Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

CÁC QUY LUẬT BỐ CỤC HÌNH KHỐI KHÔNG GIAN CỦA CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 27 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
KHOA KĨ THUẬT XÂY DỰNG
--------------

BÀI TIỂU LUẬN

NGUYÊN LÝ THIẾT KẾ KIẾN TRÚC DÂN DỤNG
ĐỀ TÀI:

CÁC QUY LUẬT BỐ CỤC HÌNH KHỐI KHÔNG GIAN
CỦA CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC

GVHD: Ths. KTS. Phan Tiến Vinh
SVTH: Hà

Huy Quyết

Lớp: 09KT

Đà Nẵng, tháng 12 năm 2010


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

HỆ THỐNG CÁC QUY LUẬT BỐ CỤC HÌNH KHỐI KHÔNG GIAN
CỦA CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

2/27




Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

QUY LUẬT BỐ CỤC HÌNH KHỐI KHÔNG GIAN
CỦA CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
1. Tương phản và dị biến (vi biến):
1.1 Khái Niệm:
- Tương phản (Contraste) và vi biến (hay là sắc thái – Nuance) là sự vận
dụng mức độ khác biệt của một nhân tố tổ hợp (ví dụ: hình khối, màu sắc) với
liều lượng nhiều hay ít để đạt được hiệu quả nghệ thuật. Trong nghệ thuật kiến
trúc, tương phản và vi biến là những biểu hiện trên hình khối, mặt đứng tạo ra
những cảm xúc ở những mức độ khác nhau.
- Tương phản: là sự khác biệt nhau rất rõ ràng
giữa hai vật thể, hai hình thể làm nổi bật lên
những đặc điểm của chúng. Tức là sự khác biệt
nhiều về không gian, độ lớn (Ví dụ khối thấp
đặt cạnh khối cao, Hình 1-1) và sự chênh lệch
về độ lớn càng mạnh thì cảm xúc gây ra cho
người xem càng mãnh liệt. Tương phản còn có
thể là sự khác biệt về màu sắc (màu đen đứng
cạnh màu trắng) làm nổi bật them cho nhau.
Hình 1-1: Hoàng Anh Gia Lai Plaza – Tòa nhà
gồm 2 khối chính, khối cao đặt trên khối thấp,
tạo sự tương phản rõ nét.
Hình 1-2:
Vĩnh Trung Plaza
Tương phản như vậy dễ
gây sự chú ý của mọi
người.


- Vì sự giới hạn của sự đa dạng của bố cục không phải là “phi” giới hạn cho
nên sự tương phản vẫn phải tôn trọng yêu cầu thống nhất của tổng thể. Trong
kiến trúc hiện đại, tương phản được sử dụng nhiều do nhu cầu tình cảm mới
xuất phát từ cuộc sống công nghiệp hóa.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

3/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Vận dụng sự tương phản về khối, về màu sắc sẽ nhấn mạnh được sự khác
biệt, biểu hiện đặc tính khác nhau, xác lập một sự mâu thuẫn để hỗ trợ lẫn
nhau giữa các thành phần kiến trúc.
- Khi các khối có hình khối, bóng đổ, màu sắc khác nhau ít, người ta nói kiến
trúc có tính chất vi biến. Vi biến – nói lên hai trạng thái của một thuộc tính, là
một thủ pháp quan trọng để đạt được hiệu quả thống nhất và biến hóa. Vi biến
là sự tương phản nhẹ, chuyển biến dần dần, khác biệt nhau rất ít như sự
chuyển dần, thu nhỏ hình khối của những tòa tháp trong những ngôi đền cổ
đại, của những tháp vô tuyến truyền hình hiện đại.
Hình 1-2: Bảng màu có sự chuyển biến
màu sắc từ từ, từ gam màu nóng sang lạnh,
từ sắc độ đậm đến nhạt dần…
- Bút pháp thiết kế có trình độ sẽ dẫn đến
hiệu quả tốt cho sử dụng đồng thời hai yếu
tố tương phản và vi biến. Nếu hoàn toàn
dùng yếu tố tương phản, bố cục dễ bị đổ vỡ,
gây cảm xúc hỗn loạn, đột biến và cũng khó
diễn đạt ý tưởng. Còn nếu chỉ chuộng yếu

tố vi biến sẽ đưa đến những ấn tượng buồn
tẻ, đơn điệu, gây cảm xúc đều đều và khó
diễn đạt ý tưởng.
Vậy nên việc kết hợp giữa tính thống nhất và tính biến hóa theo một quy
luật nào đó sẽ dễ tạo nên một tác phẩm có trọng tâm, có chủ đề nhất định.
Chú thích: Hình vẽ dẫn
chứng tương phản và dị
biến về khối hình, về
mảng đặc, rỗng và về
đường nét.

Qua đó ta thấy sự tương phản và dị biến thường diễn ra trong cùng một tính
chất. Hình khối này với hình khối kia, mảng này với mảng kia hay các loại nét
với nhau, các chất vật liệu với nhau.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

4/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

1.2. Những định hướng tạo tương phản vi biến:
1.2.1 Tương phản và vi biến trong kích thước, hình dáng, chiều hướng:
- Kích thước, hình dáng, chiều hướng – có thể tạo thành bởi các yếu tố hình
học đặc trưng cho ngôn ngữ tạo hình kiến trúc là khối, diện, tuyến - tạo thành
hình tượng kiến trúc giàu sức biểu hiện qua “phương tiện” tương phản và vi
biến.
- Hai hình bằng nhau, hình được phù trợ bởi những hình lớn hơn xung quanh
sẽ cảm thấy nhỏ hơn hình được vây quanh bởi những hình nhỏ hơn.
1.2.2 Tương phản thông qua các quan hệ ngôn ngữ hình thái học:

- Người ta thường dùng tương phản của đường (đường thẳng, đường cong,
đường gãy); tương phản của hình (hình cao, hình thấp, hình vuông, hình tròn)
và tương phản của số lượng (đơn và kép, ít và nhiều, nặng và nhẹ) để đạt được
hiệu quả cần thiết.
- Ví dụ ở Trường Bauhaus, Dessau, Đức là một kiệt tác của kiến trúc hiện đại, sự tươ
ng phản về khối và gây nên những ấn tượng
mỹ cảm nhất định.

- Sự tương phản và vi sai của
hướng - hướng đứng và hướng
ngang, sẽ làm phong phú thêm
hình tượng kiến trúc.
- Ví dụ: Nhà thờ Gothic Notre Dam (Nhà
Thờ Đức Bà – Paris) có phân vị vươn lên là
chính, thỉnh thoảng có những gờ ngang làm
thành những băng cột cuốn hay băng tượng
nhỏ nằm ngang làm cho kiến trúc rất sinh
động.

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

5/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

Ví dụ: Tòa Thị Chính
Hà Nội (cũ).

- Thuật tương phản còn được

dùng trong tổ hợp mặt bằng, mặt
đứng. Ví dụ: Tòa nhà quốc hội
(phòng xử án) của Sunjab - Ấn
Độ (1956 – 1959).

- Sự tương phản và vi
sai của hướng đứng và
hướng ngang sẽ làm
phong phú thêm hình
tượng tạo hình.

1.2.3 Tương phản và vi biến trong rỗng và đặc, hở và kín:
- Những bộ phận khác nhau của kiến trúc là những mảng tường, những phần
rỗng của kiến trúc là những cửa sổ, cửa đi, hành lang, logia, hiên…tác động
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

6/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

vào cảm giác của con người, gây ra những liên tưởng, những cảm giác khác
nhau như: vững chắc, nhẹ nhàng, thanh thoát…
- Trong các công trình kỷ niệm, những lăng mộ để nhấn mạnh cảm giác thực
thể, tính vĩnh cửu, người ta đã dùng một số những phần rỗng để nhấn mạnh
những mảng đặc.
- Đối với tác phẩm tạo hình cần gây hiệu quả nhẹ nhàng, người ta dùng nhiều
phần rỗng hơn.
- Ví dụ có tính chất điển hình cho
sự tương quan giữa đặc và rỗng

là công trình Bảo tàng LêNin ở
Taken, dùng thủ pháp tương
phản giữa phần lõm của hành
lang cột cuốn ở tầng dưới đối với
mảng tường đặc ở tầng trên tạo
nên một hiệu quả rất mạnh mẽ và
phong phú.
- Ví dụ thứ hai là Lăng chủ tịch Hồ
Chí Minh, phần trên của kiến trúc
dùng thủ pháp tương phản (đặc, rỗng,
đặc, rỗng, đặc…) và thủ pháp vi biến
(nhịp biên của các hàng cột hơi lớn hơn
nhịp giữa).

- Ví dụ có tính chất điển hình cho sự tương quan giữa đặc và rỗng là Cung
Tổng đốc Vơnidơ, kiến trúc Gothic, Italia, dùng thủ pháp tương phản giữa
phần lõm của hành lang cột cuốn ở hai tầng dưới đối với hai mảng tường đặc
bằng đá cẩm thạch hồng và trắng ở tầng trên tạo nên một hiệu quả rất phong
phú.
1.2.4 Tương phản và vi biến của màu sắc, chất cảm và bóng:
- Bóng: do một nguồn sáng gây ra - gồm có bong đổ (bóng của một khối gây
ra cho một diện khác) và bong bản thân (bong sinh trên tự bản thân lồi lõm
của một khối) là yếu tố quan trọng tạo ra ấn tượng mỹ cảm, cũng như màu sắc
và chất cảm của vật liệu.
- Hình khối kiến trúc: có đạt được hiệu quả đa dạng hay không một phần là do
bóng quyết định. Bóng được tạo thành trên cơ sở các thành phần tạo hình, ví
dụ như công năng của các thành phần cấu tạo kiến trúc nhà ở: ban công, cầu
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

7/27



Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

thang, diềm mái… thường được xử lý nhô ra; hiên, logia, hành lang, sảnh
vào… thường được xử lý lõm vào.
Tất cả những tiền đề chức năng đó, dưới bàn tay điêu luyện của nhà thiết kế
tạo hình trở thành một bản hoà tấu sang và tối xen kẽ nhau giàu sức truyền
cảm.
Bóng còn có vi biến: Bóng đậm chuyển sang bóng nhạt dần cho tương quan
giữa các chiều sâu của mặt phẳng hoặc do sự uốn lượn của một mặt cong tạo
thành.
- Màu sắc với sự tương phản hoặc vi biến của nó bao gồm hai nội dung:
+ Tương quan giữa hai màu và phù trợ giữa hai màu cho nhau: Tương
phản mạnh thường gặp ở hai cặp màu thường được gọi là màu sắc bổ trợ: vàng
và tím, đen và trắng, đỏ và xanh lá cây… những cặp màu này thường làm nổi
bật nhau lên. Vi biến của những cặp màu thường có ở những màu gần nhau
như đỏ và da cam, da cam và vàng…
+ Hình ảnh minh hoạ:

+ Sắc độ, độ đậm nhạt của màu sắc:
* Độ đậm nhạt chênh lệch nhau mạnh gây ra sự tương phản, độ
đậm nhạt chênh lệch nhau nhẹ, chuyển sắc từ từ gây vi biến.
* Phải tuỳ hoàn cảnh cụ thể, tuỳ ý tưởng, mục tiêu của tác phẩm
tạo hình mà dùng màu sắc cho phù hợp.
* Trong tạo hình kiến trúc, nhất là trong màu sắc nội thất nhà ở
nên dùng một tông màu, vi biến nhẹ, chỉ một vài vật trang trí mỹ nghệ có màu
sắc đối chọi, thậm chí sáng chói là cùng đạt hiệu quả thẩm mỹ cao. Vì rằng tác
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng


8/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

phẩm tạo hình kiến trúc có diện, khối rất rộng và lớn, mọi vật cùng con người
xung quanh nó cũng rất nhiều màu. Hình ảnh minh họa:

- Chất cảm của các vật liệu, với các hoa văn với độ trơn nhám của nó được sử
dụng khi tương phản và vi biến tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ cần thiết.
Ví dụ: Tương phản và vi biến trong màu sắc, độ nhám và trong trang trí
nội thấy… Hình ảnh minh họa:

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

9/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Ví dụ:
+ Lăng LêNin được xây dựng bằng đá hoa cương nhiều màu, gia công
sang loáng, tương phản mạnh mẽ với chất liệu nhám của tường thành Điện
Kremlanh phía sau tạo nên một ấn tượng hết sức hoàn mỹ. (hình ảnh)
+ Lâu đài Medixi - một kiệt tác của kiến trúc văn nghệ Phục Hưng
Italia, đã xử lý vi biến cho chất cảm của vật liệu một cách hợp lý: tường dưới
cùng đá lớn, các tầng trên đá nhỏ dần, từ thô nhám chuyển dần sang nhỏ mịn,
tạo thành một sắc thái rất đặc biệt. Phần thô nhám ở dưới gây cảm giác nặng
nề, vững chãi, phần nhỏ mịn ở trên gây cảm giác nhẹ nhàng hơn… cách sắp
đặt vật liệu xây dựng ở đây cũng phù hợp với quy luật trọng lượng.

Chất cảm, hoa văn của vật liệu còn gây cảm giác lộng lẫy hay mộc mạc,
phải tuỳ từng đối tượng kiến trúc mà ốp ghép cho hợp lý, cho đúng chỗ.
- Một số hình ảnh minh hoạ:

Hình ảnh: Tòa nhà Quốc hội Brazil.

Hình ảnh: Fuji TV
Headquarts

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

10/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

Hình ảnh: Bảo
tàng Solomon
Guggenhem, New
York, Mỹ.

2. Vần luật và nhịp điệu, sự cắt đoạn nhịp điệu:
2.1 Tổng quan về vần luật và nhịp điệu:
- Có thể kể ra trong giới tự nhiên rất nhiều hiện tượng và sự vật thường tồn tại
dưới dạng lặp đi lặp lại một cách có quy luật, thay đổi dưới hình thức phát
triển một cách có tổ chức (ví dụ: ngày và đêm, bốn mùa xuân hạ thu đông, sự
đi lại, nhịp thở của con người, sự phát triển của lá cây…)
- Sự lặp đi lặp lại đó - được gọi là vần luật hay nhịp điệu, gây ra cho con
người một ấn tượng mỹ cảm nhất định. Con người đã mô phỏng các định luật
thiên nhiên đó để đưa vào các hoạt động đa dạng của mình trong cuộc sống.

Họ sang tác thi ca, âm nhạc, vũ đạo theo vần luật, họ trang sức quần áo, vải
vóc, đồ gốm theo những hoa văn có tính nhịp điệu như trong văn học, từ
những chữ, những câu, những âm sắc đơn lẻ người ta sắp xếp chúng theo một
quy luật nào đó…thông qua các quy luật này, bài thơ, bản nhạc biểu đạt được
chủ đề má tác giả mong muốn.
- Trong kiến trúc thì quy luật bố cục hay vần luật cũng được thể hiện:
+ Với tổng thể quy hoạch của một khu phố, sự sắp xếp các ngôi nhà với
khối hình nhà cao - thấp, to - nhỏ, vuông – tròn góc cạnh ra sao để đạt được
tính thống nhất, hài hòa – đó là vần luật.
+ Với một công trình kiến trúc, sự sắp xếp các mảng đặc rỗng, đường
nét, vật liệu, màu sắc cũng theo một quy luật nào thích ứng với chính nó và
tổng thể nói chung.
+ Với các chi tiết trang trí nội ngoại thất, thậm chí đến các đồ đạc, trang
thiết bị, muốn đạt được tính thống nhất hài hòa, đồng bộ cũng phải tôn trọng
vần luật.
- Tổng quát lại, vần luật trong kiến trúc và quy hoạch đô thị là một loạt hiện
tượng của sự lắp đi lặp lại có quy luật, của sự biến hóa có tổ chức trong biểu
hiện nghệ thuật kiến trúc của đơn thể công trình hay quần thể công trình.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

11/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Vần luật gắn bó với sự lặp đi lặp lại nhằm tạo ra sự thống nhất. Còn khi gằn
bó với sự biến hóa có tổ chức nhắm tạo ra sự đa dạng. Hình ảnh minh họa:

- Qua thực tế, ta rút ra kết luận có tính nguyên tắc sau:
+ Với hai đơn vị không đổi ta có chuỗi “lặp lại” buồn tẻ, đơn giản.

+ Những nhịp điệu phức tạp hơn sẽ có tính hấp dẫn hơn.
- Áp dụng nguyên tắc này, người ta có thể gia thêm lượng nhất định vào “kích
thước” hoặc “khoảng cách” hoặc cả hai. Ngoài ra còn có yếu tố phụ như: sắc
độ, hình dạng, bề mặt của các thành tố cũng có thể được “gia giảm” tạo nên
tính thống nhất đa dạng trong nhịp điệu. Có thể nói torng tự nhiên ta thường
gặp yếu tố nhịp điệu cấu thành bởi “lặp lại” + “phát triển” + “thay đổi” tạo nên
dức hấp dẫn và tính hợp lý cao.
- Ví dụ về sự phát triển các lớp của hình hoa và cấu trúc bố cục các yếu tố
hình theo kiểu hình hoa. Hình ảnh minh họa:

- Cũng có lúc người ta chia vần luật ra làm nhịp điệu đều (ở ta trước đây gọi là
“tiết điệu”) và nhịp điệu tăng hay giảm dần đều (có sự biến thái trong các
thành phần của nhịp điệu), nhưng để có tính thống nhất và đơn giản hóa,
chúng ta chỉ cần xét khái niệm “vần luật”, vì nó có thể đại diện cho sự phân
chia như đả nói trên đây.
- Vần luật là phương tiện quan trọng trong nghệ thuật tổ hợp kiến trúc, thiếu
nó, công trình kiến trúc sẽ trở nên câm lặng, thiếu sức sống, vô hồn, quần thể
kiến trúc trở nên vô tổ chức.
- Trong tổ hợp kiến trúc, sự lặp lại các bước nhà, các nhịp nhà, các loạt cửa sổ,
các lô gia, ban công… có khi là lặp lại một nhóm thành phần trên hay lặp lại
cả một nhóm nhà… được thấy rất phổ biến.

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

12/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Sự lặp lại các bước nhà phải có số lượng lớn hơn ba (ba nhịp trở lên) mới có

hiệu quả mỹ cảm; 3, 5, 7, 9… tạo thành những đơn vị không thể chia cắt được.
Vì nắm được quy luật đó, nhân dân ta đả làm nhà ba gian, năm gian và kiến
trúc cung đình Việt Nam làm bảy gian…

Hình ảnh: Khu đô thị Phú Mỹ Hưng
- Vần luật kiến trúc có cơ sở công năng và kết cấu vững chắc của nó, trong
kiến trúc luôn luôn có hàng nhóm phòng hay hang loạt nhà có cùng một mục
đích sử dụng, cùng một hệ kết cấu.

Hình ảnh: Dự án Him Lam
- S. Ghidiong nói: “Trong các khu nhà ở, chúng ta chấp nhận sự sử dụng nhịp
điệu lặp lại như là một nhân tố tích cực trong sang tạo sức biểu hiện thẩm
mỹ”.
- Le Corbusier cũng đã nói về sự thiết lập trật tự của kiến trúc đô thị hiện đại
như sau: “Sự thống nhất các thành phần xây dựng là một sự bảo đảm cho thẩm
mỹ, tính đa dạng do nhà ở (xây dựng hàng loạt) đưa vào kiến trúc sẽ dẫn đến
những bố cục lớn, những nhịp điệu kiến trúc chân chính”.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

13/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Nói chung, có những loại vần luật như sau:
+ Vần luật liên tục.
+ Vần luật tiệm biến.
+ Vần luật lồi lõm.
+ Vần luật giao thoa.
2.2 Các hình thức của vần luật nhịp điệu:

2.2.1 Vần luật liên tục:
- Vần luật liên tục là vần luật sinh ra do sự sự sắp xếp lặp lại một cách liên tục
một hoặc một số loại thành phần cơ bản trong bố cục cấu trúc hình.
Hình ảnh: mặt trước tòa
nhà nữ hoàng Victoria
chạy dài trên đại lộ San
Francisco.

- Có 2 loại vần luật liên tục đó là vần luật liên tục đơn giản và vần luật liên tục
phức tạp:
+ Vần luật liên tục đơn giản: Người ta dùng một bộ - một đơn vị các
yếu tố tổ hợp rồi lặp đi lặp lại nhiều lần và liên tục. Loại vần luật này dễ gây
cảm giác đều đều, buồn tẻ và nhàm chán, rất hay gặp trong các khu nhà ở điển
hình lắp ghép hay các chi tiết trong một ngôi nhà ở điển hình.
Hình ảnh –
Nhà ở
nhiều căn
hộ ở
Cabaslanca
– Maroc,
1953 –
1955, KTS.
Andre
Studer.

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

14/27



Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

Hình III.23b – Mặt nhà bên
trong của Vương Cung
Thánh Đường Lateran.

+ Vần luật liên tục phức tạp: Người ta dung một bộ - một đơn vị gồm
hai hay nhiều yếu tố có sắp xếp phức tạp rồi lặp đi lặp lại nhiều lần và liên tục.
Loại vần luật này dễ gây cảm giác phong phú, hấp dẫn.

Hình ảnh: Nhà ở tập thể “Habitat-67”, Montréal, Canada, 1966-1967, KTS.
Moshe Safdie.
Hình ảnh: Tòa nhà Nagakin
Capsule ở Tokio (1970-1972),
KTS. Kisho Kurokawa

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

15/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Đối với Cung tổng đốc Vơnidơ ở tầng một theo chiều ngang, hình thức kiến
trúc dung hành lang cuốn lớn có vần luật đơn giản, ở tầng hai dùng hành lang
cuốn nhỏ (bằng nửa tầng 1) cũng là vần luật đơn giản, nhưng đã tạo nên một
hình tượng kiến trúc rất phong phú đa dạng do tỷ lệ các hành lang cuốn gấp
đôi nhau và do bóng tối nhịp nhàng ở các tầng dưới tương phản với mặt phẳng
đặt ở tầng trên cùng.
2.2.2 Vần luật tiệm biến:

- Vần luật tiệm biến là vần luật thay thế dần dần một cách có quy luật. Vần
luật tiệm biến có thể là loại vần luật lớn dần đều hoặc nhỏ dần đều của các yếu
tố kích thước (lớn đến nhỏ và ngược lại), màu sắc (nóng đến lạnh), chất liệu
(to đến nhỏ, nhám đến trơn)…
- Trường hợp sử dụng vật liệu đá nhỏ dần đều đối với các tầng cũng là một
trường hợp của vần luật tiệm biến hoặc một ngôi tháp càng lên những tầng
trên càng thu hẹp dần…
- Vần luật tiệm biến có các quy luật sau đây:
+ Biến thiên tăng dần về một hướng.
+ Biến thiên tăng hoặc giảm về một hướng - Trục trung tâm.
+ Biến thiên tăng dần hoặc giảm dần từ nhiều hướng tụ về một tâm.
Các công trình của KTS. Frank Lloyd
Wright, trong đó Bảo tàng Solomon
Guggenhem là một ví dụ tiêu biểu về
vần luật tiệm biến.

- Ví dụ như các trường hợp 1. Tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), 2. Tháp chùa
Phổ Minh (Nam Định), 3. Tháp Phước Duyên, 4. Chùa Thiên Mụ (Huế)
đều là vần luật tiệm biến.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

16/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Ví dụ:

Công Viên Bedford, LonDon, 1875.
Vần luật liên tục kết hợp với vần luật tiệm biến.

- Hình ảnh –
Công trình cổ áp
dụng vần tiệm
biến.

2.2.3 Vần luật lồi lõm:
- Vần luật lồi lõm là vần luật tiệm biến chỉ phát triển theo đơn hướng, hoặc
tăng lên dần đều hoặc giảm đi dần đều.
- Vần luật lồi lõm là vần luật dao động hình song, đồng thời tăng hoặc giảm
theo một quy luật.
- Vần luật tiệm biến tăng hoặc giảm đều biến đổi từ từ trong khi vần luật lồi
lõm biên độ tăng giảm khác nhau, gây ra cảm xúc lên xuống rõ ràng.
- Khi nhìn mặt bên của một số đình chùa nước ta, ta thấy ba công trình của
một ngôi chùa, ví dụ chùa tây phương, có thể có đường bao chi vi nổi lên,
phần không gian giữa các nhà lõm xuống, gây ra hiệu quả mỹ cảm nhất định.
(Chùa hình chữ tam)

- Công trình Nhà triển lãm Rossia Liên Xô (cũ) ỡ Triển lãm quốc tế Paris
là một tác phẩm nổi tiếng, đã vận dụng vần luật lồi lõm, với những mảng khối
vươn ra phía trước và vươn lên, kết thúc bằng pho tượng Công Nông nổi
tiếng, đã biểu hiện cho sự hướng tới tương lai của nhân dân.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

17/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Biệt Thự trên thác, KTS. Frank Lloyd Wright. Hình ảnh minh họa:


- Nhà ở nhiều căn hộ ở Cabaslanca-Maroc, 1953-1955, KTS. Anotre Studer.
- Nhà triểm lãm ở Turin, Italia, 1948-1949.
2.2.4 Vần luật giao thoa:
- Vần luật giao thoa được tạo thành bởi các thành phần kiến trúc đan chéo
nhau tạo nên. Sự đan chéo nhau này có thể là do hình khối, không gian hoặc
các chi tiết đan chéo nhau tạo nên.
- Vần luật giao thao không giống các loại vần luật khác, có tính chất triển khai
theo một hướng mà vần luật giao thoa tạo nên bởi sự chéo nhau theo hai
hướng đứng và ngang hoặc hiệu quả đa hướng.
- Vần luật giao thoa có thể được sử dụng trong tổng thể quy hoạch, trong bố
cục không gian một công trình kiến trúc, có thể thấy trên mặt đứng một công
trình kiến trúc, cũng có thể thấy trên một bộ phận của mặt đứng hoặc trong
trang trí nội thất.
+ Trong tổng thể
quy hoạch, ví dụ một khu
nhà ở lắp ghép, để tránh
đơn điệu, buồn tẻ của
nhịp điệu đều đều giản
đơn, người ta có thể sắp
xếp các ngôi nhà theo
vần giao thoa - lẽ đương
nhiên phải kết hợp với
các điều kiện thực tế
khác nữa. + Trong bố
cục không gian hình khối
có vần luật giao thoa, ví
dụ mẫu mực nhất là Tòa
biệt thự Kaufmann trên
mặt thác của suối Biarơn,
Pensyvania, Mỹ do KTS. Frank Lloyd Wright thiết kế năm 1936. Đó là những

khối đá và bê tông đan nhau tạo thành các hiên lớn vươn ra ngoạn mụctrên
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

18/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

mặt thác nước, hòa hợp với phong cảnh núi rừng hùng vĩ. (Tòa nhà gồm 3
tầng, tầng dưới cùng sát mặt nước đặt phòng sinh hoạt chung, phòng ăn,
phòng bếp, hai tầng trên đặt các phòng ngủ). Ngoài cách sử dụng phương tiện
tổ hợp gia thoa, công trình này còn đẹp ở chỗ đưa được vào nội thất cá cảnh
rừng, tiếng suối…
+ Ví dụ Biệt thự
Robbie
House

Chicago, xây dựng năm
1909, công trình có cấu
trúc mặt bằng, hệ mái
lớn vươn dài và cách
nhấn mạnh phân vị
ngang cùng những vật
liệu mộc mạc, tự nhiên
khi xây gạch trần, đá, gỗ
nên công trình như lan
tỏa trên mặt đất và hài
hòa với khung cảnh thiên
nhiên xung quanh.
+ Vần luật giao thao hay được dùng trong tổ hợp mặt đứng nhà cao

tầng. Ở nước ta, những tấm lỗ hoa bê tong hay gốm trang trí dung vần luật
giao thoa cho nội ngoại thất cũng được sử dụng phổ biến.
+ Trong chi tiết cấu tạo kiến trúc: thường dùng trong cá chi tiết trang trí
hoàn thiện . Ví dụ, để lát nền, sàn trong một căn phòng, để tránh đơn điệu và
để tạo cảm giác vui mắt, sinh động ngưới ta dung vần luật giao thoa. Vần luật
giao thoa cũng thường được dùng trong các chi tiết mặt nhà đan chiếu sáng
cầu thang; các mảng tường trang trí đến diềm trang trí trên mái, cửa sổ, lan
can, tay vịn cầu thang hoặc cácc trần trang trí.
- Hình ảnh minh họa: Nội ngoại thất cung thể thao nhỏ ở Roma, Italia,
1957, KTS. Luigi Nervi.
- Vần luật và nhịp điệu trong kiến trúc (cũng như trong ca, múa, nhạc) là biểu
hiện của hoạt động sang tạo của con người thao quy luật tự nhiênnhắm sang
tạo ra cái đẹp.
- Nhưng đối với các kiến trúc lớn, còn phải đề cập đến khái niệm sự cắt đoạn
nhịp điệu hay là sự nghỉ, sự nhấn mạnh trọng điểm. Cách xử lý kiến trúc này
rất quan trọng vì những thành phần nhằm tạo thành do cắt đoạn nhịp điệu, sẽ
tạo thành trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh hay đột xuất cần thiết, phá bỏ sự đồng
điệu gây nên bởi một chuỗi một chuỗi quá dài các nhịp điệu. Nếu không có
cách xử lý cắt đoạn nhịp điệu, kiến trúc sẽ trở thành một bài văn không có dấu
chấm, dấu phẩy.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

19/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

Hình ảnh - Học viện quản
trị kinh doanh của Ấn Độ,
Ahmedabad, Ấn Độ, 1965

của Louis Kahn.

3. Chủ yếu và thứ yếu – Vai trò chính và phụ:
3.1 Khái Niệm:
- Sự hoàn chỉnh của một bố cục tạo hình kiến trúc để thể hiện mục tiêu nhấn
mạnh tất yếu dẫn đến sơ đồ nhịp điệu trong đó “phần này” quan trọng hơn
“phần kia”. Việc xác định phần “chủ yếu” và “bổ trợ” rất quan trọng trong sơ
đồ nhiều tỷ lệ và nhịp điệu xuất hiện. Việc thiết kế tạo hình giống như hoạt
động có tính chất tổng hòa: có thể nghiên cứu riêng rẽ theo phần chính, tuy
nhiên để đạt được mức độ cao cần có sự phối hợp tất cả các yếu tố trên trong
tổng thể duy nhất và hợp lý.
3.2 Chủ yếu và thứ yếu:
- Hiệu quả thẩm mỹ thống nhất và hài hòa đạt được nếu trong bản thân nội tại
một bộ phận hoặc toàn thể tác phẩm tạo hình đó có thành phần chủ yếu và thứ
yếu.
- Cả hai yếu tố chủ yếu và thứ yếu có mối liên hệ thống nhất và có sự khác
nhau giữa chúng.
+ Ví dụ: Trong một quần thể tạo hình kiến trúc, một công trình ở giữa
và hai công trình ở hai bên, được xử lý hình khối, kích thước đột xuất để nhận
lãnh trách nhiệm làm chủ thể. Hình ảnh minh họa:

Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

20/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

+ Thành phần chủ yếu và thứ yếu của công trình kiến trúc hay quần thể kiến
trúc do công năng xác định. Một thể kiến trúc – ví dụ như nhà hát và rạp chiếu

bóng – phòng khán giả là bộ phận chủ yếu có hình khối to lớn vượt lên, làm
nhân tổ hợp cho cả công trình, các phòng diễn viên là những thành phần thứ
yếu và mang tính chất phù trợ.
- Phương tiện cụ thể để tạo thành mối liên hệ hợp lý giữa chủ yếu và thứ yếu
trong tạo hình là hai cách sau:
+ Sử dụng thủ pháp tương phản (tương phản về hình khối, chênh lệch
về độ cao, độ sáng tối), dùng biện pháp “hô ứng”. Những thành phần nhỏ phù
trợ cho những thành phần chính. Ví dụ: Tòa nhà Quốc hội Brazil
+ Bố trí trục chính và sắp xếp vị trí các thành phần chính trên trục chính
làm thành phần chủ yếu, các công trình phụ đặt hai bên thẳng hàng hoặc thẳng
góc, hoặc gần như thẳng góc. (Ví dụ hình III.28-a, b, c)
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

21/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

* Ví dụ tiêu biểu là Tòa nhà đô đốc hải quân ở Pê-téc-bua (trong
kiến trúc cổ điển Nga): phần ở giữa có tháp cao, nhấn mạnh chủ thể, hai phần
hai bên dàn trải, góp phần nhấn mạnh tổ hợp trục cho trục giữa, tạo thành một
khung cảnh hài hòa.
* Ngoài ra, trong kiến trúc thời kì văn nghệ Phục Hưng cà các
quảng trường đã có những bằng chứng rất nổi tiếng về cách xử lý này.
Hình ảnh: Nhà thờ Saint
Peter, Vatican

- Tuy vậy, chúng ta cũng phải ghi nhận rằng, trong kiến trúc có khi tồn tại hai
công trình hoàn toàn giống nhau, đứng cạnh nhau, tạo thành một khối “như
nguyên thể”. Nếu để nguyên tình trạng như vậy có thể có cảm giác cảm giác

đơn điệu, buồn tẻ cho nên có thể xử lý phần hai công trình giáp nhau có hình
khối cao lên hoặc dung một khối kiến trúc thứ ba làm trung gian liên kết.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

22/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

Tháp Petronas – Malayxia.

Tháp Bahrain - Những chiếc cối xay gió trên vịnh Ba Tư, hai khối tháp được
nối với nhau bới 3 chiếc cầu, trên đó được gắn các tubin gió có cánh quạt dài
29m.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

23/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

- Khái niệm vần luật và nhịp điệu gằn bó chặt chẽ với tổ chức bố cục tạo hình.
Tùy theo việc bố trí các thành phần bằng nhau hay khác nhau, ta đạt được tính
phương hướng, cảm giác trượt, cảm giác động thái hướng về 1 chiều…
- Nguyên lý để lựa chọn một phần hay một yếu tố kiến trúc làm vai trò chủ
yếu (điểm chính) của toàn bộ tác phẩm kiến trúc, đó là phải tập trung nghiên
cứu về khối hình, chi tiết, biểu đạt ý đồ chủ đạo vào phần chủ yếu (chính), còn
các bộ phận khác là phần thứ yếu (phụ) phải phụ thuộc, hỗ trợ vào phần chủ
yếu để làm nền tôn phần chủ đạo.
+ Lựa chọn vị trí của yếu tố chủ yếu (chính): Nó phải thực sự là điểm

nhấn, lôi cuốn mọi người từ các hướng, từ các góc nhìn; Phần thứ yếu không
che khuất phần chủ yếu hoặc làm sai lệch ý đồ chủ đạo.
+ Xác định được hình khối, đường nét điển hình nhất, cô đọng nhất,
biểu tượng được đặc điểm, tính cách của toàn bộ tác phẩm kiến trúc.

- Chú trọng gia công phần trọng điểm của kiến trúc không chỉ để tăng hiệu quả
đa dạng, mà còn có tác dụng loại bỏ sự đồng nhất, đơn điệu, tuy vậy trang trí
phải có chừng mực nếu không sẽ gây ra hiệu quả phức tạp, không còn giữ
được tính chất trật tự của công trình.
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

24/27


Chương 4 - §2: Quy luật bố cục hình khối không gian của công trình kiến trúc

4 Sự liên hệ và phân cách:
4.1 Khái Niệm:
- Trong thiết kế tạo hình nói chung và trong thiết kế tạo hình kiến trúc nói
riêng thường tổ hợp nhiều thành tố trong một bố cục, nhưng trong đó cũng có
những nhóm thành phần chung quan hệ và những nhóm hoặc đơn lẻ hoặc
không chung quan hệ, vì thế để tạo thành một tác phẩm có tính trật tự và tạo
tính đa dạng trong một thể thống nhất, người ta kết hợp, liên hệ những yếu tố,
thành phần không thể liên hệ được với nhau.
- Liên hệ ở đây là lien hệ cấu trúc, lien hệ theo vần luật và phân cách nhịp
điệu, cấu trúc, nhóm hình…
- Liên hệ và phân cách giữa các thành phần trong bố cục tạo hình có tầm quan
trọng trong việc hình thành hiệu quả thống nhất và biến hóa.
- Liên hệ và phân cách bao giờ cũng đi đôi với nhau vì một tác phẩm tạo hình
có rất nhiều thành phần. Sự liên hệ, phân cách ở đây chỉ đạt được tính hợp lý

trên hai cơ sở:
+ Mối liên hệ nội tại giữa các bộ phận với nhau tạo nên tính bền vững
và chặt chẽ, phù hợp với quy luật thẩm mỹ.
+ Mối liên hệ giữa một bộ phận với tổng thể hợp thành một tác phẩm
đạt được tính thống nhất trong một bố cục.
- Phân cách những bộ phận không thể kết hợp thành một tập hợp hoặc bộ
phận. Như quan hệ giữa chúng không có cùng tính chất, đặc tính, phong
cách… Ví dụ như trong một căn hộ ở, với các không gian: sinh hoạt chung,
các phòng ngủ, phòng ăn, phòng bếp và phòng vệ sinh vừa cần có một mối
liên hệ hữu cơ mà lại vừa cần có một sự ngăn cách thích hợp xuất phát từ công
năng sử dụng. Chẳng hạn phòng sinh hoạt chung phải đặt gần hiên sinh hoạt,
đặt gần chỗ ăn, chỗ ăn lại phải đặt gần bếp, phòng ngủ phải đặt gần khối vệ
sinh…
- Trên cơ sở công năng, thêm vào các phương pháp tổ hợp nghệ thuật, người
kiến trúc sư có thể đạt được hiệu quả như ý về sức biểu hiện của tác phẩm.
- Nội dung của việc xử lý và liên hệ phân cách bao gồm:
+ Liên hệ và phân cách của không gian hình khối.
+ Liên hệ và phân cách của tổ hợp mặt đứng và cấu kiện kiến trúc.
4.2 Liên hệ và phân cách của không gian hình khối:
- Sự liên hệ và phân cách ở đây được xét dưới ba khía cạnh:
+ Giữa các không gian hình khối với nhau.
+ Giữa nội thấ và ngoại thất.
+ Giữa các không gian nội thất với nhau.
- Giữa các không gian hình khối với nhau - hiểu theo nghĩa rộng – là một quần
thể quy hoạch, sự liên hệ và phân cách ở đây trước hết căn cứ vào yêu cầu
công năng: các nhà đặt cách xa nhau theo yêu cầu thông gió, chiếu nắng,
phòng hỏa, vệ sinh, mỹ quan…
Nguyên lý thiết kế kiến trúc dân dụng

25/27



×