Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.79 KB, 34 trang )

Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................................. 4
Chương I : Cơ sở lý luận nghiệp vụ thị trường mở......................................................... 5
1.1 Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở............................................5
1.2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở....................................................................... 6
1.3 Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trường mở...................................................... 7
1.3.1 Tác động về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng........7
1.3.2 Tác động về mặt giá - tác động qua lãi suất................................................... 8
1.4 Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.....................................................9
1.4.1 Các Nghiệp vụ thị trường mở...........................................................................9
1.4.2. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua bán hẳn).................. 9
1.4.3 Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn)...........................................10
1.4.4 Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ..........................................................10
1.5 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.........................................11
1.6 Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở............................................................... 13
1.6.1 Tín phiếu kho bạc.(TB)...................................................................................13
1.6.2 Chứng chỉ tiền gửi (CD)................................................................................ 13
1.6.3 Thương phiếu. (CP)........................................................................................14
1.6.4 Trái phiếu chính phủ...................................................................................... 14
1.6.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương...............................................................14
1.6.6 Các hợp đồng mua lại.................................................................................... 15
1.7 Những bên tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở............................................. 15
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở.....................17
2.1 Thực trạng phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN:...................................... 17
2.1.1Thực trạng....................................................................................................... 17
2.1.2 Những hạn chế và nguyên nhân.....................................................................21
2.1.2.1 Những hạn chế......................................................................................... 21
2.1.2.2 Nguyên nhân............................................................................................ 24



Page 1


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
2.2 Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng
nhà nước......................................................................................................................25
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................34

Page 2


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong
quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thực
sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò vị trí của mình hay không lại phụ thuộc vào quá
trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để
thực hiện vai trò và trách nhiệm đã được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ
giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở.
Sau một thời gian dài chuẩn bị về hành lang pháp lý, trang thiết bị, nhân lực, …
nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức khai
trương vào ngày 12/7/2000. Trải qua hơn 5 năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở
đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào việc điều tiết và kiểm soát lượng
tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, cũng như các công cụ chính sách
tiền tệ khác của Ngân hàng nhà nước, nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ những hạn
chế nhất định. Số lượng các tổ chức tín dụng tham gia ít, doanh số giao dịch nhỏ, hàng

hoá giao dịch chưa nhiều, các quy định về quy trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn
thiện. Vì vậy, nhu cầu đổi mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở là hết
sức cấp bách và cần thiết. Nhận thức được điều đó, em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng
và giải pháp phát triển nghiêp vụ thị trường mở tại VN” để làm đề tài nghiên cứu
của tiểu luận
Bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiệp vụ thị trường mở
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Do kiến thức còn hạn hẹp, nhất là về NHTW và CSTT, nên bài tiểu luận
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế, rất mong nhận được sự quan
tâm, góp ý của cô giáo và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Page 3


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS
Nguyễn Thị Quy đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
OMO : nghiệp vụ thị trường mở
NHNN : ngân hàng nhà nước
NHTW : ngân hàng trung ương
CSTT : chính sách tiền tệ
DTBB : dự trữ bắt buộc
GTCG : giấy tờ có giá
NHTM : ngân hàng thương mại
TCTD : tổ chức tín dụng

Page 4



Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN

Chương I : Cơ sở lý luận nghiệp vụ thị trường mở
1.1 Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở
Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở-OMO” là
hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa chọn để qua đó tác
động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác này, vì thế có thể ảnh
hưởng tới các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua những ảnh hưởng về mặt
lượng và giá cả. Thuật ngữ "Thị trường mở" ở đây được hiểu là một thị trường có tính
chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác tham gia thị trường và đa dạng về các loại
giao dịch trên thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những
năm 30 của thế kỷ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Anh
được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên,
công cụ này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi
sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm
công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.
Cách thức đầu tiên được áp dụng để nhằm làm tăng lãi suất thị trường là:
- Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác định trong
tương lai.
-Vay trên thị trường - thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc từ người
môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ.
-Bán hẳn các chứng khoán chính phủ.
-Vay từ các Ngân hàng thương mại.
-Vay từ người gửi tiền đặc biệt.

Page 5



Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Bằng các cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối lượng
vay hoặc bán chứng khoán, lãi suất thị trường vì thế tăng lên.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung Ương (NHTW ) Thuỵ Sỹ cũng sử dụng
nghiệp vụ bán các chứng khoán chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa.
Vào năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng Nghiệp vụ thị
trường mở như một công cụ bổ xung cho chính sách tái chiết khấu. Tuy nhiên, trong
và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này được
sử dụng như công cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh
kinh tế sau chiến tranh. Cùng với các hoạt động này, lượng chứng khoán chính phủ
nằm trong tay các NHTW tăng lên.
Đến năm 1920, nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này cũng vẫn chỉ được
sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu và làm cho lãi suất
tái chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm quan trọng của nghiệp
vụ thị trường mở ngày càng tăng lên, nó được sử dụng như công cụ chính sách tiền tệ
ở ba nước ban đầu này và sau đó trở thành xu hướng ở hầu hết NHTW các nước khác.
Điều này suất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khấu; sự mở rộng và hoàn
thiện của hệ thống thị trường tái chính; sự tăng lên của lượng chứng khoán chính phủ
và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Cho đến nay nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ Chính
sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước.
1.2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động giao
dịch chứng khoá của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi mua, bán
chứng khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống Ngân hàng
và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý thuyết, các chứng khoán
là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là chứng khoán chính phủ, các chứng khoán
được phát hành bởi các doanh nghiệp hoặc ngân hàng gồm cả chứng khoán ngắn hạn

Page 6


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
và dài hạn. Các chủ thể trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở có thể là ngân hàng,
các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác.
Về mặt thực tế, nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch của NHTW trên
thị trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi và công cụ
giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở
các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao
dịch trên thị trường.
Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ ngắn
hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy, ở Nhật thị
trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ hoặc Đức cho phép
giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở. Xét theo thời hạn của chứng
khoán nợ thì thị trường mở ở những nước này bao gồm cả một phần của thị trường
chứng khoán. Theo cách này, khái niệm “ Nghiệp vụ thị trường mở” có ý nghĩa kinh
tế khi nó gắn với cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở”. Có nghĩa là, các giới hạn khác
nhau về đối tượng và các chr thể giao dịch của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở
sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước
1.3 Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trường mở
1.3.1 Tác động về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác
động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền
gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO) và tiền
gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác tham gia
OMO).
Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
NHTW

bán
GTCG

Page 7

Dự trữ
NH
giảm

Dự trữ mở
rộng cho
vay giảm

Khối
lượng TD
giảm

MS
giảm


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng
tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra.
Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ
làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ thống
ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút
dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế
khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện
mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như

vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân
hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung
ứng.
1.3.2 Tác động về mặt giá - tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián
tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn
NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương
thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này,
thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác
động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi
suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng
kinh tế sẽ được quyết định.
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Cung TPKB
tăng

Giá TPKB
giảm

LS thị trường
tăng

NHTW bán
TPKB

Dự trữ NH
giảm

Page 8


Đầu tư
giảm

Cung của quỹ
cho vay giảm

Lãi suất ngắn
hạn tăng

Lãi suất thị
trường tăng


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN

Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về
loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ
sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn
trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác
động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng.
Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi
suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm
tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc.
Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng
lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và
hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị
trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống

do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm
giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.4 Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
1.4.1 Các Nghiệp vụ thị trường mở
Trong nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu
không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi.
Một NHTW bản chứng khoán cho NHTM khác xét trong toàn cục chỉ là sự dịch
chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ dư thừa từ NHTM
này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động nhằm
thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại
những chuyển động của nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ.
1.4.2. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua bán hẳn).

Page 9


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của
NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường.
Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối
tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân hàng là dài hạn các
giấy tờ đó phải là các công cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải được phát hành bởi các tổ
chức đủ điều kiện theo quy định
1.4.3 Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn).
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các
hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao
dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi giới trên
thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong tương lai.
Giao dich mua mua bán có kỳ hạn tồn tại dưới dạng:

Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng mua
bán với người giao dịch và ngươi giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có giá của
NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW bán các
giấy tờ có giá cho người giao dịch và người giao dịch lại đồng ý bán lại các giấy tờ có
giá cho NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị trường mở
vì những lý do sau:
Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng, chi phí giao dịch của một hợp đồng
mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường hợp các
định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp
khắc phục; làm giảm thời gian thông báo, do đó mà làm giảm bớt biến động của thị
trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.

Page 10


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
1.4.4 Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thì NHTW đồng thời ký hai hợp
đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi
Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay
Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co kỳ hạn
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong nghiệp
vụ thị trường mở như: phát hành, chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các
chứng khoán đến hạn .
1.5 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phưong thức giao dịch
song phương và qua phương thức đấu thầu. Có 2 loại đấu thầu: Đấu thầu khối lượng

và đấu thầu lãi suất.
Phương thức giao dịch song phương.
Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau hoặc
giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không mua bán thông
qua hình thức đấu thầu.
Phương thức đấu thầu
 Đấu thầu khối lượng
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất được NHTW công bố
trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu
thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW công bố điều kiện đặt thầu để các
thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận mức lãi suất đã xác định
trước. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ
chức tham gia đặt thầu.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số lượng
đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc
Page 11


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều được
phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn khối lượng
NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên được phân
bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ được
phân bổ như sau:
n

Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/  bi trong đó:
i 1

- A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán

- n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- bi là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
-k

là tỷ lệ phân bổ thầu

Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (Wi)
được xác định như sau:
Wi = k x b i
 Đấu thầu lãi suất
Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số
tiền ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn.
- Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc mua
GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các mức lãi
suất từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu
tiên phân bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức
lãi suất thấp nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng
được phân phối thì quá trình phân bổ như sau:
Gọi: - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- rt : là mức lãi suất thứ t được đăng ký
- b(rt)i là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất rt
- b(rt) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi suất rt
- rm là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ thống
ngân hàng thì: r1  rt  rm
- k(rm) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng
Page 12


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN

A-

m 1

 b( r )
t 1

k(rm) =

t

B(rm)

Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(rm), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i
(Wi) tại mức lãi suất rm được xác định như sau:
W(rm) = k(rm) x b(rm)
- Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG thì
các quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và
đấu thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất đã
đăng ký trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu
đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất
đạt thầu.
1.6 Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
1.6.1 Tín phiếu kho bạc.(TB)
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt
tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng.
Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì:
-Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
-Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can

thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát
hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần
để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ.
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính
phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.

Page 13


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
1.6.2 Chứng chỉ tiền gửi (CD)
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính
phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất
định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn
hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản
lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một
hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi
tiền. Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó và do
đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp vụ thị trường mở.
1.6.3 Thương phiếu. (CP)
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam
kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.
Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn ngắn
hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với người
phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính
chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán. Việc mua bán
thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền
gửi của các khách hàng tại NHTM.
1.6.4 Trái phiếu chính phủ.

Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành
nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính
phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối
lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá
cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
1.6.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương
khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người

Page 14


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái
phiếu.
1.6.6 Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng làm
vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không
thanh toán nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều này phụ
thuộc vào:
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc
biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện
nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm
kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: Thời hạn, mức độ rủi
ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay
đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
1.7 Những bên tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia
thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau.

 Các Ngân hàng thương mại.
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để
duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua thị
trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì:
NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn gửi và
dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt
của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
 Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Page 15


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công ty
tài chính, quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập
qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn hạn hoặ
dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn và họ thường xuyên
thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự
tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
 Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để kiếm
lời trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các
loại chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… để
kiếm lời.
 Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá ngắn
hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các chứng
khoán phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi lãi
suất dự đoán.
 Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.

Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán
các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất kinh
doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua
nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.
 Ngân hàng Trung Ương.
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường
thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống
ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ.
Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều tiết hoạt động tín
dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh
Page 16


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện
theo đúng mục tiêu của nó.
 Kho bạc Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái
phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt động của
thị trường mở.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở
2.1 Thực trạng phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN:
2.1.1Thực trạng
OMO được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính sách
tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc dù vậy, việc
triển khai OMO cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần
từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ
chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng, kịp thời. OMO đang dần trở
thành kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp

phần quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM.
Thực tiễn điều hành OMO thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp các
NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường mở theo
hướng chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày. Lãi suất qua
kênh này cũng được giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7 ngày xuống còn 7,5% 7%/năm và tương đối ổn định suốt thời gian qua. Lãi suất của kỳ hạn 28 ngày cũng
giảm xuống ở mức khoảng 8%/năm. Hoạt động thị trường mở được duy trì 2 phiên
mỗi ngày, với khối lượng trúng thầu (loạt phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở
mức cao, khoảng 5.000 - 8.000 tỷ đồng, cao hơn so với trước kia. Trạng thái vốn ròng
được thị trường xác định cho thấy NHNN đang bơm tiền vào nền kinh tế thông qua
các NHTM. Điều này có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, các NHTM có thêm vốn để
cấp tín dụng, tức là gia tăng được lượng vốn khả dụng. Thứ hai, lãi suất cho vay có
điều kiện giảm do các NHTM có nhiều vốn để cho vay hơn. Thứ ba, các chủ thể kinh
tế nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận nguồn vốn do lượng cung nhiều hơn và lãi suất
Page 17


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
giảm thấp hơn. Cùng với các biện pháp tiền tệ như tăng khối lượng cho vay tái cấp
vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các NHTM quy mô nhỏ, giữ ổn định lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu,… việc NHNN mua vào giấy tờ có giá
với lãi suất thấp hơn đã góp phần không nhỏ ổn định thị trường tiền tệ - tín dụng.
Sau một thời gian hoạt động, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đã đạt được
những kết quả như sau:
Thứ nhất, các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn
thiện
Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN
đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ
bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng bước xử lý,
khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện
bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch.

Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Đến nay các GTCG được giao
dịch không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà còn cả các loại trái phiếu
dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán.
Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ
ngày đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày (T+1) năm 2001
và từ năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu
(T+0). Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ
tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và
OMO được thanh, quyết toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD.
Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường từ 10 ngày/phiên trong
thời gian bắt đầu hoạt động lên 1 tuần/phiên trong năm 2001, 2 phiên/tuần năm 2002.
Từ tháng 11/2004 hoạt động OMO đã thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, góp phần điều
tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong những dịp giáp Tết, NHNN đã thực hiện
giao dịch hàng ngày và tổ chức thêm các phiên giao dịch đột xuất (cá biệt 2

Page 18


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
phiên/ngày), giúp các TCTD đáp ứng kịp thời vốn đảm bảo khả năng thanh toán, đảm
bảo ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống.
Thủ tục đấu thầu ngày càng được cải tiến. Nhất là từ ngày 15/12/2004, NHNN
đã bắt đầu áp dụng công nghệ trang Web trong giao dịch OMO, cho phép thành viên
kết nối trực tuyến với NHNN, không phải đầu tư máy chủ, tiết kiệm chi phí đầu tư khi
tham gia nghiệp vụ này. Điều này đã tạo điều kiện thu hút thêm thành viên tham gia
thị trường, qua đó nâng cao vai trò điều tiết của công cụ này.
Thứ hai, OMO được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm
phát tín hiệu điều hành CSTT và thực hiện mục tiêu CSTT.
Từ tháng 7/2000 đến năm 2002, việc NHNN mua bán GTCG thông qua OMO

đã góp phần điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD theo mục tiêu CSTT trong
từng thời kỳ. Nhất là trong thời điểm các TCTD gặp khó khăn về vốn khả dụng, OMO
đã được kết hợp sử dụng đồng bộ với các công cụ CSTT khác như nghiệp vụ hoán đổi
ngoại tệ, nghiệp vụ cho vay cầm cố để hỗ trợ kịp thời cho các TCTD đảm bảo khả
năng thanh toán, góp phần duy trì ổn định tiền tệ và thực hiện mục tiêu CSTT.
Tỷ trọng doanh số mua qua OMO trong tổng doanh số hỗ trợ vốn của NHNN
qua các kênh (TCV, OMO và Swap) ngày càng tăng qua các năm, từ khoảng 45%
năm 2001 lên 75% năm 2003 và khoảng 82% từ năm 2004 đến nay. Điều này cho thấy
vai trò điều tiết vốn khả dụng của OMO ngày càng đóng vị trí quan trọng.
Trong năm 2003, do NHNN tăng cường mua ngoại tệ từ các TCTD nên vốn
khả dụng của các TCTD tăng lên. Để điều hoà vốn khả dụng VND của hệ thống ngân
hàng, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN thông qua OMO. Từ tháng 47/2003, trước xu hướng các TCTD liên tục tăng lãi suất huy động VND trong khi vốn
khả dụng vẫn dư thừa khá lớn, bên cạnh việc điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất chiết khấu, giảm tỷ lệ DTBB, NHNN đã liên tục chào mua GTCG trong các phiên
giao dịch OMO với lãi suất thấp nhằm phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn khả dụng
với chi phí thấp, các TCTD cần theo dõi và chủ động cân đối vốn hợp lý. Trong năm
2004 và 2005, chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng trong khi đó, mục tiêu tăng
trưởng kinh tế vẫn được Chính phủ và NHNN hết sức quan tâm thực hiện. NHNN liên
Page 19


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
tục chào mua GTCG để cung ứng vốn ra nền kinh tế nhằm góp phần hạ nhiệt lãi suất
thị trường. Chính vì vậy mà doanh số giao dịch OMO tăng đột biết trong 2 năm 20042005.
Nhìn chung, việc điều hành OMO đã được kết hợp tương đối đồng bộ với các
công cụ CSTT khác nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Lãi suất OMO đã kết hợp khá
chặt chẽ với lãi suất TCV, lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường.
Thứ ba, OMO là kênh để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn
vốn của các TCTD và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc
điều hành CSTT.

Trong điều kiện thông tin về thị trường tiền tệ còn chưa thu thập được đầy đủ
và kịp thời, kết quả hoạt động OMO có thể coi là kênh thông tin hữu hiệu phản ánh
một phần tình hình thị trường tiền tệ phục vụ cho điều hành CSTT. Thông qua việc
tổng hợp, phân tích các thông tin về khối lượng, lãi suất đặt thầu và trúng thầu trong
các phiên giao dịch OMO cũng có thể đưa ra các nhận định về vốn khả dụng của các
TCTD, cũng như xu hướng lãi suất thị trường.
Trong điều kiện NHNN chuyển sang điều hành bằng các công cụ tiền tệ gián
tiếp như hiện nay, việc dự báo trước các diễn biến của thị trường để có quyết định phù
hợp và kịp thời về việc điều chỉnh các công cụ CSTT ngày càng đóng vai trò quan
trọng. Bằng việc theo dõi, dự báo thường xuyên vốn khả dụng của các TCTD, NHNN
đã nắm bắt được các diễn biến về vốn của các TCTD để đưa ra các quyết định điều
hành OMO và điều hành CSTT nói chung.
Thứ tư, hoạt động OMO đã góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ các
TCTD sử dụng vốn có hiệu quả.
Thông qua hoạt động OMO, tính thanh khoản của các GTCG do các TCTD
nắm giữ được tăng cường. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ
cấp, giúp cho các TCTD yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của Chính
phủ, khuyến khích các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ.

Page 20


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Nhiều TCTD không chỉ coi việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức
đầu tư an toàn mà còn là hình thức dự trữ thanh khoản có hiệu quả cao. Khi cần thiết
để đảm bảo khả năng thanh toán, các TCTD có thể sử dụng các GTCG trong các giao
dịch OMO cũng như các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung, tạo điều kiện cho các
TCTD điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ suất đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong
hoạt động kinh doanh.
Qua theo dõi, phân tích các kết quả hoạt động OMO được công bố rộng rãi trên

các phương tiện thông tin, các TCTD có thể tham khảo về diễn biến thị trường để
quyết định việc tham gia các hoạt động thị trường tiền tệ, nắm bắt tín hiệu về định
hướng điều hành CSTT của NHNN để có hướng cân đối nguồn vốn thích hợp.
Thứ năm, công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các TCTD làm cơ sở
cho việc quyết định giao dịch OMO ngày càng được tăng cường.
Bộ phận quản lý vốn khả dụng đã cố gắng cải tiến phương pháp dự báo, nâng
cao chất lượng dự báo vốn khả dụng, khắc phục khó khăn trong thu thập thông tin,
khai thác tối đa các nguồn thông tin khác, thường xuyên trao đổi với các TCTD nhất
là các NHTMNN để nắm bắt diễn biến thị trường, qua đó giảm sai số khi dự báo, đáp
ứng yêu cầu ngày càng phát triển của công cụ này.
Bằng việc đưa hệ thống thông tin báo cáo mới của NHNN theo Quyết định số
477/2004/QĐ-NHNN vào áp dụng, NHNN đã bước đầu có điều kiện khai thác một số
thông tin về vốn khả dụng qua mạng. Thông tin về vốn khả dụng của các TCTD đã
được phản ánh toàn diện và kịp thời hơn. Các thành viên OMO đã có sự quan tâm,
chú trọng hơn đối với việce theo dõi, phân tích và dự báo luồng vốn, thực hiện quản lý
vốn ngày càng hiệu quả hơn để có thể tăng cường tham gia các nghiệp vụ thị trường
tiền tệ, nhất là nghiệp vụ OMO.
2.1.2 Những hạn chế và nguyên nhân
2.1.2.1 Những hạn chế
Qua các năm triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả khả quan của hoạt
động OMO thì vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định:

Page 21


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Thứ nhất, tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế
- Công cụ OMO chủ yếu phát huy vai trò điều tiết khối lượng vốn khả dụng của các
TCTD hơn là điều tiết lãi suất của thị trường. Nguyên nhân là do NHNN đang thực
hiện khối lượng tiền chứ không phải điều tiết lãi suất.

- Mặc dù lãi suất thị trường mở mang tính thị trường nhưng NHNN vẫn phải áp dụng
lãi suất chỉ đạo mang tính hành chính trong một số phiên giao dịch OMO, để qua đó
có thể can thiệp tới lãi suất của thị trường. Ngoài ra mối quan hệ giữa lãi suất OMO
cũng như các lãi suất khác của NHNN và lãi suất thị trường chưa thật chặt chẽ.
- Doanh số giao dịch OMO thấp, bình quân 373 tỷ đồng/phiên, nên mức độ tác động
của OMO đến các điều kiện thị trường vẫn còn khá khiêm tốn.
- Chưa có mối liên hệ rõ ràng giữa hoạt động của thị trường mở với tổng phương tiện
thanh toán của nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết, OMO tác động trực tiếp đến số dư tiền gửi của các ngân
hàng tại NHNN, là một bộ phận của tiền cơ sở MB. Mặt khác, MB lại là nhân tố cấu
thành M2. Vì vậy, về mặt lý thuyết thì giữa số dư ròng OMO và M2 phải có mối quan
hệ hàm số với nhau.
Qua theo dõi sự biến động theo từng quý của số dư ròng OMO và M2 tại Việt
Nam trong 5 năm qua (22 quan sát), có thể nhận xét như sau: Nhìn chung giữa số dư
ròng của OMO và M2 có sự biến động không cùng chiều với nhau và không có mối
quan hệ hàm số. Cụ thể: M2 tăng trưởng đều hàng quý, với tỷ lệ tăng trưởng hàng quý
bình quân khoảng 6,05% trong khi số dư ròng OMO biến động không đều, lúc tăng
lúc giảm với biên độ khá lớn.
Thứ hai, hoạt động thị trường mở còn một số bất cập
- Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa NHNN và các thành viên
còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao dịch
với NHNN;

Page 22


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
- Các ngân hàng khi muốn lưu ký GTCG để tham gia các giao dịch với NHNN đều
phải đến trực tiếp Sở Giao dịch NHNN để hoàn thành các thủ tục. NHNN chưa cho
phép đăng ký lưu ký GTCG thông qua trang Web của NHNN để giảm thiểu thủ tục

giấy tờ và việc nhập liệu thủ công của Sở Giao dịch NHNN.
- NHNN không thông báo định hướng phân bổ tỷ trọng mua/bán giữa các loại GTCG
như trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, công trái … trước từng phiên giao dịch.
Nhiều ngân hàng đã bị trượt thầu trong một số phiên do không nắm được định hướng
tỷ lệ phân bổ xét thầu cho từng loại GTCG của NHNN nên đã đặt thầu giao dịch với
các loại GTCG mà NHNN mua/bán với khối lượng thấp mặc dù đã đặt thầu ở mức lãi
suất cạnh tranh.
- NHNN chưa chấp nhận hoàn toàn các chữ ký điện tử trong các giao dịch với NHNN.
Hiện nay mặc dù bản đăng ký mua bán GTCG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng đều
được ký duyệt chữ ký điện tử trên mạng, Sở Giao dịch NHNN yêu cầu phải có chữ ký
của lãnh đạo NHTM trên bản in để chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký điện tử và
chữ ký cấp phòng của NHTM được uỷ quyền.
- Thời gian để rút được GTCG lưu ký ra khỏi NHNN phải chờ đợi lâu (thường đến 5-7
ngày), do Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM phải đợi bản gốc văn bản của
NHNN gửi đến mới hoàn tất thủ tục cho khách hàng.
Thứ ba, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động.
Tuy thời gian triển khai không còn ngắn nhưng công cụ OMO vẫn đang còn là
một nghiệp vụ mới đối với một số các TCTD, nhất là các NHTMCP. Việc tham gia thị
trường mở vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, hạn chế. Các NHTMCP tham gia không thường
xuyên và không nhiều. Điều này xuất phát từ nguyên nhân các NHTMCP chưa nhận
thức được đầy đủ các ưu điểm của công cụ này. Bên cạnh đó, vấn đề tâm lý khi giao
dịch với NHNN vẫn chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn.
Trong mỗi phiên giao dịch OMO thường chỉ có từ 1 đến 5 thành viên tham gia,
chiếm tỷ lệ tương đối thấp so với tổng số các thành viên đăng ký tham gia OMO và
chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số các TCTD. Các thành viên tích cực tham gia vẫn là các
Page 23


Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
NHTMNN và một số NHTMCP. Điều này làm giảm hiệu quả và mức độ tác động của

NHNN tới dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, kỳ hạn mua bán GTCG ngắn và chưa đa dạng
Hiện nay, NHNN chỉ thực hiện thống nhất một loại kỳ hạn giao dịch trong một
phiên đấu thầu. Điều này đã hạn chế sự lựa chọn về kỳ hạn của các thành viên thị
trường, mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian của các thành viên là khác nhau.
Bên cạnh đó, NHNN chỉ thực hiện giao dịch theo một chiều nhất định (mua hoặc bán
GTCG) trong một phiên và chủ yếu thực hiện việc mua GTCG nên các TCTD cũng
không thể tham gia nếu không phù hợp với nhu cầu vốn của họ. Điều này đã được
chứng minh trong thực tế khi tại nhiều phiên giao dịch, không có thành viên nào tham
gia.
Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182
ngày nhưng trên thực tế, NHNN thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7-30 ngày,
dẫn đến các khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời gian ngắn
và tăng gánh nặng thanh toán cho các NHTM.
2.1.2.2 Nguyên nhân
Thứ nhất, thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các kênh
truyền dẫn tác động CSTT chưa hoàn thiện làm hạn chế hiệu quả các công cụ CSTT.
Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ còn nhiều khó khăn. Đến nay
NHNN vẫn chưa có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường
tiền tệ liên ngân hàng. Việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng vẫn còn có những khó
khăn nhất định. Trong khi đó, bản thân một số TCTD thành viên cũng gặp khó khăn
trong việc nắm bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình
thị trường thông qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác
diễn biến thực tế.
Chính vì vậy cho đến nay, NHNN vẫn chưa xây dựng được cơ chế truyền tải
của CSTT và chưa lượng hoá được mức độ tác động của các công cụ CSTT đến M2
và các chỉ tiêu vĩ mô khác của nền kinh tế. Đây là một trong những nhược điểm lớn
trong điều hành CSTT của NHNN.
Page 24



Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN
Thứ hai, cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO còn bất cập. Sự không đồng bộ
trong ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn
chế số lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTMCP (các chương trình phần
mềm ứng dụng từ năm 2000-2004 còn có sự tách biệt nên khó sử dụng đối với các
thành viên ít giao dịch). Việc nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho các
nghiệp vụ thị trường mở nói riêng và các nghiệp vụ của NHNN nói chung còn chậm
làm hạn chế đến tiến độ triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại vào các giao dịch
nghiệp vụ thị trường tiền tệ trong đó có nghiệp vụ OMO.
Thứ ba, nhiều TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu
quả của công cụ này.NHNN đã tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức
tập huấn triển khai hoạt động thị trường mở … nhằm phát triển hoạt động OMO nói
riêng cũng như các hoạt động thị trường tiền tệ nói chung nhưng vẫn chưa được một
số TCTD thực sự quan tâm. Số lượng thành viên thường xuyên tham gia OMO đã
tăng nhưng vẫn còn hạn chế, chỉ có 14/29 TCTD thường xuyên tham gia các giao dịch
OMO. Điều này không chỉ làm hạn chế sự tác động của OMO đến thị trường mà còn
hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của TCTD.
Thứ tư, hàng hoá của OMO tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa thực sự đa
dạng hoá. Trong thời gian từ năm 200-2003, công cụ giao dịch OMO chỉ bao gồm các
GTCG ngắn hạn. Thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, danh
mục GTCG đã được mở rộng, lượng GTCG có thể giao dịch trong OMO đã tăng lên,
song vẫn tập trung tại các NHTMNN.
Kỳ hạn của trái phiếu, tín phiếu Chính phủ – loại hàng hoá chủ yếu trong
OMO – vẫn chưa thực sự đa dạng hoá, nhất là các tín phiếu kho bạc với thời hạn dưới
364 ngày ít được phát hành. Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện
đầu tư vào GTCG, tạo hàng hoá tham gia OMO và các nghiệp vụ thị trường tiền tệ
khác.
2.2 Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng
nhà nước

1. Bổ sung thêm hàng hoá giao dịch trên thị trường mở
Page 25


×