Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Những vấn đề lí luận và thực tiễ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.88 KB, 70 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

1

Vũ thị huệ

mở đầu
Nhìn lại hai mơi năm đổi mới kể từ năm 1986, chúng ta đã đạt đợc những
thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên cả hai mặt lí luận và thực
tiễn. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ tr ơng giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, coi đây là một hớng chiến lợc thể hiện bản chất u việt của
chế độ ta. Thực hiện các chính sách xã hội hớng vào phát triển và lành mạnh
hoá xã hội, thể hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát
triển sản xuất, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân
dân làm giàu hợp pháp [1, tr.33]. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt đợc,
chúng ta vẫn còn những yếu kém và khuyết điểm, không ít vấn đề bức xúc nảy
sinh cha đợc giải quyết, đặc biệt trong những năm qua tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp, nhiều vụ án xảy ra với tính chất, hậu quả rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng [10, tr.1].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nớc ta có nhiệm vụ bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nớc cũng nh của nhân dân. Với vai trò là nền
tảng kinh tế xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một trong những vấn đề trọng
yếu đợc nhà nớc bảo vệ bằng mọi biện pháp trong đó biện pháp pháp lý hình sự
thể hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực nhà nớc trong xử lý các hành vi xâm
phạm tới chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp tài sản
là tội xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản, nó xảy ra khá phổ biến. ở
mỗi giai đoạn phát triển, nhà nớc đều có những quy định về tội trộm cắp tài sản
và biện pháp xử lý nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội. Những
năm gần đây tội trộm cắp tài sản diễn biến phức tạp gây hậu quả ngày càng
nghiêm trọng, ảnh hởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Riêng thành phố Hà
Nội trong năm 2006 đã thụ lý xét xử 1555 vụ trộm cắp tài sản, 2016 bị cáo,


chiếm 26,9%, gây thiệt hại 17.362.096.769 đồng [10, tr.4]. Nhờ sự phối hợp
chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hoạt động xét xử của ngành toà án


Khoá luận tốt nghiệp

2

Vũ thị huệ

từng bớc đợc nâng cao, số lợng các bản án bị huỷ đã giảm, song bên cạnh đó vẫn
còn nhiều tồn tại khuyết điểm mà một trong những nguyên nhân là các cơ quan
bảo vệ pháp luật không đánh giá đúng bản chất của hành vi phạm tội dẫn đến
xác định sai tội danh, hoặc xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Để khắc phục tình trạng
trên thì vấn đề cốt lõi đầu tiên là phải nắm vững các quy định pháp luật về tội
phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm tội từ đó có đờng lối xử lý
đúng đắn đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Nhận thức đợc
điều đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: Tội trộm cắp tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Những vấn đề lí luận và thực tiễn
làm khoá luận tốt nghiệp cho mình với hy vọng giúp có đợc cái nhìn toàn diện,
đúng đắn về tội trộm cắp tài sản.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản, trớc hết phải kể
đến Giáo trình Luật hình sự của Trờng Đại học Luật Hà Nội, Trờng Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Bình luận khoa học BLHS phần Các tội xâm phạm sở hữu đã
phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản, tiếp đó là các công trình
nghiên cứu cá nhân nh tác giả Vũ Thiện Kim với Trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của công dân, tác giả Thân
Nh Thành với luận văn thạc sĩ luật học Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả Nguyễn Ngọc Chí với Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu cùng nhiều công trình nghiên

cứu khác. Song các công trình nghiên cứu đó hoặc là về các tội xâm phạm sở
hữu nói chung hoặc là nghiêng về mặt đấu tranh phòng chống tội phạm, cha có
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tội trộm cắp tài sản. Khoá luận này đã
đi sâu tìm hiểu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, tìm ra những dấu hiệu pháp lý
đặc trng của tội phạm, những vấn đề cơ bản về TNHS của ngời phạm tội, đồng
thời phát hiện những điểm bất hợp lý trong các quy định đó, đa ra ý kiến cá nhân
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về tội trộm cắp tài sản.
Để đạt đợc mục tiêu đề ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng
phơng pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phơng pháp so
sánh. Nghiên cứu tội trộm cắp tài sản trong sự vận động nội tại phát triển của nó,


Khoá luận tốt nghiệp

3

Vũ thị huệ

trong mối quan hệ với các quy định khác của luật hình sự nh: chế định đồng
phạm, chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm... Tác giả cũng đã nghiên cứu
tội trộm cắp tài sản qua các giai đoạn để thấy đợc sự phát triển của các quy định
về tội trộm cắp tài sản, đồng thời có so sánh quy định pháp luật về tội trộm cắp
tài sản với các quy định khác của BLHS để thấy đợc những điểm hợp lý và cha
hợp lý trong các quy định đó.
Khoá luận có ý nghĩa về mặt lý luận cũng nh thực tiễn, những kết quả
nghiên cứu của khoá luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự, đồng thời có thể phục vụ thiết thực cho
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Để nghiên cứu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, ngoài phần mở đầu, kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo, tác giả đã chia khoá luận làm hai chơng.

Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của tác giả, trong quá trình
nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, với tinh thần học hỏi cầu tiến tác
giả rất mong nhận đợc sự góp ý của các thầy cô và các bạn. Qua đây, tác giả
muốn bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến thầy giáo - thạc sỹ Hoàng Văn Hùng đã
giúp đỡ tác giả, cảm ơn bạn bè đã luôn ủng hộ để tác giả có thể hoàn thành tốt
khoá luận này.
Xin chân thành cảm ơn!


Khoá luận tốt nghiệp

4

Vũ thị huệ

chơng 1: lịch sử lập pháp hình sự việt nam về tội
trộm cắp tài sản từ năm 1945 đến nay và dấu hiệu pháp
lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của bộ luật
hình sự việt nam năm 1999

1.1. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản từ năm 1945
đến nay
Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm xuất hiện từ rất sớm và
khá phổ biến. Từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời, để bảo vệ tài sản là nền tảng vật chất của xã hội, ở
mỗi giai đoạn Nhà nớc đều ban hành các quy định về tội trộm cắp tài sản nhằm
đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
1.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trớc khi ban hành
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Cách mạng thành công, Nhà nớc mới đợc thành lập phải đối phó với thù

trong giặc ngoài và hoàn cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nớc còn khó khăn,
để giải quyết các vụ án hình sự Nhà nớc đã ban hành Sắc lệnh số 47- SL ngày
10-10-1946 tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ cho đến khi
ban hành các văn bản pháp luật thống nhất trong toàn quốc. Để bảo vệ chính
quyền mới, Sắc lệnh số 47 quy định: Những điều khoản trong các luật lệ cũ đợc tạm thời giữ lại do sắc lệnh này chỉ đợc thi hành khi nào không trái với
nguyên tắc độc lập của Nhà nớc Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà. Sắc
lệnh số 47 đợc ban hành kịp thời đã hạn chế tới mức thấp nhất sự xáo trộn trong
đời sống và quan hệ thờng nhật của nhân dân, góp phần ổn định xã hội. Trong
giai đoạn này Nhà nớc cũng đã ban hành một số Sắc lệnh quy định về tội trộm
cắp tài sản nh: Sắc lệnh số 12 ngày 12-3-1949 quy định trừng trị các hành vi
trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kì chiến tranh; Sắc lệnh số
267 ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mu và hành động phá hoại tài sản của


Khoá luận tốt nghiệp

5

Vũ thị huệ

Nhà nớc, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách
kế hoạch của Nhà nớc về xây dựng kinh tế và văn hoá. Điều 2 Sắc lệnh 267 quy
định: Ngời phạm các tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, huỷ hoại, cớp bóc tài
sản của Nhà nớc, của hợp tác xã, của nhân dân với mục đích phá hoại sẽ bị xử
phạt từ năm năm đến hai mơi năm tù. Sắc lệnh này nghiêm trị những ngời
phạm tội vì mục đích phá hoại tài sản của Nhà nớc, của hợp tác xã, của nhân
dân hoặc vì mục đích phá hoại mà làm cản trở đến việc thực hiện kế hoạch chính
sách của Nhà nớc về kinh tế, văn hóa.
Ngoài các Sắc lệnh trên, ở giai đoạn này phải kể đến sự ra đời của hai bản
Pháp lệnh năm 1970 đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN

và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân đợc Uỷ ban
Thờng vụ Quốc hội thông qua ngày 21-10-1970. Pháp lệnh quy định: Tài sản
xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nớc (tức sở hữu
toàn dân), và tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã và các tổ chức hợp pháp khác
(tức sở hữu của tập thể); tài sản của công dân gồm: của cải do sức lao động
của công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để dành đợc
nh tiền bạc, xe cộ, nhà cửa... và những đồ dùng riêng khác.
Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định tội
trộm cắp tài sản XHCN nh sau:
1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
năm năm. 2. Phạm tội trong những trờng hợp sau đây: a. Có tính chất chuyên
nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b. Có tổ chức; c. Có móc ngoặc; d. Dùng thủ
đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; e. Trộm cắp tài sản với số lợng lớn hoặc tài sản có
giá trị đặc biệt; f. Dùng tài sản trộm cắp đợc vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu
cơ, hoặc vào những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
3. Phạm tội trong trờng hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều tình
tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mời
hai năm đến hai mơi năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.


Khoá luận tốt nghiệp

6

Vũ thị huệ

Trong thời kì này, Nhà nớc cũng chú trọng bảo vệ tài sản riêng của công
dân, Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy
định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân nh sau: 1. Kẻ nào trộm cắp tài sản
riêng của công dân thì bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc

những trờng hợp sau: a. Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b. Có tổ chức; c. Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d. Gây hậu quả nghiêm trọng đến
đời sống của ngời bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt
tù từ hai năm đến mời năm. 3. Phạm tội trong trờng hợp gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mời lăm năm [6, tr.713].
Hai bản Pháp lệnh trên thể hiện nguyên tắc cơ bản của Nhà nớc ta là: kiên
quyết bảo vệ tài sản XHCN, coi tài sản XHCN là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm; quán triệt nguyên tắc: Nhà nớc bảo hộ tài sản riêng của công dân, chống
mọi hành vi xâm phạm, bất kì ai có hành vi xâm phạm đến tài sản của Nhà nớc
và tài sản riêng của công dân đều phải đợc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh. Đồng thời Pháp lệnh cũng thể hiện nguyên tắc xử lý ngời phạm tội là:
nghiêm trị bọn lu manh chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm tội có tổ chức,
bọn lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, xử lý nhẹ hoặc miễn hình phạt cho
những ngời tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thờng
thiệt hại đã gây ra. Hai bản pháp lệnh đã xây dựng hai cấu thành tội phạm hoàn
chỉnh về tội trộm cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài
sản riêng của công dân, đã quy định cụ thể và tập trung các tình tiết tăng nặng
định khung trong điều luật, có các khung hình phạt tơng ứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của tội phạm, góp phần phân hoá TNHS ngời phạm tội.
ở giai đoạn này, những văn bản pháp luật quy định về tội trộm cắp tài sản
còn tản mạn, riêng lẻ nhng nó phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, tuy
nhiên vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài
sản của công dân.


Khoá luận tốt nghiệp

7

Vũ thị huệ


1.1.2. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
Từ những văn bản tản mạn riêng lẻ, BLHS năm 1985 đợc Quốc hội khoá
VII thông qua ngày 27-6-1985, thể hiện dới hình thức bộ luật - một hình thức
lập pháp cao, đã trình bày có hệ thống, toàn diện phần chung cũng nh phần các
tội phạm có tính bao quát về tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác
dụng bảo vệ thành quả cách mạng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp khác của công dân. BLHS 1985 về các tội xâm phạm sở hữu rất
tiêu biểu cho thời kì quá độ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, theo
đó chỉ có hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi xâm phạm sở hữu XHCN
và hành vi xâm phạm sở hữu của công dân quy định ở hai chơng: Các tội xâm
phạm sở hữu XHCN và Các tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Điều 132 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản XHCN nh sau:
1. Ngời nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội
thuộc một trong các trờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mời hai
năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b. Dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm; c. Hành hung để tẩu thoát; d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị
lớn; đ. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trờng hợp đặc biệt nghiêm trọng
thì bị phạt tù từ mời năm đến hai mơi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 155 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản của công dân nh sau:
1. Ngời nào trộm cắp tài sản của ngời khác thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội thuộc
một trong các trờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mời năm: a. Có tổ
chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm,
hành hung để tẩu thoát; c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác; d. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trờng hợp đặc
biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mơi năm.



Khoá luận tốt nghiệp

8

Vũ thị huệ

BLHS 1985 đã trở thành một cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử lý ngời
phạm tội, song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm
cắp tài sản của công dân, theo đó ngời phạm tội trộm cắp tài sản XHCN bị xử lý
nghiêm khắc hơn ngời phạm tội trộm cắp tài sản của công dân, điều đó thể hiện
đờng lối xử lý của Nhà nớc ta đối với ngời phạm tội trộm cắp tài sản. Qua bốn
lần sửa đổi bổ sung, BLHS 1985 không còn là một chỉnh thể thống nhất cần có
một BLHS mới thay thế, vì vậy BLHS 1999 đã ra đời thay thế BLHS 1985 trên
cơ sở có kế thừa và phát triển cho phù hợp với điều kiện xã hội.
1.1.3. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999
Với chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hớng XHCN, các thành phần kinh tế bình đẳng trớc pháp luật đòi hỏi phải xem
xét rà soát lại một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để có những
sửa đổi bổ sung thích hợp cả về mặt dấu hiệu pháp lý cũng nh chính sách xử lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn
mới. Ngày 21-12-1999 Quốc hội khoá X đã thông qua BLHS của nớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (Bộ luật có hiệu lực từ ngày 1-7-2000). Bộ
luật có quy định rất cụ thể về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm
cắp tài sản nói riêng. Điều 138 BLHS 1999 quy định tội trộm cắp tài sản nh sau:
1. Ngời nào trộm cắp tài sản của ngời khác có giá trị từ năm trăm nghìn
đồng đến dới năm mơi triệu đồng hoặc dới năm trăm nghìn đồng nhng gây hậu
quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc
đã bị kết án về tội chiếm đoạt cha đợc xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt

cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2.
Phạm tội thuộc một trong các trờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm: a. Có tổ chức; b. Có tính chất chuyên nghiệp; c. Tái phạm nguy hiểm;
d. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ. Hành hung để tẩu thoát; e. Chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ năm mơi triệu đồng đến dới hai trăm triệu đồng; g. Gây
hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trờng hợp sau đây thì bị


Khoá luận tốt nghiệp

9

Vũ thị huệ

phạt tù từ bảy năm đến mời lăm năm: a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai
trăm triệu đồng đến dới năm trăm triệu đồng; b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ mời hai năm
đến hai mơi năm hoặc tù chung thân: a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm
trăm triệu đồng trở lên; b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Ngời phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến dới năm mơi triệu đồng.
Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói
riêng, BLHS 1999 đã có những thay đổi đáng kể so với BLHS 1985 khi chỉ xây
dựng một chơng: Các tội xâm phạm sở hữu, bao quát tất cả các hình thức sở hữu
đã đợc BLDS quy định, bảo đảm vị trí bình đẳng của các thành phần kinh tế
đồng thời vẫn thể hiện đợc sự đề cao vai trò của sở hữu Nhà nớc khi quy định
hành vi xâm phạm sở hữu của Nhà nớc là một tình tiết tăng nặng TNHS tại
Điều 48 BLHS [22, tr.25]. Đối với tội trộm cắp tài sản, BLHS 1999 không còn
quy định thành hai tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản của công
dân mà quy định thống nhất thành tội trộm cắp tài sản, vấn đề định lợng giá trị
tài sản bị chiếm đoạt là tình tiết định tội và định khung hình phạt là những điểm

thay đổi cơ bản của BLHS 1999 so với BLHS 1985.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999
ở mỗi giai đoạn lập pháp hình sự, Nhà nớc đều ban hành các quy định về
tội trộm cắp tài sản và đờng lối xử lý ngời phạm tội, song các văn bản pháp luật
đều không đa ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản, nh vậy cần tìm hiểu thế nào là
tội trộm cắp tài sản.
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, trộm cắp tài sản đợc
hiểu là hành vi lén lút bí mật đối với ng ời quản lý tài sản để chiếm đoạt tài
sản. Cũng có cách hiểu trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản
của ngời khác [11, tr.196]. Nh vậy trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản, tính chất của hành vi là lén lút bí mật và đối tợng là tài sản đang có ngời
quản lý.


Khoá luận tốt nghiệp

10

Vũ thị huệ

Trên cơ sở khái niệm tội phạm đợc quy định tại Điều 8 BLHS: Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngời có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý..., có thể đa ra
khái niệm về tội trộm cắp tài sản nh sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của ngời khác, do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện với lỗi cố ý, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản đợc pháp luật bảo vệ.
Trên đây là khái niệm chung nhất về tội trộm cắp tài sản, để hiểu đợc tính
chất nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản cần nghiên cứu về các dấu
hiệu pháp lý của nó. Tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: khách thể, mặt

khách quan, mặt chủ quan, chủ thể. Tội trộm cắp tài sản cũng bao gồm bốn yếu
tố cơ bản trên, trớc hết cần nghiên cứu về khách thể của tội phạm.
1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đợc luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Bất kì tội phạm nào cũng đều xâm hại đến một hoặc một số
quan hệ xã hội nhất định đợc luật hình sự bảo vệ bằng cách gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó. Những đối tợng đợc xác định cần
bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hình sự bao gồm: Độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ
chức, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích
hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa (Điều 8 BLHS). Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở
hữu, khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài sản. Sở hữu, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là tổng thể các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất giữa con ngời với nhau
trong xã hội. Quan hệ sở hữu tài sản là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đợc pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Pháp luật dân
sự Việt Nam quy định một ngời đợc coi là chủ sở hữu tài sản khi ngời đó có đầy
đủ ba quyền năng: quyền chiếm hữu là quyền quản lý, chi phối tài sản; quyền sử


Khoá luận tốt nghiệp

11

Vũ thị huệ

dụng là quyền khai thác các lợi ích vật chất và tinh thần từ tài sản; quyền định
đoạt là quyền quyết định số phận của tài sản nh bán, cho thuê... Khi có hành vi

trộm cắp tài sản (hành vi chiếm đoạt tài sản) làm cho chủ sở hữu tài sản không
có khả năng thực hiện đợc các quyền năng đó của mình trên thực tế, nghĩa là
quyền sở hữu tài sản của họ bị xâm phạm.
Đối với hành vi trộm cắp tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài
sản thì khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, vậy đối với
những tài sản không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản nh: tài sản do
chiếm hữu bất hợp pháp, tài sản do phạm tội mà có... thì những tài sản mà ngời
bị chiếm đoạt có đợc không đợc pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Luật hình sự đã
khẳng định khách thể của tội phạm phải là quan hệ xã hội đợc luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại, vì vậy trong trờng hợp này khách thể của tội trộm cắp
tài sản không phải là quan hệ sở hữu tài sản. Hành vi phạm tội trộm cắp tài sản
là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, bị xã hội lên án, nó
ảnh hởng đến tình hình trật tự, an toàn xã hội. Do đó, trong trờng hợp này khách
thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ xã hội liên quan đến trật tự an toàn xã hội.
Nếu cho rằng khách thể của tội trộm cắp tài sản chỉ là quan hệ sở hữu tài sản thì
trờng hợp trên sẽ không cấu thành tội phạm, điều này bất hợp lý và dẫn đến bỏ
lọt tội phạm khi hành vi trộm cắp tài sản hợp pháp thì phạm tội còn hành vi trộm
cắp tài sản bất hợp pháp thì không phạm tội. Vì vậy khi có hành vi chiếm đoạt
tài sản của ngời khác, dù tài sản đó có thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài
sản hay không thì vẫn là trộm cắp tài sản.
Khi nghiên cứu khách thể của tội phạm không thể không tìm hiểu đối tợng
tác động của tội phạm vì mỗi tội phạm đều xâm hại tới khách thể nhất định
thông qua việc tác động đến một đối tợng cụ thể. Là quan hệ xã hội nên khách
thể của tội phạm đợc cấu thành bởi ba bộ phận là chủ thể của quan hệ xã hội
(con ngời), đối tợng của quan hệ xã hội (các vật, hiện tợng tồn tại khách quan),
nội dung của quan hệ xã hội (sự hoạt động bình thờng của các chủ thể). Khách
thể của tội phạm không tách rời các bộ phận cấu thành, vì vậy khi xâm hại tới
khách thể thì hành vi phạm tội phải tác động đến các bộ phận cấu thành nên



Khoá luận tốt nghiệp

12

Vũ thị huệ

khách thể làm biến đổi tình trạng bình thờng của các bộ phận đó. Các bộ phận
cấu thành nên khách thể bị hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho khách thể bảo vệ của luật hình sự gọi là đối tợng tác
động của tội phạm. Đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi phạm tội là hành vi
chiếm đoạt tài sản của ngời khác, đó là sự dịch chuyển một cách trái pháp luật
tài sản của ngời khác thành tài sản của mình làm biến đổi tình trạng bình thờng
của tài sản. Vì vậy đối tợng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản, nhng
không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tợng tác động của tội trộm cắp
tài sản, để trở thành đối tợng tác động của tội trộm cắp tài sản thì tài sản đó phải
có những đặc điểm nhất định. Trớc hết tài sản đó phải là tài sản của ngời khác,
đang có sự quản lý. Hành vi lấy đi tài sản của mình, do mình quản lý hoặc tài
sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản nh tài sản bị bỏ quên, đánh
rơi, tài sản vô chủ, hoặc tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu thì không
phải là hành vi trộm cắp tài sản mà có thể cấu thành tội khác nh tội chiếm giữ
trái phép tài sản (Điều 141 BLHS). Tài sản là đối tợng tác động của tội trộm cắp
tài sản phải đợc thể hiện dới dạng vật chất cụ thể có giá trị và giá trị sử dụng,
Điều 163 BLDS 2005 quy định: Tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản.
Vật có thể trở thành đối tợng tác động của tội trộm cắp tài sản nếu nó
nằm trong sự chiếm hữu của con ngời, tiền bao gồm tiền Việt Nam và tiền nớc
ngoài đang đợc lu hành trên thị trờng, giấy tờ có giá gồm hai loại là giấy tờ có
giá ghi danh có ghi tên chủ sở hữu và giấy tờ có giá vô danh không ghi tên chủ
sở hữu, ai nắm giữ nó thì có quyền sở hữu nó, vì vậy chỉ có giấy tờ có giá vô
danh mới có thể trở thành đối tợng tác động của tội trộm cắp tài sản vì khi lấy

nó ngời phạm tội mới thực hiện đợc quyền của chủ sở hữu, còn với giấy tờ có
giá ghi danh chỉ có chủ sở hữu mới có thể thực hiện đợc quyền sở hữu của mình
nó không thể bị dịch chuyển một cách trái phép bởi hành vi chiếm đoạt. Đối với
tài sản là quyền tài sản nh quyền đòi nợ..., nó tồn tại dới dạng vô hình không
nhìn thấy sờ thấy nó gắn liền với một chủ thể nhất định, trình tự xác lập thực
hiện quyền sở hữu đối với tài sản đó tuân theo quy định pháp luật và không thể


Khoá luận tốt nghiệp

13

Vũ thị huệ

bị dịch chuyển trái phép bởi hành vi chiếm đoạt nên quyền tài sản cũng không
phải là đối tợng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Tài sản là đối tợng tác động của tội trộm cắp tài sản phải tồn tại dới dạng
một động sản theo quy định của BLDS. Những tài sản thuộc loại bất động sản có
tính chất vật lý cố định không di dời đợc nh đất đai, nhà cửa... không là đối tợng
tác động của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên có một số tài sản nếu tách riêng thì
nó là động sản nhng luật dân sự quy định là bất động sản do công dụng của nó
nh cánh cửa gắn liền với ngôi nhà, cây cối trồng trên đất... vẫn có thể là đối tợng
tác động của tội trộm cắp tài sản. Cần lu ý là, đối với tài sản đặc thù pháp luật có
quy định riêng nh: tàu bay, tàu thuỷ, vũ khí quân dụng, phơng tiện kĩ thuật quân
sự, đất đai, chiến lợi phẩm... không thể là đối tợng tác động của tội trộm cắp tài
sản dù nó có bị hành vi phạm tội xâm hại tới, mà nó sẽ là đối tợng tác động của
các tội phạm khác nh tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 221 BLHS), tội
chiếm đoạt vũ khí quân dụng phơng tiện kĩ thuật quân sự (Điều 230 BLHS)...
Nghiên cứu đối tợng tác động của tội phạm có ý nghĩa quan trọng vì thực
tiễn chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xử lý cha đúng ngời

đúng tội là do cha xác định đúng đối tợng tác động của tội phạm, còn nhầm lẫn
giữa đối tợng tác động của tội này với đối tợng tác động của tội khác. Vì vậy để
đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả thì phải xác định đúng đối tợng tác
động của tội phạm.
Để tìm hiểu về những biểu hiện bên ngoài của tội trộm cắp tài sản cần
nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm với những dấu hiệu pháp lý của nó.
1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm
bao gồm: Hành vi (khách quan) nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm;
cũng nh những biểu hiện bên ngoài khác liên quan đến việc thực hiện tội phạm
nh: công cụ phơng tiện, địa điểm, thời gian phạm tội...
Biểu hiện thứ nhất thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi phạm tội.
BLHS quy định tội phạm phải đợc thể hiện bằng hành vi, theo đó hành vi khách


Khoá luận tốt nghiệp

14

Vũ thị huệ

quan của tội phạm là những biểu hiện của con ngời ra bên ngoài thế giới khách
quan đợc ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển, có tính nguy hiểm cho xã hội và
đợc quy định trong BLHS. Theo cách hiểu truyền thống từ xa đến nay cũng nh
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, hành vi khách quan của tội trộm cắp
tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ngời khác. Chiếm đoạt dới góc
độ pháp lý là việc cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của ngời khác
thành tài sản của mình, làm cho chủ tài sản không có khả năng thực hiện đợc
quyền chủ sở hữu đối với tài sản đó trên thực tế mặc dù về mặt pháp lý không

làm cho chủ sở hữu mất đi quyền sở hữu tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt
trong tội trộm cắp tài sản phải có tính chất lén lút (đợc thực hiện bằng thủ đoạn
lén lút). Lén lút đợc hiểu là hành vi cố ý giấu diếm, vụng trộm không để lộ ra
do có ý gian [15, tr.467]. Lén lút chiếm đoạt tài sản trong tội trộm cắp tài sản
là hành vi của một ngời cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng trộm, giấu
diếm không để lộ ra cho ngời khác biết nhằm chiếm đoạt tài sản của ngời khác,
nó có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của ngời phạm tội
cũng là lén lút. Hành vi chiếm đoạt đợc coi là lén lút nếu đợc thực hiện bằng
hình thức có khả năng không cho phép chủ tài sản biết khi hành vi này xảy ra, ví
dụ: lợi dụng lúc chủ nhà đi vắng, ngời phạm tội đã đột nhập vào nhà lấy trộm tài
sản; ý thức chủ quan của ngời phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi
chiếm đoạt ngời này có ý thức che giấu hành vi mình đang thực hiện. Việc che
giấu này chỉ đòi hỏi với chủ tài sản còn với những ngời khác ngời phạm tội có
thể lén lút hoặc công khai thực hiện hành vi phạm tội. Trong thực tế, hành vi
lén lút chiếm đoạt tài sản có thể đợc thực hiện dới những hình thức khác nhau:
có thể ngời phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt một cách giấu diếm vụng
trộm, che giấu toàn bộ sự việc phạm tội, ví dụ: Nguyễn Thị H là ngời giúp việc
cho gia đình anh N. Nhân lúc chủ nhà đi vắng H đã lấy trộm tài sản nhà anh N
rồi bỏ đi; có thể ngời phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt công khai, trắng
trợn không có ý che đậy giấu diếm hành vi phạm tội, họ chỉ che giấu hành vi
phạm tội với chủ tài sản: hoặc là công khai sự vi phạm pháp luật cuả hành vi
phạm tội nh: ngời phạm tội ngang nhiên móc trộm ví của chủ tài sản ngay trớc


Khoá luận tốt nghiệp

15

Vũ thị huệ


sự chứng kiến của những ngời xung quanh nhân lúc chủ tài sản không để ý, hoặc
là công khai thực hiện hành vi chiếm đoạt nhng bản chất chiếm đoạt đã đợc che
đậy, ví dụ: ngời phạm tội đóng giả là nhân viên chở hàng của công ty đã ngang
nhiên chở hàng ra khỏi công ty trớc sự chứng kiến của các nhân viên trong công
ty.
Nh vậy, dù là hành vi chiếm đoạt đợc thực hiện công khai hay giấu diếm thì
đều có chung bản chất là lén lút chiếm đoạt đối với chủ tài sản. Trờng hợp
hành vi chiếm đoạt đợc thực hiện công khai trớc mắt những ngời không có trách
nhiệm đối với tài sản hoặc không hiểu bản chất của hành vi thì vẫn là trộm cắp
tài sản. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản cho thấy, tuy ngời
khác có mặt tại nơi xảy ra hành vi trộm cắp tài sản nhng họ không hiểu đó là
hành vi trộm cắp tài sản, không biết đó là ngời trộm cắp hay chủ tài sản nên
không để ý đến việc lấy tài sản đi nơi khác. Hiện tợng này xảy ra phổ biến vì ngời có mặt tại nơi xảy ra hành vi trộm cắp tài sản tởng rằng ngời trộm cắp là
khách quen hoặc chủ tài sản, do đó ngời phạm tội chỉ có ý thức che giấu hành vi
phạm tội của mình với chủ tài sản chứ không có ý thức che giấu đối với những
ngời khác.
Trên đây đã đề cập đến hành vi trộm cắp tài sản, đó là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản đối với chủ tài sản, chủ tài sản có thể là chủ sở hữu tài sản
hoặc ngời có trách nhiệm đối với tài sản (gọi là ngời quản lý tài sản). Chủ sở hữu
tài sản theo quy định của pháp luật dân sự là ngời có đầy đủ ba quyền năng:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản, những quyền năng
này đợc pháp luật ghi nhận bảo vệ và không bị giới hạn, gián đoạn. Đối với ngời
quản lý tài sản, trớc hết quản lý đợc hiểu là trông coi giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định (Theo Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà
Nẵng, 2003). Nh vậy, ngời quản lý tài sản là ngời đang nắm giữ, trông coi, bảo
vệ tài sản nhng không phải chủ sở hữu và không có quyền định đoạt tài sản đó;
ngời quản lý tài sản có thể là ngời trực tiếp quản lý tài sản khi tài sản đang nằm
trong sự chi phối trực tiếp của họ hoặc là ngời quản lý gián tiếp khi họ không
trực tiếp nắm giữ tài sản nhng do tính chất công việc nên họ có trách nhiệm



Khoá luận tốt nghiệp

16

Vũ thị huệ

trông coi bảo vệ tài sản (ví dụ: tiền của cơ quan do thủ quỹ trực tiếp quản lý nhng hết giờ làm việc bảo vệ có trách nhiệm trông coi số tài sản đó) hoặc khi tài
sản đó là của cơ quan nhà nớc nhng để ở nơi công cộng phục vụ sinh hoạt chung
nh: công tơ điện do ngời trông coi trạm biến áp quản lý nhng đợc đặt ở các cột
điện bên đờng. Ngời quản lý tài sản cũng có thể là ngời quản lý trong trờng hợp
bình thờng khi đợc chủ sở hữu giao quản lý tài sản thông qua hợp đồng trông giữ
tài sản, hoặc là ngời quản lý tài sản trong trờng hợp đặc biệt khi có sự kiện pháp
lý xảy ra sẽ phát sinh trách nhiệm quản lý tài sản (thực tế thờng là trờng hợp ngời đó tự nguyện đứng ra trông coi quản lý tài sản cho chủ sở hữu, ví dụ: khi chủ
nhà đi vắng thì nhà bị cháy, hàng xóm đã dập đám cháy và bảo vệ tài sản cho
chủ nhà chờ khi chủ nhà về sẽ giao lại tài sản, hoặc khi chủ sở hữu không có
điều kiện bảo vệ tài sản của mình, ví dụ: A và B đang đi xe trên đờng thì bị tai
nạn, A ngất đi còn B vẫn tỉnh táo, khi đó phát sinh trách nhiệm quản lý tài sản
của B đối với tài sản của A).
Trong những trờng hợp trên, bất kể đó là chủ sở hữu hay ngời quản lý tài
sản, ngời quản lý trực tiếp hay gián tiếp, ngời quản lý trong trờng hợp bình thờng hay trờng hợp đặc biệt thì ngời phạm tội muốn chiếm đoạt tài sản đều phải
lén lút với những ngời này.
Nghiên cứu tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng,
giúp phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác nhất là tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản, ví dụ sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề trên: A và B đang
cùng nhau đi trên đờng thì bị tai nạn giao thông, A bị thơng nặng nên ngất đi, B
bị thơng nhng vẫn tỉnh táo, lúc này phát sinh trách nhiệm quản lý tài sản của B.
Ngời phạm tội muốn trộm cắp tài sản thì phải lén lút với B, nếu lợi dụng tình
trạng B bị thơng không có điều kiện để bảo vệ tài sản mà ngời phạm tội công
khai lấy tài sản trớc mặt B thì là công nhiên chiếm đoạt tài sản. Còn đối với trờng hợp cả A và B bị thơng đều ngất đi không có ai đứng ra bảo vệ tài sản cho

họ mà ngời phạm tội công khai lấy tài sản trớc sự chứng kiến của những ngời
xung quanh thì vẫn là trộm cắp tài sản, ngời phạm tội vẫn lén lút đối với chủ
tài sản là A và B khi thực hiện hành vi chiếm đoạt [20, tr.26].


Khoá luận tốt nghiệp

17

Vũ thị huệ

Nội dung biểu hiện thứ hai thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản là
hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Hậu quả nguy hiểm của tội phạm là
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách thể bảo
vệ của luật hình sự, đợc thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thờng của
các bộ phận cấu thành nên khách thể (đối tợng tác động của tội phạm). Bất kì tội
phạm nào cũng có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhng dấu
hiệu hậu quả của tội phạm không đợc phản ánh trong tất cả các cấu thành tội
phạm. Dấu hiệu này chỉ đợc mô tả khi hành vi chỉ có tính nguy hiểm cho xã hội
nếu đã gây ra hậu quả nhất định cho xã hội. Tính chất và mức độ của hậu quả đợc xác định bởi tính chất và mức độ biến đổi tình trạng bình thờng của đối tợng
tác động của tội phạm. Với những tội phạm mà dấu hiệu hậu quả nguy hiểm đợc
phản ánh trong cấu thành tội phạm thì tội phạm đó sẽ có cấu thành vật chất.
Đối với tội trộm cắp tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội thể hiện qua sự
biến đổi tình trạng bình thờng của tài sản đợc gọi là thiệt hại về tài sản, thể hiện
dới dạng tài sản bị chiếm đoạt. Trong cấu thành tội trộm cắp tài sản, hậu quả của
tội phạm là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị ở mức nhất định (từ năm trăm nghìn
đồng trở lên- trong trờng hợp thông thờng), dựa vào mức giá trị tài sản bị chiếm
đoạt điều luật đã phân chia thành các khung hình phạt tơng ứng với các mức độ
hậu quả đó.
Nội dung biểu hiện thứ ba thuộc mặt khách quan của tội phạm là mối quan

hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Theo nguyên tắc của
luật hình sự Việt Nam: một ngời chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do chính hành vi của họ gây ra, tức là giữa hành vi phạm tội và hậu quả
có mối quan hệ nhân quả với nhau. Luật hình sự Việt Nam không quy định thế
nào là mối quan hệ nhân quả, nhng dựa vào cặp phạm trù nhân - quả của phép
biện chứng duy vật có thể xác định đợc mối quan hệ nhân quả đó là hành vi
nguy hiểm cho xã hội phải có trớc, là nguyên nhân gây nên hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; đồng thời hậu quả đó chính là kết quả của hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Đối với tội trộm cắp tài sản, hậu quả thiệt hại về tài sản (mất tài sản) chính
là kết quả của hành vi trộm cắp tài sản.


Khoá luận tốt nghiệp

18

Vũ thị huệ

Khi nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm không thể không tìm hiểu về
mặt chủ quan của tội phạm bởi lẽ tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan
và mặt chủ quan, giữa những biểu hiện bên ngoài và hoạt động tâm lý bên trong.
1.2.3. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội
phạm bao gồm: lỗi của ngời phạm tội, mục đích phạm tội, động cơ phạm tội;
trong đó lỗi là yếu tố đợc phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm.
Điều 8 BLHS quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đ ợc
quy định trong Bộ luật hình sự, do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý.... Nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản trong luật
hình sự Việt Nam, một ngời chỉ phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã
hội khi họ có lỗi trong khi thực hiện hành vi đó. Ngời thực hiện hành vi bị coi là

có lỗi nếu họ có sự tự do lựa chọn thực hiện hành vi đó trong khi họ có đủ điều
kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, lỗi đợc hiểu là
thái độ tâm lý của ngời phạm tội đối với hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, đợc thực hiện dới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Về mặt hình thức, lỗi gồm hai yếu tố cấu thành là yếu tố lý trí (thể hiện khả
năng nhận thức của chủ thể) và yếu tố ý chí (thể hiện khả năng điều khiển hành
vi của chủ thể). Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của hai yếu tố đó ngời ta
chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trờng hợp ngời phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trớc hậu quả của
hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp), hoặc thấy trớc hậu
quả có thể xảy ra tuy không mong muốn nhng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra
(lỗi cố ý gián tiếp); lỗi vô ý là trờng hợp ngời phạm tội do cẩu thả mà không
thấy trớc khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trớc
và có thể thấy trớc (lỗi vô ý do cẩu thả), hoặc tuy thấy trớc hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhng cho rằng hậu quả không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa đợc (lỗi vô ý vì quá tự tin). Đối với tội trộm cắp tài sản,
lỗi của ngời phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Về mặt lý trí, ngời phạm tội nhận thức
rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trớc hậu quả nguy


Khoá luận tốt nghiệp

19

Vũ thị huệ

hiểm có thể xảy ra; về mặt ý chí: ngời phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra,
mong muốn chiếm đoạt đợc tài sản, hậu quả này ngời phạm tội đã thấy trớc và
nó hoàn toàn phù hợp với mục đích của ngời phạm tội. Việc xác định nhận thức
chủ quan của ngời phạm tội để xác định lỗi của họ là rất quan trọng: nếu ngời

phạm tội biết rõ tài sản bị chiếm đoạt đang có ngời quản lý thì sẽ phạm tội trộm
cắp tài sản, còn nếu họ thực sự có sai lầm cho rằng tài sản đó là của mình (ví dụ
nh cầm nhầm tài sản...) hoặc tài sản đó không có chủ thì sẽ không phạm tội trộm
cắp tài sản. Trong thực tế có trờng hợp một ngời đã lầm tởng tài sản của ngời
khác là tài sản của mình nên lấy đi, trờng hợp này không phạm tội trộm cắp tài
sản, ví dụ: cơ quan yêu cầu các cán bộ phải mặc đồng phục, khi có ngời cởi áo
để trong phòng làm việc ngời này tởng đó là áo của mình nên đã lấy đi... Nhng
nếu sau đó ngời này biết đó không phải là tài sản của mình mà lấy đi, giữ lại
hoặc tự ý định đoạt tài sản thì phải coi đó là hành vi trộm cắp tài sản. Nh vậy,
khi ngời phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, họ biết rõ tài sản đó là của
ngời khác mà vẫn chiếm đoạt. Đối với việc xác định ý thức chủ quan của ngời
phạm tội trong trờng hợp xâm phạm tài sản của Nhà nớc đợc quy định là tình
tiết tăng nặng TNHS còn có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng
việc áp dụng tình tiết tăng nặng đó phụ thuộc vào ý thức chủ quan của ngời
phạm tội, nếu họ biết rõ tài sản đó là của Nhà nớc mà vẫn chiếm đoạt thì áp
dụng tình tiết tăng nặng đó, còn nếu họ không thể biết hoặc thực sự có sai lầm
cho rằng tài sản đó là của công dân thì không áp dụng tình tiết tăng nặng đó, có
quan điểm cho rằng cứ có hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nớc là áp dụng
tình tiết tăng nặng không cần xác định ý thức chủ quan của ngời phạm tội. Theo
tác giả, việc xác định ý thức chủ quan của ngời phạm tội trong trờng hợp này là
điều cần thiết, nếu ngời phạm tội biết rõ tài sản đó là của Nhà nớc mà vẫn chiếm
đoạt thì áp dụng tình tiết tăng nặng xâm phạm tài sản của Nhà nớc, nếu ngời
phạm tội không thể biết tài sản đó là của Nhà nớc hoặc họ thực sự có sai lầm
cho rằng tài sản đó không phải của Nhà nớc thì không áp dụng tình tiết tăng
nặng đó, còn trong trờng hợp khi chiếm đoạt ngời phạm tội không cần biết tài
sản đó là của Nhà nớc hay của công dân thì nếu tài sản đó là của Nhà nớc sẽ áp


Khoá luận tốt nghiệp


20

Vũ thị huệ

dụng tình tiết tăng nặng xâm phạm tài sản của Nhà nớc, nếu tài sản đó không
phải là tài sản của Nhà nớc thì không áp dụng tình tiết tăng nặng đó, với cách
hiểu nh vậy sẽ hợp lý hơn đồng thời có tác dụng răn đe những ngời biết rõ tài
sản đó là của Nhà nớc, có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội mà vẫn chiếm đoạt.
Biểu hiện thứ hai thuộc mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản là mục đích
phạm tội. Mục đích phạm tội đợc hiểu là kết quả mà ngời phạm tội hớng tới,
nhằm đạt đợc khi thực hiện tội phạm. Mục đích của ngời phạm tội trộm cắp tài
sản là mục đích chiếm đoạt. Ngời phạm tội mong muốn chiếm đoạt đợc tài sản
của ngời khác biến nó thành tài sản của mình. Hành vi trộm cắp tài sản là hành
vi chiếm đoạt tài sản, hành vi này đã thể hiện đợc mục đích của ngời phạm tội,
tuy nó không đợc nhà làm luật quy định trong cấu thành tội phạm nhng nó là
dấu hiệu bắt buộc, mục đích này luôn đợc đặt ra trớc khi ngời phạm tội thực
hiện tội phạm. Ngoài ra còn phải kể đến động cơ phạm tội, đó là động lực bên
trong thúc đẩy ngời phạm tội thực hiện tội phạm. Động cơ phạm tội trong tội
trộm cắp tài sản là động cơ vụ lợi, nhng đó không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Để tìm hiểu toàn diện về tội trộm cắp tài sản, cần tìm hiểu về độ tuổi và
năng lực TNHS của ngời thực hiện hành vi phạm tội.
1.2.4. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Theo quy định của BLHS: Chỉ ngời nào phạm một tội đã đợc Bộ luật hình
sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 2 BLHS) và Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật hình sự do ngời có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện... (Điều 8 BLHS), có thể thấy theo luật
hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con ngời cụ thể đã thực
hiện hành vi phạm tội đợc quy định trong BLHS. Chủ thể của tội phạm theo luật
hình sự Việt Nam phải là cá nhân, nhng không phải ai cũng có thể trở thành chủ

thể của tội phạm. Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải có tính có lỗi, do
vậy chỉ những ngời có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới
có thể là chủ thể của tội phạm, đó là ngời có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật
định. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình


Khoá luận tốt nghiệp

21

Vũ thị huệ

theo đòi hỏi của xã hội, ngời có năng lực TNHS là ngời khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đợc tính chất nguy hiểm cho xã hội
và có khả năng điều khiển đợc hành vi đó, do đó chỉ những ngời có năng lực
TNHS mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm. Luật hình sự Việt Nam không
quy định thế nào là ngời có năng lực TNHS mà chỉ quy định những trờng hợp đợc coi là không có năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS, theo đó một ngời khi đạt
độ tuổi luật định và không thuộc trờng hợp không có năng lực TNHS thì đơng
nhiên đợc coi là ngời có năng lực TNHS.
Điều12 BLHS quy định: Ngời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, ngời từ đủ 14 tuổi nhng cha đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến mời lăm năm tù, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là trên mời lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Ngoài hai dấu hiệu năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS, một số tội còn đòi
hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu đặc biệt gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm.

Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm là chủ thể bình thờng, đó là
ngời có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Theo đó, ngời từ đủ 14 tuổi nhng cha đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4
Điều138 BLHS; ngời từ đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản trong
mọi trờng hợp phạm tội.
Nh vậy, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là ngời từ đủ 14 tuổi trở lên, có
năng lực TNHS đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đợc quy định tại Điều 138
BLHS.
1.3. Đồng phạm và các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản
1.3.1. Đồng phạm trộm cắp tài sản


Khoá luận tốt nghiệp

22

Vũ thị huệ

Tội phạm nói chung cũng nh tội trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ thực
hiện bởi một ngời mà có thể đợc thực hiện bởi nhiều ngời mà giữa họ đã có sự
thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trờng hợp phạm tội đặc biệt này
trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm.
Đồng phạm là trờng hợp có hai ngời trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trộm cắp tài sản là trờng hợp có hai
ngời trở lên cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản. Từ khái niệm trên có thể rút
ra một số dấu hiệu về đồng phạm trộm cắp tài sản nh sau:
Thứ nhất, dấu hiệu về mặt khách quan: đồng phạm trộm cắp tài sản phải có
từ hai ngời trở lên và những ngời này có đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm (từ
đủ 14 tuổi trở lên và không thuộc trờng hợp không có năng lực TNHS), ví dụ: A
17 tuổi và B 19 tuổi đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 10
triệu đồng; dấu hiệu thứ hai là những ngời đồng phạm đó cùng thực hiện tội

trộm cắp tài sản.
Họ có thể tham gia thực hiện tội trộm cắp tài sản với một trong các hành vi
sau: hành vi thực hành tội trộm cắp tài sản, ngời có hành vi này gọi là ngời thực
hành; hành vi tổ chức việc thực hiện tội trộm cắp tài sản, ngời có hành vi này gọi
là ngời tổ chức; hành vi xúi giục ngời khác thực hiện tội trộm cắp tài sản, ngời
có hành vi này là ngời xúi giục; hành vi giúp ngời khác thực hiện tội trộm cắp
tài sản, ngời có hành vi này là ngời giúp sức, ví dụ: A có ý định trộm cắp tài sản
nên bàn với B và nhờ B đánh hộ chìa khoá để mở cửa vào nhà ngời khác trộm
cắp tài sản. Trong trờng hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là ngời thực hành còn B là ngời giúp sức.
Thứ hai, dấu hiệu về mặt chủ quan: trớc hết lỗi của những ngời đồng phạm
trộm cắp tài sản là lỗi cố ý, mỗi ngời đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của
mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những ngời đồng phạm
khác (về lý trí, mỗi ngời đồng phạm biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội và đều biết những ngời khác cũng có hành vi nguy hiểm cùng với mình, mỗi
ngời đồng phạm còn thấy trớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra và hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện; về ý chí:


Khoá luận tốt nghiệp

23

Vũ thị huệ

những ngời đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong
muốn hậu quả xảy ra); mục đích của những ngời đồng phạm khi thực hiện tội
trộm cắp tài sản là mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong thực tế, đồng phạm trộm cắp tài sản đợc thể hiện dới những hình
thức khác nhau nh đồng phạm có thông mu trớc và đồng phạm không có thông
mu trớc, đồng phạm giản đơn và phạm tội có tổ chức trong đó phạm tội trộm cắp

tài sản có tổ chức là hình thức đồng phạm rất phổ biến, gây thiệt hại lớn cho xã
hội. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm mà giữa những ngời đồng
phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau, có phân công nhiệm vụ cụ thể, phân hoá
vai trò rõ ràng, có sự chuẩn bị chu đáo cho việc thực hiện tội phạm cũng nh che
giấu tội phạm do đó có khả năng cho phép thực hiện tội phạm trong thời gian
dài, liên tục gây hậu quả rất lớn, đặc biệt lớn cho xã hội. ở hình thức đồng phạm
này, những ngời đồng phạm có sự thống nhất ý chí, quyết tâm thực hiện tội
phạm cao, ý chí thực hiện tội phạm đến cùng và không có trờng hợp tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội.
Hiện nay, xuất hiện rất nhiều các băng, ổ nhóm chuyên trộm cắp tài sản có
ngời tổ chức lên kế hoạch cho việc thực hiện tội phạm gây thiệt hại lớn cho xã
hội, ảnh hởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội, ví dụ vụ án Trần Văn A
và Hoàng Văn B thờng trú tại Hà Nội đã thành lập băng nhóm chuyên trộm cắp
tài sản là máy vi tính với địa bàn hoạt động chủ yếu là phờng Tân Mai và Hoàng
Văn Thụ, chúng đã phân công cho đàn em điều tra nghiên cứu kĩ mục tiêu, lên
kế hoạch chu đáo cho việc thực hiện tội pham vì vậy chỉ trong khoảng thời gian
ngắn chúng đã liên tiếp thực hiện đợc nhiều vụ trộm cắp máy tính với tổng trị
giá tài sản lên đến vài trăm triệu đồng.
Chính vì tính nguy hiểm cao hơn của hình thức đồng phạm này so với hình
thức đồng phạm thông thờng nên điều luật quy định tình tiết phạm tội có tổ
chức là tình tiết định khung tăng nặng.
Đối với đồng phạm trộm cắp tài sản, không chỉ có đồng phạm hành động
mà còn có đồng phạm không hành động, đó là trờng hợp những ngời đồng phạm
trộm cắp tài sản không hành động phạm tội, ví dụ: A đã thoả thuận với B là bảo


Khoá luận tốt nghiệp

24


Vũ thị huệ

vệ của cơ quan không khoá cửa kho để đến đêm A vào kho lấy trộm tài sản của
cơ quan. Trong trờng hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là ngời
thực hành còn B là ngời giúp sức (không hành động phạm tội).
1.3.2. Các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản
Tội phạm không phải lúc nào cũng đợc thực hiện đến cùng mà có thể đợc
thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân, trong khoa học luật
hình sự gọi là các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Nghiên cứu các giai đoạn thực hiện tội phạm giúp xác định đúng TNHS của
ngời phạm tội, ở mỗi giai đoạn phạm tội BLHS có quy định khác nhau về TNHS
của ngời phạm tội. Để nghiên cứu tội trộm cắp tài sản một cách toàn diện, cần
nghiên cứu về các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản.
Theo đó, các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm
cố ý bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội cha đạt và tội phạm hoàn thành.
* Chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn ngời phạm tội có hành vi tạo ra những điều
kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhng cha bắt đầu thực hiện tội phạm.
Thời điểm sớm nhất của giai đoạn này là khi ngời phạm tội bắt đầu có hành vi
tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần giúp cho việc thực hiện tội phạm có
thể xảy ra hoặc xảy ra thuận lợi hơn, thời điểm muộn nhất của giai đoạn này là
trớc khi ngời phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội đợc phản ánh trong
cấu thành tội phạm. Tất cả những hành vi đợc thực hiện trong giai đoạn này đều
cha trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thờng của tài sản là đối tợng tác động
của tội trộm cắp tài sản để gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là khách thể của tội
phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản có thể là những hành vi sau:
hành vi chuẩn bị công cụ phơng tiện phạm tội (ví dụ nh ngời phạm tội đã chuẩn
bị sẵn kìm để cậy cửa đột nhập vào nhà ngời khác lấy trộm tài sản), hành vi
chuẩn bị kế hoạch, thăm dò địa điểm phạm tội hay thăm dò làm quen nạn nhân,
ngời bị hại (ví dụ: ngời phạm tội đóng giả là khách lạ qua đờng làm quen chủ

nhà và xin ngủ nhờ qua đêm với ý định nửa đêm chờ chủ nhà ngủ say sẽ lấy
trộm tài sản). ở giai đoạn này ngời phạm tội cha có hành vi chiếm đoạt tài sản


Khoá luận tốt nghiệp

25

Vũ thị huệ

nên họ chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng (theo quy định tại Điều 17 BLHS).
Đối với tội trộm cắp tài sản có thể không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội
mà nhiều trờng hợp ngời phạm tội lợi dụng sơ hở, chủ quan của chủ tài sản nên
nảy sinh ý định trộm cắp chứ họ không có sự chuẩn bị từ trớc cho việc thực hiện
tội phạm, ví dụ: A đang đi chơi về thì nhìn thấy có chiếc xe đạp dựng ngoài
cổng nên đã dắt chiếc xe đó đi...
* Phạm tội trộm cắp tài sản cha đạt
Phạm tội cha đạt là giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm nhng không thực hiện
đợc đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của ngời phạm tội.
Ngời phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đợc mô tả
trong cấu thành tội phạm nhng đã không thực hiện đợc đến cùng, hành vi phạm
tội cha thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm,
có thể ngời phạm tội mới thực hiện đợc hành vi đi liền trớc hành vi khách quan
nh ngời phạm tội đang mở khoá định đột nhập vào nhà lấy trộm tài sản thì bị
chủ nhà phát hiện, hoặc ngời phạm tội đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
nhng cha thực hiện đợc đến cùng cha gây thiệt hại tài sản, ví dụ: ngời phạm tội
đang giấu tài sản vừa chiếm đoạt đợc thì bị chủ tài sản phát hiện thu giữ..., ở đây
ngời phạm tội không thực hiện đợc tội phạm đến cùng là do nguyên nhân ngoài
ý muốn chứ bản thân ngời phạm tội muốn thực hiện tội phạm đến cùng nhằm

chiếm đoạt đợc tài sản, do đó họ phải chịu TNHS về tội phạm đó (theo quy định
tại Điều 18 BLHS).


×