ’ nhiên, độ ấm của chúng gần bằng hoặc cao
hơn giới hạn chảy, hệ sổ rỗng lớn, lực dính c theo cắt quả cắt nhanh không thoát nuớc từ
0. 15 daN/cm2 trở xuống, góc nội ma sát tù' 0° đến 10° hoặc lực dính tù' kết quả cắt

cánh
hiện trường Cu < 0.35daN/cm2. Có thể định nghĩa nền đất yếu theo sức kháng
cắt

không

thoát nước, Su, và trị số xuyên tiêu chuẩn, N, như sau:
Đất rất yếu: Su < 12.5 kPa hoặc N
<2
Đất yếu: su < 25 kPa hoặc N < 4
Đất yếu là một trong những đối tượng nghiên cứu và xử lý rất phức tạp, đòi
hỏi
công tác khảo sát, điều tra, nghiên cứu, phân tích và tính toán rất công phu. Đe

xử
lý đất yếu đạt hiệu quả cao cũng phải có yếu tố tay nghề thiết kế và bề dày kinh
nghiệm xử lý của tư vấn trong việc lựa chọn giải pháp hợp lý
1.2 . Nguyên nhân
Đất yếu có thế qui về ba nhóm chính.


Hàm

lượng

nưóc
tự
Độ rỗng tự nhiên
nhiên (%)

Cường

độ

chịu

cắt

(Kpa)
Chi tiêu
>Giá
35 trị
vàchỉ
giới hạn lỏng

Cách phân
biệt
yếu ởđổi
trong
nước
nước
ngoài
cácvài
tiêu
Hoặc
donền
yếuđất
tố thay
về kết
cấucũng
chịunhư
lựcởcủa
vùng
nhuđều
sậpcó
một
mỏchuẩn
khai
tiêu
cụ
thác đá ở Việt nam trong những năm gần đây có thể tính một phần là do yếu tố
Chỉ tiêu
Góc
nội
ma

Hàm
Độ
lượng
rỗng
tự
thể để phân
yếu hợp đất sét tạo gối nước trong lòng đất, công trình đặt lên
này. loại
Cũngnền
cóđất
trường
sát (°) (chịu
nưóc
tự nhiên
làm nền đất biến dạng từ từ, hoặc khoan coc mỏng tại vùng địa chất bên cạnh,
a)nhiên
Theo
nguyên nhân hình thành: loại đất yếu có nguồn cắt
gốcnhanh)
khoáng vật hoặc nguồn
(%)
dẫn
gốc
Loại đất
tới nứt ra những khe ngang làm nuớc thoát đi, độ lún biến đổi đột ngột, một số
hữu cơ.
nhà cao tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh có thể tính một phần là vì lí do này mà
- Loại lún
có nguồn
sập. gốc khoáng vật: thường là sét hoặc á sét trầm tích trong nước ở ven

biến,2.vùng
đầm
thung lũng.
- Yeuvịnh,
do độ
âm.hồ,
Nguyên
nhân này thường gặp ở đất cát và đất sét, nước trong đất
Đất sét

Đất á sét
(Đất bột)

tồn tại dưới hai dạng chủ yếu là tự do và liên kết. Đây là các tác nhân chính gây

- Loại có nguồn A
gốc hữu
r co
r : hình thành từ đầm lầy, nơi nước tích đọng thường xuyên,

ra hiện tượng đàn hồi thủy lực và tính nén của đất. Các nhân tố này gây ra sự
mực nước ngầm cao, tại đây các loại thực vật phát triển, thối rữa phân huỷ tạo ra các vật
-khó
Đấtlẫn
sétvới
mềm:
loại vật.
đất sét hoặc á sét tưong đối chặt, ở trạng thái bão
lắng hữu


trầmgồm
tích các
khoáng
hòa khăn lớn trong thi công, cản trở việc lắp đặt và sử dụng thiết bị gia cổ. Hiện
b) Phân
biệt theo chỉ tiêu cơ lý (trạng thái tự nhiên): Thông thường phân biệt theo
tượng
nước,
có cường độ thấp;
trạng này phổ biến ở các vùng đồng bằng ven sông, ven biển, các vùng rừng lâu năm
- Bùn: Các loại đất tạo thành trong môi trường nước, thành phần hạt rất mịn
thái tự’ và
nhiên và tính chất cơ lý của chúng như hàm lượng nước tự’ nhiên, tỷ lệ lồ rỗng,
(<200pm) ở trạng thái luôn no nước, hệ số rỗng rất lớn, rất yếu về mặt chịu lực;
hệ
yếu tốbùn:
chính
công
trinh thigốc
công
-là Than
Làđối
loạivới
đấtcác
yếu
có nguồn
hữutrên
cơ,biến.
được hình thành do kết quả
d) Một số chỉ tiêu phân biệt loại đất mềm yếu:

phân
3. - Yeu do dặc tỉnh sinh hóa. Nguyên nhân này thường gặp ở các điều kiện địa chất
hủy các chất hữu cơ có ở các đầm lầy (hàm lượng hữu cơ từ 20 - 80%);
đã được gia cố. Trải qua thời gian, do các tác động sinh hóa, như phản ứng hóa học
- Cát chảy: Gồm các loại cát mịn, kết cẩu hạt rời rạc, có thể bị nén chặt hoặc
trong thành phần của chất gia cố với nước, hoạt động của sinh vật và vi sinh vật, đất
pha
đã được gia cố trở nên yếu đi. Đây là một vấn đề tương đối khó khăn đổi với các
loãng đáng kế. Loại đất này khi chịu tải trong động thì chuyến sang trạng thái chảy
công trình sử dụng biện pháp hóa học đế gia cố đất như xi măng, thủy tinh.
gọi là cát chảy.

1.3.

Cách phân biệt nền đất yếu

- Đất bazan: Đây cũng là đất yếu với đặc diểm độ rồng lớn, dung trọng khô bé,

Đất mềm yếu nói khả
chung là loại đất có khả năng chịu tải nhỏ (áp dụng cho đất có cường
độ kháng
nén quy
0,50
năng thấm
nướcước
cao,dưới
dễ bị
lúndaN/
sập. cm2), có tính nén lún lớn, hệ số rỗng lớn (e >1),



1.5. Ẳnh
của (E0
đất việc xâyvàdựng
môđun
biếnhưởng
dang thấp
50đến
daN/cm2),
có sức kháng cắt nhỏ. Khi xây dưng công
Nen đất yếu là nền đất không đủ sức chịu tải, không đủ độ bền và biến dang


cho phù hợp để tăng sức chịu tải của nền đất, giảm độ lún, đảm bảo điều kiện khai
thác bình thường cho công trình.
Trong thực tế xây dưng, có rất nhiều công trình bị lún, sập hư hỏng khi xây dựng
trên nền đất yếu do không có nhũng biện pháp xử lý phù hợp, không đánh giá chính xác
được các tính chất co lý của nền đất. Do vậy việc đánh giá chính xác và chặt chẽ các
tính
chất cơ lý của nền đất yếu (chủ yếu bằng các thí nghiệm trong phòng và hiện trường) đế
làm cơ sở và đề ra các giải pháp xử lý nền mỏng phù hợp là một vấn đề hết sức khó
khăn,
nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tế đế giải
quyết, giảm được tối đa các sự cố, hư hỏng công trình khi xây dựng trên nền đất yếu.

2. CÁC VẤN ĐÈ KHI XÂY DựNG CÔNG TRÌNH TRÊN NỀN ĐẮT
Nen móng của các công trình xây dựng nhà ở, đường sá, đê điều, đập chắn nước
và một số công trình khác trên nền đất yếu thường đặt ra hàng loạt các vấn đề phải giải
quyết như sức chịu tải của nền thấp, độ lún lớn và độ ốn định của cả diện tích lớn do nền

đất chịu sức ép lớn.
Việt Nam được biết đến là nơi có nhiều đất yếu, đặc biệt lưu vục sông Hồng và
sông Mê Kông. Nhiều thành phổ và thị trấn quan trọng được hình thành và phát triến
trên
nền đất yếu với những điều kiện hết sức phức tạp của đất nền, dọc theo các dòng sông

bờ biến. Thực tế này đã đòi hỏi phải hình thành và phát triển các công nghệ thích hợp và
tiên tiến đế xử lý nền đất yếu.
Các giải pháp mỏng có độ sâu không lớn đều thỏa mãn được sức chịu tải nhưng
không giải quyết được vấn đề lủn. chỉ có coc móng (có độ sâu lớn) mới có thể đồng thời
giải quyết được vấn đề lún và sức chịu tải. Do đó, các công trình móng nhà trong khu
phát triển trung tâm đô thị mới Sài Gòn chủ yếu sử dụng dạng thiết kế cọc móng định


được tập trung sản xuất tại xưởng bêtông mà công ty xây dung cùng hợp tác đầu tư và
kiểm tra, quản lý chất lượng rất chặt chẽ.
2.1 Các vấn đề đặt ra với nền đất yếu
Móng của đường bộ, đường sắt, nhà cửa và các dạng công trình khác đặt trên nền đất yếu
thường đặt ra những bài toán sau cần phải giải quyết:
+ Độ lún: Độ lún có trị số lớn, ma sát âm tác dụng lên cọc do tính nén của nền đất.
+ Độ ổn định: Sức chịu tải của móng, độ ổn định của nền đắp, ổn định mái dốc, áp lực đất
lên tường chắn, sức chịu tải ngang của cọc. Bài toán trên phải được xem xét do sức chịu
tải và cường độ của nền không đủ lớn.
+ Thấm: Cát xủi, thẩm thấu, phá hỏng nền do bài toán thấm và dưới tác động của áp lực
nước.
+ Hoá lỏng: Đất nền bị hoá lỏng do tải trọng của tầu hoả, ô tô và động đất.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các vấn đề thực tế sau đây đang được quan tâm:
-

Xây dựng công trình đường giao thông, thuỷ lợi, đê điều và công trình co sở trên

nền
đất yếu

-

Xử lý và gia cường nền đê, nền đường trên nền đất yếu hiện đang khai thác và sử
dụng
cần có công nghệ xử lý sâu.

-

Xử lý trượt lở bờ sông, bờ biển và đê điều.

-

Lấn biển và xây dựng các công trình trên biển.

-

Xử lý nền cho các khu công nghiệp được xây dựng ven sông, ven biển.


- Xử lý nền đất yếu để chung sống với lũ tại đồng bằng sông Cửu Long.
7
2 /*% rr^# Ạ
______Ạ_

r r \

1


r

r
Ạ__il » Ạ i 1_A

_ Ạ -»

/V

i

.2. Tiêu chuân thiêt kê nên đât yêu
Cho đến thời điếm hiện nay, ở trong nuớc vẫn chưa xây dung đầy đủ được những Tiêu
chuẩn riêng của Việt nam về tính toán thiết kế cũng như Quy trình công nghệ thi công
mới đế xử lý nền dất yếu mà đều dựa chủ yếu vào các tài liệu ở nước ngoài chuyến giao.
Tại Việt Nam đang thiết kế và thi công theo một số quy trình, quy phạm như:
- Quy trình kỹ thuật thi công và nghiệm thu bấc thấm trong xây dưng nền đường trên đất
yếu: 22TCN 236-97.
thiết kế xử lý đất yếu bằng bấc thấm trong xây dưng nền đường: 22TCN 24498.
- Vải địa kỹ thuật trong xây dưng nền đắp trên đất yếu - Tiêu chuẩn thiết kế thi công và
nghiệm thu: 22TCN248-98.
- Quy trình khảo sát thiết kế nền đường ô tô đắp trên đất yếu - Tiêu chuẩn thiết kế:
22TCN-2000.

3. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ ĐẤT NÈN YÉU
Phưong pháp xử lí đất yếu gồm nhiều loại, căn cứ vào điều kiện địa chất, nguyên nhân và
đòi hỏi với công nghệ khắc phục.
Kỹ thuật cải tạo đất yếu thuộc lĩnh vực địa kỹ thuật, nhằm đưa ra các co sở lý thuyết và
phương pháp thực tế đế cải thiện khả năng tải của đất sao cho phù hợp với yêu cầu của

từng loại công trình khác nhau.


Với các đặc điếm của đất yếu như trên, muốn đặt móng công trình xây dưng trên nền đất
này thì phải có các biện pháp kỹ thuật đế cải tạo tính năng chịu lực của nó. Nen đất sau
khi xử lý gọi là nền nhân tạo.
Việc xử lý khi xây dưng công trinh trên nền đất yếu phụ thuộc yào điều kiện như: Đặc
điếm công trình, đặc điếm của nền đất... Với từng điều kiện cụ thể mà người thiết kế đưa
ra các biện pháp xử lý hợp lý. Có nhiều biện pháp xử lý cụ thế khi gặp nền đất yếu như:
❖ Các biện pháp xử lý về kết cấu công trình
❖ Các biện pháp xử lý về móng
❖ Các biện pháp xử lý nền

3.1.

Các biện pháp xử lý về kết cấu công trình

Ket cấu công trình có thể bị phá hỏng cục bộ hoặc hoàn toàn do các điều kiện biến dang
không thỏa mãn: Lún hoặc lún lẽch quá lớn do nền đất yếu, sức chịu tải bé.
Các biện pháp về kết cấu công trình nhằm giảm áp lực tác dụng lên mặt nền hoặc làm
tăng khả năng chịu lực của kết cấu công trình. Người ta thường dùng các biện pháp sau:
-

Dùng vật liệu nhẹ và kết cấu nhẹ, thanh mảnh, nhưng phải đảm bảo khả năng
chịu

lực

của công trình nhằm mục đích làm giảm trọng lượng bản thân công trình, tức là
giảm

được tĩnh tải tác dụng lên móng.
-

Làm tăng sự linh hoạt của kết cấu công trình ke cả móng bằng cách dùng kết cấu
tĩnh
định hoặc phân cắt các bộ phận của công trình bằng các khe lún đế khử được ứng
suất
phụ phát sinh trong kết cấu khi xảy ra lún lệch hoặc lún không đều.

-

Làm tăng khả năng chịu lực cho kết cấu công trình đế đủ sức chịu các ứng lực
sinh

ra


- Các biện pháp xử lý vê

móng
xây dung công trình trên nền đất yếu, ta có thể sử dụng một sổ phương pháp xử lý về
mỏng thường dùng như:
Thay đổi chiều sâu chôn móng nhằm giải quyết sự lún và khả năng chịu tải của
nền; Khi tăng chiều sâu chôn móng sẽ làm tăng trị số sức chịu tải của nền đồng thời
làm giảm ứng suất gây lún cho móng nên giảm được độ lún của móng; Đồng thời
tăng
độ sâu chôn móng, có thế đặt móng xuống các tầng đất phía dưới chặt hơn, ổn định
hơn. Tuy nhiên việc tăng chiều sâu chôn móng phải cân nhắc giữa 2 yếu tố kinh tế

kỹ thuật.

Thay đối kích thước và hình dáng móng sẽ có tác dụng thay đối trực tiếp áp lực
tác
dụng lên mặt nền, và do đó cũng cải thiện được điều kiện chịu tải cũng như điều kiện
biến dang của nền. Khi tăng diện tích đáy móng thường làm giảm được áp lực tác
dụng lên mặt nền và làm giảm độ lún của công trình. Tuy nhiên đất có tính nén lún
tăng dần theo chiều sâu thì biện pháp này không hoàn toàn phù hợp.
Thay đối loại móng và độ cứng của móng cho phù hợp với điều kiện địa chất
công
trình: Có thế thay móng đơn bằng móng băng, móng băng giao thoa, móng bè hoặc
móng hộp; trường hợp sử dụng móng băng mà biến dang vẫn lớn thì cần tăng thêm
khả năng chịu lực cho móng; Độ cứng của móng bản, móng băng càng lớn thì biến
dạng bé và độ lún sẽ bé. Có thế sử dụng biện pháp tăng chiều dày móng, tăng cốt
thép
dọc chịu lực, tăng độ cứng kết cấu bên trên, bố trí các sườn tăng cường khi móng
bản
có kích thước lớn.


bằng nền đất mới có tính bền cơ học cao, như làm gối cát, đệm cát. Phương pháp
này
đòi hỏi kinh tế và thời gian thi công lâu dài, áp dụng được với mọi điều kiện địa
chất.
Bên cạnh đó cũng có thế kết hợp cơ học bằng phương pháp nén thêm đất khô với
điều
kiện địa chất đất mùn xốp.
3.3.2.

Các phương pháp cơ học.

Là một trong những nhóm phương pháp phổ biến nhất, bao gồm các phương pháp

làm chặt bằng sử dụng tải trong tĩnh(phương pháp nén trước), sử dụng tải trọng
động(đầm chấn động), sử dụng các coc không thấm, sử dụng lưới nền cơ học và sử dụng
thuốc nổ sâu , phương pháp làm chặt bằng giếng cát, các loại coc (cơc cát, cơc xi măng
đất, cọc vôi...), phương pháp vải địa kỹ thuật, phương pháp đệm cát...đế gia cố nền bằng
tác nhân cơ học
Sử dụng tải trọng động khá phổ biến với điều kiện địa chất đất cát hoặc đất sỏi như
dùng máy đầm rung, đầm lăn. Cọc không thấm như cơc tre, cơc cừ tràm, cọc gỗ chắc
thường được áp dụng với các công trình dân dụng. Sử dụng hệ thống lưới nền cơ học
chủ
yếu áp dụng đế gia cố đất trong các công trình xây mới như đường bộ và đường sắt. Sử
dụng thuốc no sâu tuy đem lại hiệu quả cao trong thời gian ngắn, nhưng không thích hợp
với đất sét và đòi hỏi tính chuyên nghiệp của nhà xây dựng.
> Phương pháp vật lý: Gồm các phương pháp hạ mực nước ngầm, phương pháp

dùng giếng cát, phương pháp bấc thấm, điện thấm...
> Phương pháp nhiệt học. Là một phương pháp độc đáo có thế sử dụng kết hợp với

một sổ phương pháp khác trong điều kiện tự nhiên cho phép. Sử dụng khí nóng
trên 800° đế làm biến đổi đặc tính lí hóa của nền đất yếu. Phương pháp này chủ
yếu sử dụng cho điều kiện địa chất đất sét hoặc đất cát mịn. Phương pháp đòi hỏi


măng, thủy tinh, phương pháp Silicat hóa... hoặc một số hóa chất đặc biệt phục
vụ
mục đích điện hóa. Phương pháp xi măng hóa và sử dụng cơc xi măng đất tương
đối tiện lợi và phổ biến. Trong vòng chưa tới 20 năm trở lại đây đã có những
nghiên cứu tích cực về việc thêm cốt cho coc xi măng đất. Sử dụng thủy tinh ít
phổ biến hơn do độ bền của phương pháp không thực sự khả quan, còn điện hóa
rất ít dùng do đòi hỏi tương đối về công nghệ.
> Phương pháp sinh học. Là một phương pháp mới sử dụng hoạt động của vi sinh


vật đế làm thay đối đặc tính của đất yếu, rút bớt nước úng trong vùng địa chất
công trình. Đây là một phương pháp ít được sự quan tâm, do thời gian thi công
tương đối dài, nhưng lại được khá nhiều ủng hộ về phương diện kinh tế.
> Các phương pháp thủy lực. Đây là nhóm phương pháp lớn như là sử dụng coc

thấm, lưới thấm, sử dụng vật liệu composite thấm, bấc thấm, sử dụng bơm chân
không, sử dụng điện thẩm. Các phương pháp phân làm hai nhóm chính, nhóm
một
chủ yếu mang mục đích làm khô đất, nhóm này thường đòi hỏi một lượng tương
đối thời gian và còn khiêm tốn về tính kinh tế. Nhóm hai ngoài mục đích trên còn
muốn mượn lực nén thủy lực đế gia cố đất, nhóm này đòi hỏi cao về công nghệ,
thời gian thi công giảm đi và tính kinh tế được cải thiện đáng kế.
> Ngoài ra còn có các phương pháp mới được nghiên cún như rung hỗn hợp, đâm

xuyên, bơm cát...

4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ ĐÁT YẾU HAY DÙNG
4.1. Phưong pháp xử lý nền bằng đệm cát
Lớp đệm cát sử dụng hiệu quả cho các lớp đất yếu ở trạng thái bão hoà nước (sét nhão,
sét pha nhão, cát pha, bùn, than bùn...) và chiều dày các lớp đất yếu nhỏ hơn 3m.
Biện pháp tiến hành: Đào bỏ một phần hoặc toàn bộ lớp đất yếu (trường hợp lớp đất yếu


Lớp đệm cát thay thế lớp đất yếu nằm trực tiếp dưới đáy móng, đệm cát đóng vai trò như
một lớp chịu tải, tiếp thu tài trong công trình và truyền tải trọng đó các lớp đất yếu bên
dưới.


Giảm được độ lún và chênh lệch lún của công trình vì có sự phân bộ lại úng suất




do tài trong ngoài gây ra trong nền đất dưới tầng đệm cát.
Giảm được chiều sâu chôn móng nên giảm được khối lượng vật liệu làm móng.



Giảm được áp lực công trình truyền xuống đến trị số mà nền dất yếu có the tiếp
nhận được.



Làm tăng khả năng ổn định của công trình, kế cả khi có tài trong ngang tác dụng,
vì cát được nén chặt làm tăng lực ma sát và sức chống trượt.



Tăng nhanh quá trình cố kết của đất nền, do vậy làm tăng nhanh khả năng chịu
tải
của nền và tăng nhanh thời gian ổn định về lún cho công trình.



về mặt thi công đơn giản, không đòi hỏi thiết bị phức tạp nên được sử dụng
tương
đối rộng rãi.




Phạm vi áp dụng tốt nhất khi lớp đất yếu có chiều dày bé hơn 3m. Không nên sử
dụng phương pháp này khi nền đất có mực nước ngầm cao và nước có áp vì sẽ
tốn
kém về việc hạ mực nước ngầm và đệm cát sẽ kém ốn định.

4.2. Phương pháp đầm chặt lóp đất mặt (cố kết đóng)
Khi gặp trường hợp nền đất yếu nhưng có độ ẩm nhỏ (G < 0,7) thì có thế sử dụng
phương pháp đầm chặt lớp đất mặt để làm cường độ chống cắt của đất và làm giảm tính
nén lún.
Lớp đất mặt sau khi được đầm chặt sẽ có tác dụng như một tầng đệm đất, không
những có ưu điểm như phương pháp đệm cát mà cón có ưu điếm là tận dụng được nền
đất
thiên nhiên để đặt móng, giảm được khối lượng đào đắp.


lượng 1 - 4 tấn (có khi 5-7 tấn) và đường kính không nhở hơn 1 m. Đế hiệu quả tốt khi
chọn quả đầm nên đảm bảo áp lực tĩnh do quả đầm gây ra không nhỏ hơn 0,2kg/ cm2
với
loại đất sét và 0,15kg/cm2 với đất loại cát.
Cố kết đóng cho phép tăng cường độ và sức chịu tải và giảm độ lún của nền. Công nghệ
được dùng đế gia cố nền đất yếu ở Hà Nội, Hải Phòng và TP. HCM. Quả đấm bằng khối
bê tông đúc sẵn có trọng lượng từ 10 - 15 tấn được nhấc lên bằng cẩu và rơi xuống bề
mặt từ độ cao 10-15m đế đầm chặt nền. Khoảng cách giữa các hố đầm là 3x3, 4x4 hoặc
5x5m. Độ sâu ảnh hưởng của đầm chặt cố kết động được tính bằng:
D = 0,5 VWH
Trong đó:
D - độ sâu hữu hiệu được đầm
chặt
w - Trọng lượng quả đấm, tấn
H - Chiều cao rơi quả đấm, m

Sau khi đầm chặt tại một điếm một vài lần cát và đá được đổ đầy hố đầm.
Phương
phá cố kết động đế gia cố nền đất yếu đơn giản và kinh tế, thích hợp với hiện tượng
mới san lấp và đất đắp. cần thiết kiểm tra hiệu quả công tác đầm chặt trước và sau
khi đầm bằng các thiết bị xuyên hoặc nén ngang trong hố khoan.

4.3. Bệ phản áp
Bệ phản áp thường được dùng để tăng độ ổn định của khối đất đắp của nền
đường hoặc nền đê trên nền đất yếu. Phương pháp đơn giản song có giới hạn là
phát sinh độ lún phụ của bệ phản áp và diện tích chiếm đất đế xây dựng bệ phản
áp. Chiều cao và chiều rộng của bệ phản áp được thiết kế từ các chỉ tiêu về sức


4.4. Phương pháp gia tải nén trước
Trong một số trường hợp phương pháp chất tải trước không dùng giếng thoát nước
thẳng đứng vẫn thành công nếu điều kiện thời gian và đất nền cho phép. Tải trọng
gia tải trước có thể bằng hoặc lớn hơn tải trọng công trình trong tương lai. Trong
thời
gian chất tải độ lún và áp lực nước được quan trắc. Lớp đất đắp đế gia tải được dỡ
khi độ lún kết thúc hoặc đã cơ bản xảy ra . Phương pháp này có thế sử dụng đế xử

khi gặp nền đất vếư như than bùn, bùn sét và sét pha dẻo nhão, cát pha bão hoà
nước.
Dùng phương pháp này có các ưu điểm sau:


Tăng nhanh sức chịu tải của nền đất;




Tăng nhanh thời gian cố kết, tăng nhanh độ lún ổn định theo thời gian.

Các biện pháp thực hiện:
> Chất tải trong (cát, sỏi, gạch, đá...) bằng hoặc lớn hơn tải trọng công trình dự

kiến thiết kế trên nền đất yếu, đế chọn nền chịu tải trước và lún trước khi xây
dựng công trình.
> Dùng giếng cát hoặc bấc thấm đế thoát nước ra khỏi lỗ rồng, tăng nhanh quá

trình cố kết của đất nền, tăng nhanh tốc độ lún theo thời gian.
Tuỳ yêu cầu cụ thế của công trình, điều kiện địa chất công trình, địa chất thuỷ văn
của nơi xây dưng mà dùng biện pháp xử lý thích hợp, có thế dùng đơn lẻ hoặc kết
hợp cả hai biện pháp trên.
Phương pháp gia tải trước thường là giải pháp công nghệ kinh tế nhất đế xử lý nền
đất yếu. Gia tải trước là công nghệ đơn giản, tuy vậy cần thiết phải khảo sát đất nền
một cách chi tiết. Một số lớp đất mỏng, xen kẹp khó xác định bằng các phương


quan trắc và đánh giá đầy đủ, nên sau khi xây dựng công trình, đất nền tiếp tục bị
lún
và công trình bị hu hỏng.
Phương pháp gia tải truớc được dùng để xử lý nền móng của Rạp xiếc Trung ương
(Hà Nội, Viện nhi Thuỵ Điển (Hà Nội), Trường Đại học Hàng Hải (Hải Phòng) và
một loạt công trình tại phía Nam.

4.5. Gia tải trước vói thoát nước thẳng đứng
Trong rất nhiều trường hợp, thời gian gia tải trước cần thiết được rút ngắn
đế xây dựng công trình, vì vậy tốc độ cố kết của nền được tăng do sử dụng cọc
cát
hoặc bằng thoát nước. Cọc cát được đóng bằng công nghệ rung ống chống đế

chiếm đất, sau đó cát được làm đầy ống và rung đế đầm chặt. Cọc cát có đường
kính 30-40cm. Có thế được thi công đến 6-9m. Giải pháp cọc cát đã được áp
dụng
đế xử lý nền móng một số công trình ở TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Hải Phòng,
Hà Nội.
Bản nhựa được dùng đế xử lý nền đất yếu của Việt Nam từ thập kỷ 1980.
Thiết bị và công nghệ của Thuỵ Điến được sử dụng đế thi công bản nhựa. Công
nghệ cho phép tăng cường độ đất nền và giảm thời gian cố kết.
Tại ven sông Sài Gòn đã xây dựng một bế chứa với các kích thước hình
học
và tải trọng đường kính 43m, chiều cao 15m, tải trọng 20.000tấn. Nen công trình
là đất yếu có chiều dày lớn được xử lý nền bằng bản nhựa thoát nước thắng đứng
kết hợp với gia tải bằng hút chân không. Độ lún được tính xấp xỉ 1,0m. Ket quả
độ
lún thực tế sau 2 lần gia tải là 3,26m(lần đầu độ lún bằng 2,4m và lần sau độ lún


Là phương pháp kỹ thuật thoát nước thắng đứng bằng bấc thấmkết hợp
với
gia tải trước. Khi chiều dày đất yếu rất lớn hoặc khi độ thấm của đất rất nhỏ thì

thể bố trí đường thấm thẳng đứng để tăng tốc độ cố kết. Phương pháp này thường
dùng để xử lý nền đường đắp trên nền dẩt vếư. Phương pháp bấc thấm (PVD) có
tác dụng thấm thẳng đứng để tăng nhanh quá trình thoát nước trong các lỗ rỗng
của đất yếu, làm giảm độ rỗng, độ ẩm, tăng dung trọng. Ket quả là làm tăng
nhanh
quá trình cố kết của nền đất yếu, tăng sức chịu tải và làm cho nền đất đạt độ lún
quy định trong thời gian cho phép. Phương pháp bấc thấm có thể sử dụng độc
lập,
nhưng trong trường hợp cần tăng nhanh tốc độ cố kết, người ta có thế sử dụng kết

hợp đồng thời biện pháp xử lý bằng bấc thấm với gia tải tạm thời, tức là đắp cao
thêm nền đường so với chiều dày thiết kế 2 - 3m trong vài tháng rồi sẽ lấy phần
gia tải đó đi ở thời điểm mà nền đường đạt được độ ]ún cuối cùng như trường
hợp
nền đắp không gia tải. Bấc thấm được cấu tạo gồm 2 phần: Lõị chất dẽo (hay bìa
cứng) được bao ngoài bằng vât liẽư tổng hợp (thường là vải địa kỹ thuật
Polypropyĩene hay Poĩyesie không dệt...) Bấc thấm có các tính chất vật lý đặc
trưng sau:


Cho nước trong lỗ rỗng của đất thấm qua lớp vải địa kỹ thuật bọc ngoài vào lõi
chất dẽo.



Lõi chất dẽo chính là đường tập trung nước và dẫn chúng thoát ra ngoài khỏi


quanh, đồng thời là bộ phận lọc, hạn chế cát hạt mịn chui vào làm tắc thiết bị. Lõi
chất dẽo có 2 chức năng: Vừa đỡ lớp bao bọc ngoài, và tạo đuờng cho nuớc thấm
dọc chúng ngay cả khi áp lực ngang xung quanh lớn. Neu so sánh hệ số thấm
nước
giữa bấc thấm PVD với đất sét bão hòa nước cho thấy rằng, bấc thấm PVD có hệ
số thấm (K = 1 X 10-4m/s) lớn hon nhiều lần so với hệ số thấm nước của đất sét (
k = 10 X 10-5m/ngày đêm). Do đó, các thiết bị PVD dưới tải trong nén tức thòi
đủ
lớn có thế ép nước trong lỗ rỗng của đất thoát tự do ra ngoài.

4.7. Gia cưòng nền đất yếu bằng cọc tiết diện nhỏ
Cọc tiết diện nhỏ được hiếu là các loại cọc có đường kính hoặc cạnh tù’ 10

đến 25cm. Cọc nhỏ có thế được thi công bằng công nghệ đóng, ép, khoan phun.
Cọc nhở được dùng đế gia cố nền móng cho các công trình nhà, đường sá, đất
đắp
và các dạng kết cấu khác. Cọc nhở là một giải pháp tốt đế xử lý nền đất yếu vì
mang lại hiệu quả kinh tế và kỹ thuật. Công nghệ cọc nhỏ cho phép giảm chi phí
vật liệu, thi công đơn giản, đồng thời truyền tải trọng công trình xuống các lớp
đất
yếu hơn, giảm độ lún tống cộng và độ lún lệch của công trình.

4.8. Cọc tre và cọc tràm
Cọc tre và cọc tràm là giải pháp công nghệ mang tính truyền thống đế xử

nền cho công trình có tải trọng nhỏ trên nền đất yếu. Cọc tràm và tre có chiều dài
từ 3 - 6m được đóng đế gia cường nền đất với mực đích làm tăng khả năng chịu
tải
và giảm độ lún. Theo kinh nghiệm, thường 25 cọc tre hoặc cọc tràm được đóng


Nhằm giảm độ lún và tăng cường độ đất yếu, cọc cát hoặc cọc đã đầm chặt
được sử dụng.Cát và đá được đầm bằng hệ thống đầm rung và có thể sử dụng
công
nghệ đầm trong ống chống. Đã sử dụng công nghệ cọc cát và cọc đá để xây dựng
một số công trình tại Tp, Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và Vũng Tàu. Sức
chịu
tải của cọc cát phụ thuộc vào áp lực bên của đất yếu tác dụng lên cọc. Theo
Broms
(1987) áp lực tới hạn bằng 25 Cu với Cu = 20kPa, cọc cát d> 40cm có sức chịu
tải
tới hạn là 60KN. Hệ số an toàn bằng 1,5 có thế được sử dụng^1. Khác với các
loại

coc cứng khác (bẽ tông, bẽ tỏng cốt thép, coc gồ, coc cừ trảm, coc tre...) là một
bộ
phận của kết cấu móng, làm nhiệm vụ tiếp nhận và truyền tài tronu xuống đất
nền,
mạng lưới coc cát làm nhiệm vụ gia cổ nền đất yếu nên còn gọi là nền cọc cát.
Việc sử dụng coc cát đế gia cổ nền có những ưu điểm nổi bật sau: Coc cát làm
nhiệm vụ như giếng cát, giúp nước lỗ rỗng thoát ra nhanh, làm tăng nhanh quá
trình cố kết và độ lún ốn định diễn ra nhanh hơn; Nen đất được ép chặt do ống
thép tạo lồ, sau đó lèn chặt đất vào lỗ làm cho đất được nén chặt thêm, nước
trong
đất bị ép thoát vào cọc cát, do vậy làm tăng khả năng chịu lực cho nền đất sau khi
xử lý; Cọc cát thi công đơn giản, vât liêu rẻ tiền (cát) nên giá thành rẻ hơn so với
dùng các loại vật liệu khác. Cọc cát thường được dùng đế gia cổ nền đất yếu có
chiều dày > 3m.

4.10. Phương pháp xử lý nền bằng cọc vôi và cọc xi măng đất


• Sau khi xử lý bằng coc vôi nền đất được cải thiện đáng kể: Độ ẩm của đất
giảm 5-8%; Lực dính tăng lên khoảng 1,5-3 lần.
Việc chế tạo coc xi măng đất cũng giống như đối với coc đất - vôi, ở đây
xilô
chứa ximăng và phun vào đất với tỷ lệ định trước. Lưu ý sàng ximăng trước khi
đố
vào xilô đế đảm bảo ximăng không bị vón cục và các hạt ximăng có kích thước
đều < 0,2mm, đế không bị tắc ổng phun. Hàm lượng ximăng có thế tù' 7-15% và
kết quả cho thấy gia cố đất bằng ximăng tốt hơn vôi và đất bùn gốc cát thì hiệu
quả cao hơn đất bùn gốc sét.
Qua kết quả thí nghiệm xuyên cho thấy sức kháng xuyên của đất nền tăng
lên

tù' 4-5 lần so với khi chưa gia cố. Ớ nước ta đã sử dụng loại coc đất-ximăng này
đế
xử lý gia cố một số công trình và hiện nay triến vọng sử dụng loại cọc đấtximăng
này đế gia cố nền là rất tốt.
Thiết bị và công nghệ của Thuỵ Điến được dùng đế chế tạo cùng đất xi măng
và đất vôi. Các kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và áp dụng hiện
trường
cho thấy:
- Cọc đất vôi và đất xi măng đóng vai trò thoát nước và gia cường nền. Đây là giải

pháp công nghệ thích hợp đế gia cố sâu nền đất yếu.
- Các chỉ tiêu về cường độ, biến dạng phụ thuộc vào thời gian, loại đất nền, hàm

lượng hữu cơ, thành phần hạt và hàm lượng xi măng và vôi sử dụng.
- Việc sử dụng xi măng rẻ hơn trong điều kiện Việt Nam so với vôi. Tỷ lệ phần

trăm


- Cọc đất xi măng được dùng để gia cố nền đường, nền nhà, khu công nghiệp, nền

đê...
-Ảnh hưởng của nhiệt độ đến cường độ đất vôi.

5. CÁC CÔNG TRÌNH CÓ NỀN MÓNG YẾU ĐÃ ĐƯỢC xử LÝ Ở
VIỆT NAM
Trong nhũng năm vừa qua các công trình giao thông được nâng cấp cải tạo và xây
dưng mới, cùng với sự phát triến công nghệ, các dự án xây dựng giao thông đã áp
dụng hầu hết các phưong pháp trên thế giới đế xử lý nền đất vếư như:
- Quốc lộ 1A: sử dụng coc cát, bệ phản áp (đầu cầu Phù Đống), bấc thấm, vải địa


kỹ
thuật (đoạn Cà Mau - Năm Căn)...
- Quốc lộ 5: bấc thấm kết hợp vải địa kỹ thuật, tầng đệm cát, vét bùn...
- Quốc lộ 18,10: coc cát, tầng đệm cát kết hợp vải địa kỹ thuật, bấc thấm.
- Dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn 1): thay đất yếu, làm rãnh ngầm hạ mực

nước ngầm, thả đá hộc (Km89 - Km92).
- Dự án đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương: cầu cạn, vét bùn thay đất, giếng

cát,
bấc thấm, sàn giảm tải.
- Những công nghệ mới như coc xi măng - đất áp dụng đế xử lý nền mỏng sân bay

Trà Nóc (TP cần Thơ), đường vào khu khí điện đạm Cà Mau.
- Hút chân không áp dụng đế xử lý nền mỏng nhà máy khí điện đạm Cà Mau

Việc đưa ra một số các biện pháp xử lý nền đất yếu mới góp phần làm phong phú
các
phương pháp xử lý nền mỏng trong công tác xây dựng nền đường qua vùng địa


có địa chất yếu từ đó có cơ sở để lựa chọn những biện pháp tối ưu để áp dụng cho
công trình đường Hồ Chí Minh một cách có hiệu quả.
6. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ NÈN ĐẮT YÉU

6.1. Giải pháp xử lỷ đất yếu bằng đất trộn xi măng
6.1.1 Giói thiệu
Một số công trình cầu đường trong quá trình khai thác đã và đang tồn tại hiện tượng khá
phố biến là lún lệch hai bên đầu cầu, hai bên cống hộp, ... Sự lún lệch này là trở ngại lớn

trong lun thông, gây nên hiện tượng nảy, xốc đột ngột rất dễ xảy ra tai nạn. Mức độ nguy
hiểm tùy thuộc vào độ lún lệch tại mồi công trình. Đồng thời phát sinh hàng loạt các vấn
đề khác như làm giảm năng lực khai thác của công trình do phải giảm tốc độ khi đi qua
nhũng vị trí lún lệch, làm tăng mức độ hao phí (xăng dầu, hao mòn máy móc, ...) của các
phương tiện giao thông. Những biện pháp đối phó thông thường đế giảm thiếu sự lún
lệch
chỉ mang tính chất là một loại giải pháp tình thế (như bù lún bằng bê tông nhựa), đòi hỏi
chi phí cao làm tăng tống vốn đầu tư xây dụng và mất thời gian lâu dài. Mặt khác vấn đề
mỹ quan của công trình cũng không thế nào đảm bảo yêu cầu. Trong xây dựng tầng hầm
các công trình nhà cao tầng, nhất là các tầng hầm có chiều sâu lớn việc chống ốn định
thấm bằng các phương pháp cọc bares hoặc tường cừ lá sen thường không đạt hiệu quả,
nhiều công trình dẫn đến sự có do xói ngầm (điển hình như công trình tòa nhà cao tầng
Paciíĩc 45-47 Nguyễn Thị Minh Khai thành phố Hồ Chí Minh) và một số công trình
khác. Đe giải quyết những vấn đề trên, hiện nay trên thế giới và ở nước ta đã ứng dụng
công nghệ đất trộn xi măng bằng phương pháp trộn sâu. Phương pháp này có nhiều ưu
điểm:
-

Phạm vi áp dụng rộng, thích hợp mọi loại đất từ bùn sét đến sỏi cuội.

-

Có thể xử lý lớp đất yếu một cách cục bộ, không ảnh hưởng đến lớp đất tốt.


- Thi công được trong nước.
-

Mặt bằng thi công nhỏ, ít chấn động, ít tiếng ồn, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến
các


công

trình lân cận.
-

Rất sạch sẽ và giảm thiếu vấn đề ô nhiễm môi trường.

-

Thiết bị nhỏ gọn, có thế thi công trong không gian có chiều cao hạn chế.

-

Và đặc biệt là thi công nhanh, thời gian đất đạt yâu cầu kỹ thuật xử lý ngắn, đấy
nhanh

Hình 1. Phương pháp trộn ướt dưới sâu

Hình 2. Phương pháp trộn khô dưới sâu
Phương pháp trộn dưới sâu là một kỹ thuật cải tạo đất đế gia tăng cường độ, kiểm
soát biến dạng, và giảm thấm nhờ đất được trộn với xi măng và các vật liệu khác. Những


vật liệu này có liên quan đến chất kết dính và duới dang lỏng hoặc khô. Điều đó được
thực hiện bằng các cọc đất-ximăng. Các cọc đất-ximăng được thực hiện bởi các mũi
khoan; các mũi khoan được gắn vói cần khoan. Các cần khoan được đưa vào trong đất,
vữa hoặc xi măng khô được bơm qua các lồ ở mũi khoan và được phụt vào đất nhờ hệ
thống áp lực lớn (có khi tới hàng trăm atmôtíe). Nhóm các mũi khoan và lười trộn trên
cần pha trộn đất với vữa/xi măng khô giống hình thức máy trộn đất sét. Phương pháp

này
nhờ một loạt các phản ứng hóa học - vật lý xảy ra giữa chất đóng rắn với đất, làm cho
đất
sét yếu đóng rắn lại thành một thể cọc có tính chỉnh thể, tính ổn định và có cường độ
nhất
định. Phương pháp mà bột xi măng khô được sử dụng như là tác nhân chính làm ốn định
được gọi là phương pháp trộn khô dưới sâu; Còn tác nhân làm ốn định là hình thức vữa
được gọi là phương pháp trộn ướt dưới sâu. Đường kính cọc xi măng - đất thường tù’ 0.6
-

1.5m và có thế đạt đến 40m chiều sâu. Các ứng dụng của đất trộn xi măng:

-

Cải tạo nền đất yếu dưới nền đường vào cầu: việc thi công công trình trên nền
đất

sét

mềm hoặc hữu cơ có những khó khăn và phức tạp rất lớn. Nhất là sự cố do biến
dạng
thắng đứng và biến dạng ngang lớn. Bằng cách sử dụng cọc xi măng - đất thì các
đặc
trưng độ bền và biến dạng của đất có thế được cải thiện một cách rất đáng kế và
nhanh
chóng.
-

Làm chặt lại nền đất yếu phục vụ các công trình giao thông, các bãi
congtenner,các

công trình thủy lợi...

nên


-

Các phương pháp tính toán cọc xi măng đất

6.1.2.1. phương pháp tính toán theo quan điếm cọc xi măng - đất làm việc như cọc
4

a. Đánh giá ổn định cọc xi măng- đất theo trạng thái giói hạn 1

Để móng cọc đảm bảo an toàn cần thỏa mãn các điều kiện sau:
■ Nội lực lớn nhất trong một cọc: Nmax < Qult/Fs
■ Moment lớn nhất trong một cọc: Mmax < [M] của vật liệu làm cọc.
■ Chuyến vị của khối móng: Ay < [Ay]

Qult - Sức chịu tải giới hạn của cọc xi măng - đất.
[M] - Moment giới hạn của cọc xi măng - đất.
Fs - Hệ số an toàn.
b. Đánh giá ốn định cọc xi măng - đất theo trạng thái giới hạn 2

Tính toán theo trạng thái giới hạn 2, đảm bảo cho móng cọc không phát sinh
biến
dạng và
lún quá lớn: LSi < [S]



Nói chung, trong thực tế quan điếm này có nhiều hạn chế và có nhiều điểm chưa rõ ràng.
Chính vì những lý do đó nên ít được dùng trong tính toán.
c. Phương pháp tính toán theo quan điếm như nền tưong đương 4

Nen cọc và đất dưới đáy móng được xem như nền đồng nhất với các số liệu cường độ
(ptđ, Ctđ, Etđ được nâng cao. Gọi as là tỉ lệ giữa diện tích cọc xi măng - đất thay thế trên
diện tích đất nền.

as=Ap/As

cptđ = asộcọc + (1-as) cpnền

Ctđ = asCcọc + (l-as)Cnền
Etđ = asEcọc + (l-as)Enền
ap - Diện tích đất nền thay thế bằng cọc xi măng - đất.
as - Diện tích đất nền cần thay thế.
Theo phương pháp tính toán này, bài toán gia cố đất có 2 tiêu chuẩn cần kiếm tra: tiêu
chuẩn về cường độ và tiêu chuẩn về biến dạng.
Phương pháp tính toán theo quan điếm hỗn hợp của Viện Kỹ Thuật
Châu Á

6.1.2.2.

6.1.2.3.

đơn

Khả năng chịu tái của cọc



×