Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường khả hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.69 KB, 60 trang )

Mở đầu
Toàn cầu hoá đang là một xu thế khách quan, nổi trội của thời đại. Cho
đến nay, ngời ta vẫn cha thôi tranh luận về bản chất của toàn cầu hoá, thậm
chí còn đang có rất nhiều những hoạt động, những cuộc biểu tình chống lại
toàn cầu hoá. Tuy vậy, không thể phủ nhận là toàn cầu hoá đang mang lại
những cơ hội hết sức to lớn cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Về logic thì
nếu hiện thực hoá đợc những cơ hội đó, các quốc gia sẽ có đợc những thành
quả phát triển to lớn. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề dễ dàng gì. Vì bên
cạnh những cơ hội, toàn cầu hoá còn đặt ra rất nhiều thách thức. Nhiệm vụ đặt
ra đối với các quốc gia là làm thế nào để tận dụng đợc cao nhất những cơ hội
mà toàn cầu hoá đem lại, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của
nó.
Việt Nam cũng đã thực sự nhập cuộc vào xu thế toàn cầu hoá. Là một nớc đi sau, Việt Nam có đợc nhiều bài học kinh nghiệm để tiến hành thành
công quá trình hội nhập, nhng thu đợc bao nhiêu thành quả từ xu thế này lại
phụ thuộc vào trình độ của chính Việt Nam.
Trong khuôn khổ của luận văn này, tôi xin trình bày một số nét khái quát
về toàn cầu hoá, những yêu cầu đặt ra với Việt Nam và một số giải pháp chính
để nâng cao khả năng hội nhập của Việt Nam.
Luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Một số vấn đề về lí luận và thực tiễn toàn cầu hóa.
Chơng 2: Việt Nam với quá trình toàn cầu hoá.
Chơng 3: Một số giải pháp nhằm tăng cờng khả năng hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.

1


Chơng 1

Một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn toàn cầu hoá


1.1. Một số nét về lý luận

1.1.1. Những quan điểm khác nhau về toàn
cầu hoá
Toàn cầu hoá là một trong những đề tài đợc bàn luận nhiều nhất ở khắp
nơi trên thế giới kể từ các thập niên cuối thế kỷ XX đến nay. Tuy nhiên, hiện
nay đang có rất nhiều quan điểm trái ngợc nhau về toàn cầu hoá. Mặc dù vậy,
dù chấp nhận hay không chấp nhận tham gia tích cực vào quá trình này, ngời
ta vẫn phải hiểu để chuẩn bị ứng phó nếu nó đã, đang đến hoặc sẽ đến.
Một số ý kiến cho rằng, toàn cầu hoá nh ngời ta đang làm ồn ào hiện nay
là không có thật hoặc ít ra là nó cha tồn tại đến mức nh nhiều ngời tởng.
Họ cho rằng, cho đến nay, một bộ phận lớn của hành tinh chúng ta cha
gia nhập tích cực vào tiến trình toàn cầu hoá. Đó là phần lớn Châu Phi và
Châu Mỹ La Tinh, toàn bộ vùng Trung Đông (trừ Israel) và nhiều vùng ở
Châu á. Còn lại chính các nớc phát triển ở Phơng Tây thì mức độ tham gia
vào kinh tế toàn cầu cũng khác nhau giữa các vùng.... Tóm lại là nếu nh toàn
cầu hoá là có thực thì nó mới chỉ diễn ra chủ yếu ở Bắc bán cầu.{21,tr.77}
Còn nếu xem xét toàn cầu hoá từ những đặc trng của nó, những ngời có
quan điểm này lập luận nh sau:

2


- Về sự gia tăng phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Sự thực là thế
giới nói chung không phụ thuộc lẫn nhau nhiều nh mọi ngời hiện nay vẫn quá
nhấn mạnh. Nếu xem xét biểu hiện chủ yếu của sự phụ thuộc lẫn nhau là sự
phát triển của xuất khẩu hàng hoá và vốn thì ở 24 nền kinh tế phát triển nhất
thế giới (những nớc thuộc OECD) ngay từ năm 1960 đã có nhịp độ tăng xuất
khẩu nhanh và xuất khẩu chiếm 9,5% GDP - một tỉ trọng không thua kém gì
so với năm 1999. Mặt khác, cũng cần chỉ ra rằng, các nền kinh tế phát triển

này vẫn có tính địa phơng ở mức cao: gần 90% sản xuất và dịch vụ của nớc
Mỹ đợc dùng cho nội bộ đất nớc, còn xuất khẩu của ba nền kinh tế lớn nhất
thế giới Mỹ - Nhật - EU cũng chỉ chiếm tối đa 12% GDP. Có thể thấy là thế
giới ngày nay so với trớc kia không phải đợc đặc trng bởi sự phụ thuộc lẫn
nhau tăng lên, mà bởi hố cách biệt đang tăng lên trong tăng trởng giữa các
quốc gia.
- Về đặc trng toàn cầu hoá với hai lực lợng hùng mạnh là kinh tế và công
nghệ đang làm cho các quốc gia trở nên đồng nhất về kinh tế - chính trị theo
một mô hình kinh tế tối u. Điều này không thể có bởi không thể chỉ sau hơn
một thập niên toàn cầu hoá đến nay đã có thể khẳng định điều đó. Thử nhìn lại
75 năm vừa qua có thể thấy khá rõ là từ những hệ thống kinh tế và chính trị
khác nhau đã sản sinh ra những thành tựu đầy ấn tợng với các mô hình kinh tế
không giống nhau. Trong thập niên 1970 mô hình kinh tế chỉ huy và kế hoạch
hoá ở các nớc Châu Âu tỏ ra rất có hiệu quả, từ cuối những năm 1970 đến
cuối những năm 1980 là thời kỳ thành công rực rỡ của mô hình Nhật Bản, rồi
mô hình kinh tế Hoa Kỳ với sự tăng trởng liên tục từ thập niên 1990...
- Ngoài ra là một loạt các đặc trng nh toàn cầu hoá làm suy giảm sức
mạnh quốc gia, các lợi ích kinh tế các quốc gia thu đợc từ toàn cầu hoá góp
phần ngăn cản đợc chiến tranh... Lý thuyết thì nh vậy, nhng trong thực tế thì
dờng nh mọi thứ đều ngợc lại: khả năng đổi mới của các quốc gia đang làm
cho sức mạnh của nó tăng lên; ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay có những

3


chính phủ và dân chúng sẵn sàng hi sinh cuộc sống vật chất và an ninh của
mình cho các mục tiêu quốc gia, sắc tộc và tôn giáo và ngay nớc Mỹ - quốc
gia đợc hởng nhiều lợi ích từ toàn cầu hoá vẫn giữ ngân sách quân sự ở mức
cao nh thời kỳ cao điểm của chiến tranh lạnh để tiếp tục can thiệp vào mọi
nơi.

Ngợc lại với quan điểm trên, những ý kiến khẳng định sự tồn tại của toàn
cầu hoá chiếm số đông và cũng khác nhau theo nhiều khía cạnh.
- Có nhiều cách hiểu khác nhau về toàn cầu hoá đợc phân hoá theo hai
cực:
1. Hớng thứ nhất cho rằng,toàn cầu hoá là quá trình "thế giới hoá" dẫn tới
sự chấm dứt của nền kinh tế quốc gia và vai trò của chính phủ quốc gia trong
việc đề ra các quyết sách. Đại biểu của quan niệm này là những ngời theo chủ
thuyết tự do và tự do mới cho rằng toàn cầu hoá làm cho các quốc gia không
còn là tác nhân trung tâm nh trớc, mà thay vào đó là vô số các tác nhân, tuỳ
theo lĩnh vực chúng có liên quan; nhờ cách mạng công nghệ và thông tin mà
thế giới trở nên giống một mạng lới quan hệ hơn là một tập hợp các mô hình
quốc gia.
2. Theo hớng thứ hai, toàn cầu hoá chẳng qua chỉ là tên gọi mới cho một
quá trình cũ có từ thời Alexandre Đại Đế vào năm 356-323 TCN (ở đây chỉ có
sự khác nhau về lợng chứ không phải về chất). Có thể kể đại diện là những ngời theo chủ thuyết thực tế và thực tế mới cho rằng, dù toàn cầu hoá có phát
triển làm gia tăng tính liên kết giữa các nền kinh tế và xã hội thì điều đó cũng
không thể làm mất sự phân chia lãnh thổ của thế giới thành các quốc gia dân
tộc, các quốc gia vẫn giữ đợc chủ quyền và toàn cầu hoá không hề làm mất đi
cuộc tranh giành thế lực chính trị giữa các quốc gia. Giữa hai cực này có thể
tìm thấy vô số các ý kiến khác nhau về toàn cầu hoá mà mỗi ngời có thể cho
là phù hợp với quan niệm của mình.

4


Tuy nhiên, dờng nh đa số đều cho rằng lịch sử loài ngời đến nay đã từng
chứng kiến ba lần có "hiện tợng toàn cầu hoá" trớc khi bớc vào thời đại "toàn
cầu hoá mới" đợc bắt đầu từ những thập niên cuối của thế kỷ XX. Lần thứ
nhất vào cuối thế kỷ XV sau khi Christop Colombo tìm ra Châu Mỹ, còn Châu
Âu "khai hoá" thế giới và theo đó t bản đợc tích luỹ lớn để nớc Anh trở thành

bá chủ toàn cầu. Lần thứ hai vào giữa thế kỷ XIX khi ngời Châu Âu chinh
phục Châu á, còn Nhật Bản nắm cơ hội tiến hành cuộc "duy tân" hng thịnh
đất nớc và lần thứ ba kể từ sau Thế chiến II với sự ra đời một "trật tự thế giới"
do các cờng quốc thắng trận điều phối và các nớc á - Phi - Mỹ La tinh giành
đợc độc lập hoà nhập vào cộng đồng thế giới. Điểm chung của ba lần hiện tợng toàn cầu hoá này là: chúng là hệ quả của chiến tranh và chính sách thực
dân, trình độ phát triển của các nớc còn thấp, các vấn đề chung mang tính toàn
cầu xuất hiện cha rõ nét, các hiện tợng phát triển toàn cầu cha đợc thể chế hoá
(dù đã có việc thành lập GATT và Hiệp ớc Bretton Woods).
Lần thứ t còn gọi là toàn cầu hoá hiện đại, đợc thúc đẩy bởi sự bùng nổ
của công nghệ thông tin và toàn cầu hoá bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời
sống con ngời với cốt lõi là hiện tợng kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế, do đó
xuất hiện nhờ ba động lực: kỹ thuật - công nghệ; thông tin và dòng vốn lu
chuyển xuyên quốc gia. {21,tr.77-79}
Tuy có nhiều ý kiến khác nhau, nhng thực tế cho thấy,toàn cầu hoá là
không thể phủ nhận. Và cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hoá.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) "Toàn cầu hoá - sự
vận động tự do của các yếu tố nhằm phân phối tối u các nguồn lực trên phạm
vi toàn cầu - là một quá trình ly tâm và là một lực lợng kinh tế vĩ mô. Toàn
cầu hoá rút ngắn khoảng cách kinh tế không chỉ giữa các nớc và khu vực mà
còn giữa tác nhân kinh tế với nhau. Toàn cầu hoá cũng có xu hớng làm mất đi
sự ổn định của các tổ chức độc quyền nhóm đã đợc thiết lập bằng cách thay

5


đổi các "luật chơi" của cuộc đấu tranh giữa các doanh nghiệp để chiếm lợi thế
cạnh tranh trên thị trờng quốc gia cũng nh trên thị trờng thế giới".{24,tr13}
IMF đã định toàn cấu hoá nh là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng
tăng lên của tổng thể các nớc trên toàn thế giới, do việc gia tăng khối lợng và sự
đa dạng trao đổi xuyên biên giới sản phẩm và dịch vụ cũng nh các luồng vốn

quốc tế đồng thời việc phổ biến công nghệ ngày càng rộng khắp.{14,tr.63}
Nhà kinh tế học Asfan Kumssa nhận định: "Toàn cầu hoá là một hiện tợng đa phơng diện áp dụng cho nhiều hình thức hoạt động xã hội đa dạng nh
kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hoá, quân sự và công nghệ cũng nh các vấn
đề hoạt động và xã hội nh môi trờng".{1,tr.39}
Theo Mc Gren: "Toàn cầu hoá là việc hình thành một chuỗi cơ số các
mối liên kết và ràng buộc giữa các chính phủ và các xã hội, tạo lập lên hệ
thống thế giới hiện đại. Toàn cầu hoá cũng là quá trình mà ở đó các sự kiện,
các quyết định, các hoạt động của một phần thế giới có thể tác động nghiêm
trọng đến các cá nhân và cộng đồng ở các phần khác xa của trái đất. Nh vậy,
toàn cầu hoá là kết quả của sự liên kết kinh tế, chính trị, địa kinh tế".{25,tr.6}
Theo PGS. TS Võ Đại Lợc, "thực chất toàn cầu hoá kinh tế là tự do hoá
kinh tế và hội nhập quốc tế, trớc nhất là về thơng mại, đầu t, dịch
vụ..."{7,tr.20}
Dù các quan niệm có khác nhau, nhng những điểm chung có thể nhận
thấy đó là: sự phụ thuộc ngày càng gia tăng giữa các quốc gia, sự vơn tới quy
mô toàn cầu của các quan hệ kinh tế và sự lu chuyển ngày càng mạnh mẽ của
các yếu tố sản xuất bao gồm vốn, công nghệ kỹ thuật và lao động.
1.1.2. Khái niệm, bản chất của toàn cầu hoá
1.1.2.1. Khái niệm

6


Dựa trên các ý kiến, quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá, có thể tóm tắt
khái niệm về toàn cầu hoá nh sau:
Toàn cầu hoá là sự vơn ra toàn cầu của tất cả các mối quan hệ kinh tế tạo
thành một mạng lới có sự gắn bó hữu cơ trên cơ sở sự phát triển cha từng có
của lực lợng sản xuất, và tính xã hội hoá cao của sản xuất.
1.1.2.2. Bản chất
Về bản chất của toàn cầu hoá, có nhiều quan điểm khác nhau nhng tựu

chung lại có hai quan điểm sau đây:
Loại quan điểm thứ nhất cho toàn cầu hoá là kết quả của chiến lợc siêu cờng Mỹ với sự liên kết của một số nớc t bản và đế quốc khác, nhằm áp đặt cho
thế giới sự thống trị của kinh tế Mỹ. Thực chất toàn cầu hoá là Mỹ hoá chứ
không có gì khác. Thực chất quan điểm này mới chỉ chú trọng tới chủ chi phối
các hoạt động kinh tế nhng những nhân tố nào dẫn tới và cho phép Mỹ thực
hiện vai trò này thì cha đợc bàn tới.{2,tr.18}
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, toàn cầu hoá kinh tế có nguồn gốc từ
quốc tế hoá. Từ thế kỷ 16 - 17 khi sự phát triển của nền sản xuất thủ công đòi
hỏi sự mở rộng căn bản các thị trờng tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là cung cấp
nguyên vật liệu một cách ổn định thì quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
bắt đầu xuất hiện. Trong đó các quan hệ thơng mại là nhân tố cơ bản của quá
trình tái sản xuất, đồng thời thông qua phân công lao động quốc tế tác động
mạnh mẽ tới chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu của các quốc gia. Tới thế
kỷ XX, sự phát triển theo chiều ngang của quá trình quốc tế hoá các hoạt động
kinh tế trên cơ sở thơng mại đợc bổ sung thêm bằng việc xuất khẩu vốn sản
xuất và vốn cho vay. Các tập đoàn và các công ty xuyên quốc gia (TNC S) lớn
đợc hình thành. Trong nội bộ và quan hệ bên ngoài của các công ty này hình
thành các quan hệ hợp tác sản xuất quốc tế. Kể từ đây, quá trình quốc tế sản
xuất ngày càng phát triển sâu rộng và đạt đến một quy mô mới, lớn hơn và ở

7


trình độ cao hơn đó là toàn cầu hoá kinh tế. Nói cách khác, toàn cầu hoá kinh
tế là quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã đạt tới trình độ đa vào lu thông
kinh tế toàn cầu các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội dựa trên phân công
lao động toàn cầu, thông qua các loại hình quan hệ kinh tế khác nhau giữa các
nớc, các nền kinh tế và do đó khiến các nền kinh tế xâm nhập và gắn bó chặt
chẽ với nhau, chuyển hoá thành nền kinh tế toàn cầu.{16,tr.11}
Vậy bản chất của toàn cầu hoá là gì?

Chúng ta thấy, hiện nay, toàn cầu hoá về kinh tế vẫn là một đề tài chiếm
vị trí trọng tâm. Thật vậy, những lĩnh vực khác của toàn cầu hoá cũng đều xuất
phát từ những nguyên nhân và lý do kinh tế. Liên hiệp Châu Âu - một hình
thức của toàn cầu hoá kinh tế - chính trị ban đầu cũng xuất phát từ lý do kinh
tế. Tiền thân của nó là cộng đồng Than - Thép Châu Âu; NATO - một hình
thức của toàn cầu hoá quân sự, ra đời cũng là để bảo vệ quyền lợi kinh tế của
các nớc t bản phát triển; những vấn đề toàn cầu của văn hoá, môi trờng sinh
thái... cũng nảy sinh bởi toàn cầu hoá kinh tế... Vì vậy có thể nói: toàn cầu hoá
ngày nay có bản chất chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế, với những tác động sâu
rộng của nó đến các mặt đời sống xã hội nh quân sự, chính trị, văn hoá, môi
trờng... Và việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong các lĩnh vực này không
thể liên quan đến toàn cầu hoá kinh tế. Phần lớn các tác giả đều đi đến khẳng
định:
- Toàn cầu hoá là một quá trình gắn liền với sự phát triển và tiến bộ xã
hội diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu.
- Toàn cầu hoá là quá trình làm biến đổi sâu sắc, toàn diện các mối quan
hệ kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, khoa học, môi trờng... của thế giới theo
hớng toàn cầu hoá.
- Thực chất của toàn cầu hoá là toàn cầu hoá kinh tế.
1.2. Thực tiễn toàn cầu hoá hiện nay

8


1.2.1. Mặt tích cực
1.2.1.1. Toàn cầu hoá kinh tế phát triển mạnh mẽ
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trờng
hiện đại, mặt chủ yếu của toàn cầu hoá hiện nay là toàn cầu hoá kinh tế. Nhìn
vào lịch sử kinh tế có thể thấy lịch sử kinh tế thế giới chủ yếu là lịch sử mở
rộng thị trờng: từ nông thôn mở ra thành phố, từ vùng này mở đến vùng kia và

từ nớc này vơn tới nớc khác. Thị trờng ở đây đợc hiểu không chỉ là nơi ngời
bán và ngời mua gặp nhau nh trong nền sản xuất hàng hoá mà mở rộng ra là
sự kết hợp ngời bán với ngời mua, các nhà sản xuất với ngời tiêu dùng và
những ngời có tiền tiết kiệm với các nhà đầu t. Nh vậy toàn cầu hoá kinh tế
thực chất là tiến trình mở rộng thị trờng mà trong thế kỷ XX đã bị hai cuộc thế
chiến và các cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế kìm hãm. Tuy vậy cho tới
đầu thập niên 1990 sau những nỗ lực thơng lợng về buôn bán quốc tế thì tỉ lệ
thuế trung bình trên thị trờng đã giảm xuống còn khoảng 5% (so với khoảng
40% năm 1940) làm cho xuất khẩu tăng gần 10 lần so với 4 thập niên trớc. Và
chính ở thập niên này, tiến trình mở rộng thị trờng đã thúc đẩy và toàn cầu hoá
xuất hiện nh là một hiện tợng mới về chất. Có một đặc điểm nổi bật là: trớc
kia các quốc gia đợc coi là thực thể kinh tế riêng biệt và liên kết với nhau qua
buôn bán thì nay các công ty ngày càng không để ý đến biên giới quốc gia khi
đa ra những quyết định về sản xuất, thị trờng và đầu t (cho đến cuối thập niên
1990) luồng vốn t nhân đã lấn lớt luồng vốn chính phủ ở các nớc đang phát
triển), còn các công ty đa quốc gia đang có những cuộc sáp nhập quốc tế với
xu hớng tổ chức sản xuất trên quy mô toàn cầu làm cho nhiều thị trờng đã
thực sự trở nên có tính toàn cầu. Các chính phủ cũng cùng với các công ty
thúc đẩy toàn cầu hóa mà điển hình là Liên hiệp Châu Âu với việc theo đuổi
thị trờng thống nhất Châu âu và đồng tiền chung. Các nớc nghèo cũng góp
phần thúc đẩy toàn cầu hoá qua việc xin gia nhập WTO với niềm tin buôn bán
toàn cầu và đầu t có thể trợ giúp cho phát triển kinh tế đất nớc.

9


Ngời ta cho rằng, toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra theo các xu thế:
1. Tài chính - tiền tệ đang phát huy vai trò to lớn trong đời sống kinh tế
toàn cầu.
2. Mậu dịch quốc tế sẽ thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế và liên kết khu vực.

3. Các công ty xuyên quốc gia sẽ thúc đẩy làn sóng sáp nhập xí nghiệp
xuyên quốc gia.
4. Nối mạng Internet sẽ làm thay đổi phơng thức sản xuất và sinh hoạt
của loài ngời.
5. Tri thức sẽ trở thành thành phần độc lập trong yéu tố sản xuất của thế
kỷ XXI.
6. Toàn cầu hoá rủi ro về kinh tế.
7. ảnh hởng chính trị xã hội của toàn cầu hoá kinh tế theo hớng tạo sự
phụ thuộc lẫn nhau làm gia tăng các lợi ích chung của các quốc gia do
thúc đẩy hoà bình và phát triển chung của thế giới.
1.2.1.2. Toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các lĩnh vực
Sự phát triển của toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ ở hầu hết các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh....nhng chủ yếu là các lĩnh vực sau:
a. Cơ cấu sản xuất kinh doanh đang thay đổi thông qua các cuộc cải
cách, giải thể, sát nhập của các tập đoàn, công ty, cả trong các lĩnh vực sản
xuất và lĩnh vực tài chính ngân hàng. ở đâu phát triển kinh tế tri thức mà chậm
cải cách cơ cấu đều rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Hiện nay, nớc Mỹ có
90% các tập đoàn lớn đã đợc tổ chức lại. Chính cuộc cải cách này đã đa GDP
nớc Mỹ hiện nay lên hơn 10 ngàn tỷ USD/năm. Cuộc cải cách cơ cấu của các
tập đoàn xuyên quốc gia liên quan đến nhiều nớc, tác động đến nhiều châu
lục.{20,tr.40}

10


b. Cơ cấu thơng mại thay đổi, do các nhân tố:
- Sự tham gia toàn cầu hoá của nhiều nớc đang phát triển với số dân
khoảng 3 tỷ ngời. Họ đã thành công trong cạnh tranh thể hiện ở tỷ lệ sản phẩm
chế tạo xuất khẩu đã nâng từ 25% (1980) lên 80%(1998)
Theo WB thì có một số thay đổi đáng kinh ngạc trong toàn cầu hoá là:

trong một thời kỳ rất ngắn, các nớc có thu nhập thấp (Trung Quốc, Bangladet,
Xrilanca) đa tỷ lệ sản phẩm chế tạo xuất khẩu cao hơn mức trung bình thế
giới là 81%. Còn ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Marôc, Indônêxia đạt tỷ lệ trung bình
thế giới. Vì vậy, các nớc này có tỷ lệ thơng mại /GDP ở thứ bậc cao trên thế
giới.
- Mặt khác, sự gia tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ là một thay đổi quan
trọng trong cơ cấu xuất khẩu.
c. Toàn cầu hoá còn đợc thúc đẩy mạnh bởi các nguồn vốn:
- Đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI). Các nớc thực hiện chính sách hớng về
xuất khẩu đều tạo môi trờng thu hút mạnh nguồn FDI (nh Trung Quốc thu hút
trung bình 40 tỷ USD/năm). Do đó những nớc này nhanh chóng nâng cao tỷ lệ
FDI/ GDP. Nhờ đó,các nớc này đã đổi mới công nghệ và cải cách quản lý,
tham gia có hiệu quả vào mạng lới sản xuất quốc tế. Luồng vốn FDI tới các nớc đang phát triển tăng nhanh, từ cha đầy 28 tỷ USD (1970) đã lên tới 306 tỷ
(1997) theo giá trị thực tế.
- Toàn cầu hoá còn thu hút các quỹ tơng trợ, quỹ hu trí quốc tế bổ sung
vào luồng vốn đầu t tới các nớc đang phát triển.
- Nguồn vốn của nhiều nớc còn đợc bổ sung từ khối lợng tiền của những
ngời di c, xuất khẩu lao động gửi về cho ngời thân trong nớc. Đây cũng là
nguồn vốn quan trọng (ở ấn Độ, nguồn vốn này nhiều gấp 6 lần số tiền viện
trợ của nớc này). Ngoài ra số ngời di c sang các nớc cũng tạo đợc nhiều giao

11


dịch thơng mại và đầu t cho trong nớc, thông qua quan hệ cá nhân và gia đình.
Ngời ta cũng cho rằng, các mạng lới gia đình Trung Hoa ở nớc ngoài có vai
trò quan trọng đấy đối với sự phát triển của Trung Quốc.
d. Theo nghiên cứu của WB, toàn cầu hoá kinh tế có tác dụng giảm đói
nghèo (về thu nhập, giáo dục, tuổi thọ). Mức độ nghèo khổ tuyệt đối đã giảm,
từ 75% dân số (1988) xuống còn 37% (1998), đồng thời mức độ bất bình đẳng

không thay đổi. WB đánh giá Việt Nam trong tình trạng này.
1.2.1.3. Nền kinh tế tri thức thay thế nền kinh tế công nghiệp
Sự phát triển đại công nghiệp và quá trình quốc tế hoá đến cuối thế kỷ
XX đã đạt đến mức độ đòi hỏi thay đổi toàn bộ cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế
cùng với cơ cấu và thể chế kinh tế. Nhu cầu đó thúc đẩy cuộc cách mạng khoa
học công nghệ mới và cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Hai cuộc cách mạng
hầu nh diễn ra đồng thời đã đa đến sự hình thành giai đoạn đầu của nền kinh
tế tri thức vào thập kỷ 80. Nền kinh tế tri thức thay thế nền kinh tế công
nghiệp, nhng đều là kinh tế thị trờng ở hai giai đoạn khác nhau. Nếu trớc đây,
nền kinh tế công nghiệp đã từng là cơ sở của quá trình quốc tế hoá, thì bây
giờ, nền kinh tế tri thức là cơ sở của toàn cầu hoá. Nếu sức sản xuất của nền
kinh tế công nghiệp đa quan hệ quốc tế phát triển ở mức độ song phơng, đa
phơng và khu vực, thì sức sản xuất của nền kinh tế tri thức thúc đẩy quan hệ
quốc tế lên mức độ toàn cầu. Chỉ có sức sản xuất của kinh tế tri thức mới đủ
sức "phủ sóng" toàn cầu. Nếu không phân biệt quốc tế hoá với toàn cầu hoá
thì cũng có nghĩa là cha phân biệt kinh tế công nghiệp với kinh tế tri thức. Vì
vậy, quá trình quốc tế hoá bắt đầu từ khi kinh tế công nghiệp vợt ra khỏi phạm
vi quốc gia ở một phạm vi lớn. Còn toàn cầu hoá mới bắt đầu từ thập kỷ 80 thế
kỷ XX từ khi ra đời kinh tế tri thức.
1.2.1.4. Quan hệ quốc tế - song phơng, đa phơng và khu vực phát triển

12


Toàn cầu hoá phát triển kéo theo các quan hệ mang tính quốc tế phát
triển: quan hệ song phơng, đa phơng và khu vực.
Các tổ chức lớn rất có uy tín trên thế giới hiện nay nh WTO, IMF, khối
kinh tế EU, NAFTA,...
Các nỗ lực liên minh khu vực ngày càng đợc đẩy mạnh và đã có những
thành công và tiến bộ đáng kể. Liên minh Châu Âu với đồng tiên chung Châu

Âu, đồng Euro có chỗ đứng vững trên thị trờng tài chính thế giới, EU đã đợc
mở rộng và bao gồm nhiều nớc mới ở Trung Âu và Đông Âu. Khu vực thơng
mại tự do Bắc Mỹ NAFTA đã đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia,
trong đó Mehicô là nớc kém phát triển hơn nhng cũng đã thu lợi ích từ
NAFTA. Khu vực thơng mại tự do AFTA đang đợc thơng thuyết để mở rộng
thành ASEAN + 3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và trong tơng lai
không xa sẽ thêm cả Australia, New Zealand và có thể cả Mông Cổ. ASEAN
đã có nhiều cố gắng để thiết lập hệ thống SWAP theo sáng kiến Chieng Mai
đang thảo luận để thành lập Quỹ tiền tệ Châu á và trong một tơng lai xa xăm
có thể tiến tới một đồng tiền chung Châu á. Tuy vậy, ASEAN đang bị tụt hậu
về nhiều mặt so với các khối kinh tế khác và đang đứng trớc những thử thách
mới. Quy mô và phạm vi hội nhập sẽ ngày càng sâu rộng hơn, đó là xu thế có
thể nhận thấy rõ. Đặc biệt, các quan hệ song phơng, đa phơng luôn đợc chú
trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia.
1.2.2.Mặt tiêu cực
1.2.2.1: Mức độ bất bình đẳng giữa khối nớc giàu với những nớc
nghèo tăng lên
Từ thời kỳ công nghiệp hoá, phần dân số sống ở mức nghèo tuyệt đối
(thu nhập dới 1USD/ngày, đã cân đối với sức mua) giảm đi. Theo tiến trình
phát triển của các nớc, phần dân số nghèo này giảm đi, song khoảng cách giữa
các nớc công nghiệp hoá và các nớc khác lại tăng lên. Những bất bình đẳng về

13


thu nhập giữa các cá nhân sống tại các nớc khác nhau đặc biệt tăng nhanh.
Khoảng cách thu nhập giữa các nớc giàu nhất và các nớc nghèo nhất ngày
càng tăng. Theo WB, cuối những năm 80, 25% dân số thế giới sống với dới
1USD/ngày.
Từ 1960 đến 1993, thu nhập đầu ngời ở các nớc đang phát triển hàng

năm tăng 3,5%. Gần 1/4 dân số của cả thế giới sống ở khu vực Đông á và
Đông Nam á đáng mừng là có tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu ngời hàng
năm suốt thập kỷ 80 là 7%. Còn Châu Phi cận Xahara thu nhập bình quân đầu
ngời lại có xu hớng giảm xuống. Khoảng 3/4 dân số của các nớc kém phát
triển (nghĩa là 400 triệu ngời trong số 550 triệu ngời) có mức tăng thu nhập
bình quân đầu ngời hàng năm âm (cụ thể là giảm từ 229USD năm 1980 xuống
210USD vào năm 1993).
Hiện tại, tổng sản phẩm quốc dân của các nớc công nghiệp chiếm tỷ
trọng rất lớn. Năm 1993 thu nhập bình quân của cả thế giới đạt 23 ngàn tỷ
USD, thì tổng sản phẩm quốc dân của các nớc công nghiệp chiếm 18 ngàn tỷ
USD. Còn khoảng hơn 5 ngàn tỷ nữa thuộc phần các nớc đang phát triển, nhng họ lại chiếm tới 80% số dân của cả thế giới.
Trong hơn 3 thập kỷ qua, mức tăng thu nhập bình quân thực tế trên phạm
vi toàn cầu là không đồng đều. Xu hớng bất bình đẳng về thu nhập ngày càng
rõ nét. trong cùng thời kỳ đó, tỷ lệ những ngời giàu có trên thế giới đã tăng từ
20% lên 70% và chiếm 80% thu nhập của cả thế giới. Tỷ lệ của những ngời
nghèo đó nhất giảm từ 23% xuống 11,4%. Nếu tính tỷ lệ ngời giàu có so với
ngời nghèo nhất lại thấy xu thế tăng nhanh rõ rệt từ 30/1 lên 60/1. Cho nên
85% dân số của cả thế giới chỉ nhận đợc cha đầy 15% thu nhập của cả thế
giới mà thôi. So sánh trên phạm vi toàn cầu ta thấy mức thu nhập bình quân
của Nhật Bản gấp 36 lần thu nhập của Tazania, đồng thời thu nhập của những
ngời nghèo nhất của Nhật Bản lại gấp 130 lần ngời nghèo nhất của Tanzania.

14


Theo thống kê gần đây của Liên Hiệp Quốc, trên thế giới có 358 tỷ phú đô la,
thu nhập của họ bằng thu nhập của 2,3 tỷ ngời nghèo nhất đang sống trên
hành tinh. Cho đến cuối tháng 3 năm 2005 đã có 1,2 tỷ/6 tỷ ngời trên thế giới
đang sống trong tình trạng nghèo đói làm dấy lên các cuộc biểu tình chống lại
toàn cầu hoá.[1, tr.74 - 81]

1.2.2.2.Chủ quyền quốc gia bị đe doạ
Quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi các nớc tham gia phải thực hiện tự do hoá,
mở cửa và hội nhập. Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt
động kinh tế vợt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực để vơn tới quy mô toàn
cầu và tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Chính vì sự phụ
thuộc đó mà các công ty lớn, các tổ chức lớn đang sử dụng sức mạnh kinh tế
của mình để can thiệp vào tình hình chính trị của các nớc sở tại. Ngoài ra với
chính sách mở cửa, hội nhập không đúng đắn, không xác định đúng đối tợng
hợp tác, cam kết hội nhập sẽ dễ dẫn đến bị hoà tan mất chủ quyền. Do vậy,
cần có chính sách mở cửa, hội nhập hợp lý để vừa đảm bảo chủ quyền quốc
gia vừa đa đất nớc hội nhập có hiệu quả.
1.2.2.3.Các tệ nạn xã hội mang tính toàn cầu gia tăng
Toàn cầu hoá phát triển càng mạnh mẽ thì các tệ nạn xã hội mang tính
toàn cầu càng gia tăng: buôn lậu, ma tuý, mafia, khủng bố, tàn phá môi trờng.
Chúng ta có thể thấy nạn khủng bố hiện nay đang gia tăng rất mạnh mẽ,
khủng bố đã từng gây nên những nỗi kinh hoàng cho ngời dân nh vụ khủng bố
11/9 tại Mỹ. Những bụ đánh bom liều chết và sát hại lính Mỹ tại Iraq cũng là
những nỗi ám ảnh đáng sợ đối với quân nhân Mỹ đã và đang làm nhiệm vụ tại
Iraq.
Tàn phá môi trờng cũng đang là một vấn đề hết sức nóng bỏng. Toàn cầu
hoá có thể cải thiện các triển vọng về quản lý môi trờng thông qua việc phát
triển rộng khắp các công nghệ môi trờng, các tiêu chuẩn, các áp lực của ngời

15


tiêu dùng và các nhà hoạt động môi trờng. Toàn cầu hoá cũng có thể tạo thêm
áp lực đối với việc khai thác môi trờng. Chẳng hạn nh, nhu cầu về giấy dẫn
đến tàn phá rừng, nhu cầu về cá dẫn đến đánh bắt cá quá mức. Sự xuống cấp
về môi trờng đang đe doạ cuộc sống của mọi ngời.Các nhà khoa học dự đoán

một sự gia tăng đều đặn nhiệt độ trên toàn cầu về mực nớc biển tràn ngập
khoảng 17% đất liền ở Bănglađet, 12% ở Ai Cập. Các nguồn lực có thể tái tạo
đang bị cạn kiệt một cách nhanh chóng và không thể duy trì đợc. Lợng nớc
sẵn có hiện nay chỉ bằng 60% vào năm 1970, độ che phủ rừng cũng suy giảm
nghiêm trọng.
Những tổn thất của môi trờng gây ảnh hởng đặc biệt nghiêm trọng tới
quá trình tăng trởng, phát triển kinh tế và nâng cao đời sống ngời dân của các
nớc và đặc biệt là các nớc đang phát triển. Có thể nói xuống cấp môi trờng là
hậu quả của sự phát triển kinh tế bất chấp mọi giá, tới lợt mình, nó tác động
trở lại quá trình phát triển của các quốc gia, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho
điều này.
1.2.2.4.Nền văn hoá và truyền thống địa phơng bị xói mòn
Sự phát triển của hàng hoá phi vật thể, sự mở rộng của mạng truyền
thông toàn cầu cùng với sự phát triển của công nghệ viễn thông đặt ra rủi ro
trongviệc đánh mất bản sắc văn hoá của các quốc gia. Các giá trị văn hoá bị
phai mờ do các truyền thống sắc tộc, địa phơng bị lạm dụng vì mục đích kiếm
tiền, nhiều công việc trớc đây ngời ta làm vì công lao giá trị thì nay vì tiền.
Toàn cầu hoá bao hàm cả toàn cầu hoá về văn hoá, do vậy, văn hoá toàn cầu
tăng cao còn văn hoá truyền thống bị xói mòn, lối xống của tầng lớp thanh
nhiên thay đổi theo chiều hớng xấu do sự tác động dữ dội của văn hoá nớc
ngoài, đe doạ đánh mất bản sắc văn hoá quốc gia.
1.3.Thụât lợi và thách thức khi tham gia toàn cầu hoá

1.3.1.Thuận lợi

16


1.3.1.1.Toàn cầu hoá thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Toàn cầu hoá thúc đẩy mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hoá lực lợng sản xuất, đa lại sự tăng trởng kinh tế cao (nửa đầu thế kỷ XX, GDP thế

giới tăng 2,7 lần, nửa cuối thế kỷ tăng 5,2 lần). Toàn cầu hoá góp phần chuyển
biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng mạnh tỷ trọng các sản phẩm chế tác
(hiện chiếm 21,4%) và các dịch vụ (hiện đã chiếm đến 62,4%) trong cơ cấu
kinh tế thế giới.[19,tr.179]
Toàn cầu hoá kinh tế là động lực cho việc thúc đẩy sự phát triển các
nhân tố kinh tế nh tiền tệ, kỹ thuật, tri thức... Qua đó, từng bớc thực hiện mở
rộng hoạt động thơng mại, nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo ra cơ hội mới cho sự
phát triển của các nớc nhng cũng đem lại những thách thức mới. Một nghiên
cứu mới đây của W.B cho thấy các nớc nghèo "tham gia toàn cầu hoá" đạt tốc
độ tăng trởng ở mức bình quân 5% trong những năm 1990, cao gấp 2,5 lần so
với mức tăng của các nớc giàu. Ngợc lại, với các nớc nghèo không tham gia
toàn cầu hoá, thu nhập quốc dân của họ gần nh không tăng. Đây chính là bằng
chứng về tác động của toàn cầu hoá đến sự phát triển kinh tế.[4,tr.6]
1.3.1.2.Toàn cầu hoá thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
Hầu hết các quốc gia tham gi hiện nay đều phát triển theo cơ chế kinh tế
thị trờng, mà với cơ chế thị trờng, để có đợc lợi thế nhờ quy mô điều kiện cần
thiết là phải mở rộng thị trờng. Nhờ khai thông thị trờng mà các quốc gia sẽ
bổ sung đợc những khiếm khuyết của nền kinh tế trong nớc. Trớc đây đã có
thời kỳ nhiều nớc chủ trơng đóng cửa thị trờng trong nớc, phát huy nội lực để
phát triển kinh tế. Sau một thời gian, chiến lợc phát triển kinh tế nh vậy đã bộc
lộ nhiều yếu kém. Chính vì vậy mà ngày nay hầu hết các quốc gia đều đã chủ
trơng mở cửa, biến nền kinh tế quốc gia thành một bộ phận của nền kinh tế thế
giới. Cũng vì thế, họ đã khai thác, tận dụng đợc những cơ hội bên ngoài cho
phát triển kinh tế trong nớc.

17


Toàn cầu hoá cũng làm gia tăng mối quan hệ giữa các nớc đó và nó thúc
đẩy chúng xích lại gần nhau hơn. Cũng chính do mối liên hệ ngày càng đợc

củng cố này mà xu thế hợp tác và hoà bình sẽ phát triển và không một nớc nào
có thể đơn phơng hành động mà không tính đến ảnh hởng đối với các nớc
khác. Thực tế cho biết muốn thúc đẩy sự phồn vinh của bản thân quốc gia
mình thì phải tham gia tích cực vào việc ổn định và thúc đẩy kinh tế của các nớc khác. Điều này giải thích vì sao Mỹ có những phản ứng tích cực tiến hành
các biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á. Chính Tổng
thống Mỹ đã khẳng định trong "Báo cáo chiến lợc an ninh quốc gia Mỹ cho
thế kỷ 21". Mỹ làm điều này để bảo vệ lợi ích cho chính Mỹ. Nó cũng giải
thích việc Mỹ gây áp lực buộc Ixaren chấm dứt bao vây đối với Palestin.
Chính lợi ích kinh tế đã gắn kết, các quốc gia trên thế giới.
Sự hợp tác cũng tạo điều kiện cho các quốc gia có cơ hội phối hợp để giải
quyết hiệu quả các vấn đề toàn cầu nh môi trờng, dân số, dịch bệnh...
1.3.1.3.Toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các
dòng vốn, công nghệ và lao động
Cùng với sự tự do thơng mại thế giới, sự lu chuyển các dòng vốn và công
nghệ cũng đợc thúc đẩy nhanh chóng. Điều này rất cần thiết đối với các nớc
đang phát triển - những nớc có nhu cầu lớn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý để phát triển..
Dòng vốn đổ về các nớc đang phát triển đã có những biến đổi to lớn cả về
lợng lẫn về chất. Xét về khối lợng, các luồng vốn chảy vào nớc này đã gia tăng
rõ nét từ những năm 1980, khi những mối nghi ngại xuất phát từ cuộc khủng
hoảng Mỹ La tinh đã lắng dịu xuống. Lợng vốn dành cho các nớc đang phát
triển đã tăng từ 35 tỷ USD vào năm 1980 lên 60 tỷ USD vào năm 1990, tăng
gần 200 tỷ USD vào năm 1996. Năm 1997, theo báo cáo của tổ chức UNGAT,
các nớc đang phát triển tiếp nhận 1043 tỷ USD vốn đầu t. Tính theo tỷ lệ GDP,

18


luồng vốn nhập vào đã tăng khoảng chừng 2 lần từ năm 1986 đến 1996. Giờ
đây, các luồng vốn t nhân vợt trội hơn vốn chính phủ. Hơn nữa, còn có thể

nhận thấy sự gia tăng mạnh mẽ của các khoản đầu t trực tiếp và các khoản đầu
t chứng khoán lấn át cả khoản cho vay ngắn hạn là hình thức chủ yếu của
những năm 70. Các khoản đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) - công cụ đặc trng
của toàn cầu hoá, bên cạnh các luồng trao đổi thơng mại đã gia tăng với tỉ lệ
đặc biệt cao. Các nớc đang phát triển thu hút tới 37% lu lợng FDI toàn thế giới
ở thời điểm 1997. [17,tr13]
Tự do di chuyển các nguồn vốn quốc tế cho phép các nớc nghèo thu hút
đợc nguồn tài chính cho các dự án đầu t sản xuất trong nớc, mang lại mức
tăng trởng cao hơn, đa dạng hoá rủi ro đầu t và bôi trơn các chu kỳ kinh
doanh, khai thác tiềm năng trong nớc nh tài nguyên thiên nhiên, giá lao động
rẻ.
Ngoài ra, toàn cầu hoá còn tác động đến sự chuyển giao công nghệ từ các
nớc phát triển sang các nớc đang và kém phát triển đồng thời kéo theo cả hoạt
động đào tạo, nâng cao kỹ năng quản lý, tay nghề lao động, di chuyển và trao
đổi nguồn lao động có tay nghề cao với nguồn lao động giản đơn, giúp các nớc tận dụng đợc lợi thế so sánh của mình.
1.3.1.4.Toàn cầu hoá mở ra nhiều thị trờng mới và cơ hội mới cho các
quốc gia
Toàn cầu hoá kinh tế thực chấp là mở rộng và phát triển thị trờng toàn
cầu và do vậy, nó thúc đẩy mọi nớc, kể cả các nớc có nền kinh tế thị trờng
phát triển nhất phải cải tổ và bắt nhịp vào quá trình hình thành một thị trờng
thế giới thống nhất nh một chỉnh thể. Đây là cơ hội tốt để các nớc tiếp cận thị
trờng khu vực và toàn cầu, mở cửa thị trờng bên trong nhằm hình thành đồng
bộ các thể chế kinh tế thị trờng trên quy mô toàn cầu. Một thị trờng lớn cho
phép tiếp cận với nhiều ý tởng hơn, nhiều cơ hội hơn, đồng thời mở rộng khả
năng lựa chọn thị trờng mới của các doanh nghiệp.
19


1.3.2.Thách thức
1.3.2.1.Toàn cầu hoá không phân phối công bằng cơ hội và lợi ích cho

các quốc gia
Toàn cầu hoá kinh tế làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố
ngăn cách giàu nghèo trong từng nớc và giữa các nớc. Cơ hội mà toàn cầu hoá
kinh tế mang lại cho các nớc trên lý thuyết là nh nhau nhng trên thực tế lại
không phải nh vậy. Do một mặt, toàn cầu hoá đợc khởi xởng và dẫn dắt bởi
các nớc phát triển nhất (toàn cầu hoá đợc hình thành và thúc đẩy bởi nền tảng
phát triển kinh tế, cao nhất là Mỹ, EU và Nhật là những nớc đợc hởng lợi
nhiều nhất và mặt khác, cùng một điều kiện nh nhau, do "hiệu ứng"của quy
luật phát triển không đều, những nớc kém phát triển, những tầng lớp dễ "tổn
thơng" trong mỗi nớc luôn là kẻ bất lợi trong toàn cầu hoá. Báo cáo năm 2000
của UNDP đã chỉ rõ "các thế lực chi phối quá trình toàn cầu hoá đã mang lại
sự giàu có vô độ cho những ngời biết tận dụng lợi thế của các luồng hàng hoá,
dịch vụ đang tràn qua các đờng biên giới quốc gia, trong khi đa số dân chúng
bị đẩy ra ngoài xã hội". Hiện tại, dân chúng ở 85 quốc gia có mức sống thấp
hơn so với cách đây 10 năm. Các nớc công nghiệp phát triển (với khoảng 1/2
tỷ ngời, chiếm 1/5 dân số thế giới) hiện đang chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5
thị trờng xuất khẩu, 1/3 đầu t trực tiếp nớc ngoài và 74% số máy điện thoại
trên toàn thế giới, trong khi đó, các nớc nghèo (thờng gia nhập toàn cầu hoá ít
và không đầy đủ) chiếm 4/5 dân số thế giới nhng chỉ tạo ra đợc 14% GDP
toàn cầu. Tỷ lệ thu nhập của 5% số ngời giàu nhất và 5% số ngời nghèo nhất
thế giới hiện nay là 74/1, trong khi đó tỷ lệ này vào năm 1820 là 3/1 và năm
1913 là 11/1. Theo đó, đến năm 1985 thu nhập bình quân tính theo đầu ngời ở
các nớc giàu chỉ gấp 76 lần so với nớc nghèo, thì đến năm 1997, sự chênh lệch
này chỉ tăng 288 lần. Tuy nhiên, theo chúng tôi cần coi những bát bình đẳng
này nh một sức ép lớn để các nớc nghèo bằng những nỗ lực cải cách của mình

20


nắm lấy các cơ hội của toàn cầu hoá đẩy mạnh hội nhập chứ không nên quay

lng chỉ trích và chống lại toàn cầu hoá.[19,tr. 182]
1.3.2.2.Toàn cầu hoá làm gia tăng tính bất ổn đối với mỗi nền kinh tế
Tính bất ổn đầu tiên của toàn cầu hoá gây ra là trong lĩnh vực thơng mại.
Do bị lệ thuộc về thị trờng và mặt hàng, nên chỉ một sự cố nhỏ - tăng hay
giảm, tỷ lệ hối đoái biến đổi cũng có thể ảnh hởng đến khả năng hoạt động
ngoại thơng của mỗi quốc gia. Tính chất bất ổn còn thể hiện ở chỗ các doanh
nghiệp không đủ sức cạnh tranh dễ bị phá sản nhanh chóng và phổ biến hơn.
Tính bất ổn lớn nhất là tính bất ổn của việc tự do hoá tài chính toàn cầu.
Trên thế giới hiện nay, quá trình tích luỹ của cải ngày càng diễn ra bên ngoài
nền kinh tế thực, tách ra khỏi các hoạt động sản xuất hơng mại lành mạnh,
làm lệch hớng sản xuất trên quy mô toàn cầu. Tự do hoá lĩnh vực tài chính tiền
tệ tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ kinh doanh tiền tệ trục lợi để kiếm lời.
Ngoài ra, tính bất ổn còn biểu hiện ở sự thiếu an toàn về thu nhập và việc
làm do việc tái cơ cấu doanh nghiệp và kinh tế, sức ép cạnh tranh toàn cầu gây
ra sự bấp bênh trong các hợp đồng thoả thuận việc làm công nhân không có
hợp đồng hoặc chỉ có các hợp đồng mới không an toàn chiếm khoảng 30%
trong tổng số lao động ở Chi lê, 39% ở Colombia. Các vụ sáp nhập và mua lại
diễn ra cùng với tái cơ cấu công ty đã khiến cho tỷ lệ thấp nghiệp ở Châu Âu
trong suốt một thập kỷ qua không đợc cải thiện và luôn ở mức 11%. Ngoài ra,
cuộc cách mạng công nghệ thông tin mang tính toàn cầu đã tạo ra thất nghiệp
trên quy mô toàn cầu, số ngời không co việc làm hiện nay trên thế giới đã lên
tới 800 triệu ngời.[1,tr.79 - 80].
1.3.2.3.Toàn cầu hoá gây ra một số ảnh hởng bất thuận đến các vấn
đề xã hội
-Không an toàn về y tế: Nhập c và du lịch tăng lên khiến cho các bệnh
AIDS lan tràn khắp nơi đến cả những khu vực mới nh nông thôn ấn Độ, Đông

21



Âu và các nớc SNG. Do 95% của 16.000 các ca nhiễm bệnh hàng ngày là ở
các nớc đang phát triển nên AIDS đã trở thành căn bệnh của ngời nghèo, làm
giảm mạnh tuổi thọ của họ, đảo ngợc lại các kết quả đạt đợc trong các thập kỷ
gần đây. Tuổi thọ của một số nớc ở Châu Phi đã đợc dự đoán là sẽ giảm 17
năm trớc 2010, quay trở lại với mức tuổi thọ của những năm 1960.[18,tr.64]
-Không an toàn về văn hoá: Sự phát triển của toàn cầu hoá đã kéo theo sự
giao lu văn hoá giữa các nớc. Dòng văn hoá hiện nay là không cân bằng
nghiêng mạnh về một phía từ các nớc giàu sang nớc nghèo. Sự tấn công dữ dội
nh vậy của văn hoá nớc ngoài có thể đặt sự đa dạng văn hoá trớc các rủi ro và
khiến cho ngời dân lo ngại rằng sẽ đánh mất bản sắc văn hoá của mình. Điều
cần thiết là phải trợ giúp văn hoá bản xứ phát triển bên cạnh văn hoá nớc
ngoài.
-Không an toàn về môi trờng: phá huỷ môi trờng triền miên- một vấn đề
cấp bách của ngày hôm nay - đang đe doạ cuộc sống của con ngời trên toàn
thế giới. Khôngchỉ ngời nghèo mà ngời giàu với sự tiêu dùng quá mức cũng có
những tác động xấu đến môi trờng.Để phát triển kinh tế, tài nguyên thiên
nhiên đang bị khai thác quá mức và nhiều nguồn tài nguyên không thể tái tạo
đang bị đe doạ nghiêm trọng. Điều đáng nói là ngời nghèo đang phải chịu
phần lớn nhữn phí tổn của việc tàn phá môi trờng.
1.3.2.4.Toàn cầu hoá làm xói mòn quyền lực nhà nớc và dân tộc, trong
khi tăng quyền lực của các TNC
Trong bối cảnh toàn cầu hoá mạnh mẽ, khi thông tin và vốn luân chuyển
nhanh chóng từ nền kinh tế này sang nền kinh tế khác thì phạm vi điều hành
của các nhà lãnh đạo kinh tế bị thu hẹp lại, và khi tham gia vào hệ thống phân
công lao động quốc tế, các nớc sẽ phải phụ thuộc vào nó. Trong điều kiện hiện
nay khi toàn cầu hoá đang chịu sự chi phối của các nớc t bản phát triển, tất
yếu dẫn đến sự phụ thuộc vào thế lực t bản tài chính quốc tế. Điều này làm thu

22



hẹp phạm vi và quyền lực của chính quyền quốc gia, Tác động này có ảnh hởng đến cả các nớc t bản phát triển, lẫn các nớc đang phát triển.
Ngoài sự phụ thuộc vào vốn, còn có sự phụ thuộc vào thị trờng và mặt
hàng. Tác động này ngày càng trầm trọng hơn đối với các nớc đang phát triển,
nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Việc chuyển giao khoa học công
nghệ đợc thực hiện chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia, mà các công ty
xuyên quốc gia luôn luôn có mục đích riêng cụ thể trong việc chuyển giao
công nghệ. Hơn nữa, để tiếp nhận đợc công nghệ thì nguồn nhân lực và khoa
học công nghệ trong nớc cần phải phát triển đến một mức độ nhất định. Bên
cạnh đó, cơ cấu phân công lao động quốc tế mới đặc biệt dựa vào sự chia nhỏ
quá trình sản xuất đã góp phần đảm bảo sự thống trị của các doang nghiệp đa
quốc gia và đã đẩy các nớc đang phát triển vào vị trí đối tác sản xuất gia công
và phải chấp nhận tình trạng phụ thuộc.
Tình trạng phụ thuộc ngày càng cao thì nguy cơ bất ổn kinh tế sẽ ngày
càng gia tăng. Trong điều kiện phụ thuộc hệ thống phân công lao động quốc
tế, các nớc kém phát triển không những chịu hậu quả tác động dây chuyền
trong các chấn động kinh tế mà còn làm giảm khả năng kiểm soát điều chỉnh
các hoạt động kinh tế quốc gia, cả ở tầm vĩ mô và vi vô. Do vậy cần phải thận
trọng trong việc lựa chọn và xác định một chiến lợc kinh tế đối ngoại hợp lý,
đảm bảo đợc sự phát triển gắn liền với giữ vững độc lập dân tộc.

Chơng 2

Việt nam với quá trình
toàn cầu hoá
2.1.Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam

23



2.1.1.Quá trình hình thành chủ trơng hội nhập kinh tế quốc tế
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, công cuộc đổi
mới đất nớc đã đợc tiến hành một cách toàn diện nhằm mục đích chuyển từ
nền kinh tế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN,
đồng thời đa đất nớc tham gia tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế và khu
vực. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định rõ chính sách đa đất
nớc hội nhập tích cực vào khu vực thế giới, thực hiện theo phơng châm "Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc và các khu vực trên thế giới".
Tiếp theo tinh thần đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII (6/1991) và Đại
hội VIII (1996) cùng các Nghị quyết của Hội nghị Trung ơng trong các kỳ đại
hội đều chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu nh Đại hội VI Đảng ta nhấn
mạnh "Phải gắn thị trờng trong nớc với thị trờng thế giới, giải quyết mối quan
hệ giữa tiêu dùng trong nớc và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội
địa". Thì tại Hội nghị trung ơng 3 khoá VII đã có bớc tiến trong việc xác định
một cách cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế, trong dó khẳng định phải công
khai không quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. T tởng này đợc khẳng
định lại trong hội nghị trung ơng khoá VII là "Từng bớc tham gia các tổ chức
kinh tế thơng mại thế giới và khu vực.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định sự cần thiết cũng
nh làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hội nhấn
mạnh "Phải xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập mới khu vực và thế giới,
hớng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế cơ cấu thị trờng để vừa hội nhập
khu vực, hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và đối tác, chủ
động tham gia thơng mại thế giới các diễn đàn , các tổ chức, các định chế
quốc tế một cách có chọn lựa với hớng đi thích hợp".

24


Một lần nữa Đại hội IX (4/2000) khẳng định lại chủ trơng "Phát huy cao

độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh và bền vững".
Trên cơ sở những t tởng chỉ đạo của các nghị quyết, Đảng và Chính phủ
đã thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế IEC (1998) với chức
năng theo dõi và thúc đẩy công tác hội nhập kinh tế quốc tế của đất nớc, xây
dựng một chiến lợc tổng thể về hội nhập và một lộ trình cụ thể để các ngành,
các địa phơng, doanh nghiệp khẩn trơng sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản
xuất, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đảm bảo hội nhập có hiệu
quả.
Có thể nói cha bao giờ tiến trình hội nhập đợc nhận thức rõ ràng nh hiện
nay. Mới đây, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 07- NQ/TW về hội nhập kinh tế
quốc tế. Nghị quyết chỉ rõ mục tiêu của hội nhập là: Chủ động hội nhập kinh
tế nhằm mở rộng thị trờng, tranh thủ vốn công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Chính phủ cũng đã có Quyết
định số 37 (14/03/2002) ban hành chơng trình hành động của Chính phủ nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết trên.
Với những chủ trơng đúng đắn kể trên, Việt Nam đang từng bớc hoà
nhập vào các hoạt động kinh tế thế giới.
2.1.1.Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trải qua hơn một thập kỷ từng bớc hội nhập, chúng ta đã đạt đợc những
bớc tiến quan trọng . Việt Nam đã tham gia đồng thời vào các quá trình hội
nhập: hội nhập song phơng, hội nhập đa phơng và hội nhập khu vực.
2.1.2.1.Hội nhập song phơng
Hiện nay, Việt Nam đã tiến hành hội nhập song phơng với gần 180 quốc
gia và vùng lãng thổ trên thế giới, đã ký hiệp định thơng mại với 64 nớc và có
thoả thuận về đối xử tối huệ quốc gia với 74 nớc. Trong đó có một số mối
25



×