Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.01 KB, 11 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội

I, Phần mở đầu:
Như chúng ta đã biết, dư luận xã hội là một hiện tượng phức tạp của đời
sống xã hội, nó là một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Nó có tác động to lớn đến mọi cá nhân, mọi tổ chức trong xã hội với nhiều lĩnh
vực. Để hiểu rõ thêm về dư luận xã hội sau đây em xin trình bày một số vấn đề
liên quan đến dư luận xã hội đó là: Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội và
tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật.
II, Phần nội dung:
1, Khái quát về dư luận xã hội:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh
giá của các nhóm xã hội của cộng đồng xã hội hay của xã hội nói chung. Nó có
tính chất phổ biến tương đối, tính mạnh mẽ và tính bền vững nhất định đối với
những vấn đề đụng chạm tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều
người, và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
Dư luận xã hội là một hoạt động quan trọng trong đời sống tinh thần của con
người, nó tồn tại tất cả trong các hoạt động lớn nhỏ khác nhau của con người
trong mọi hoạt động xã hội.
Dư luận xã hội chỉ được nảy sinh khi trong cộng đồng xuất hiện những
vấn đề, những sự kiện, hiện tượng mang tính thời sự có liên quan đến lợi ích của
các nhóm xã hội hoặc của cả cộng đồng. Nó có thể hình thành một cách tự phát,
nhưng cũng có thể hình thành do chủ định với sự chuẩn bị từ trước để phục vụ
một mục đích nào đó. Trong quá trình phát triển của xã hội, sự phụ thuộc vào
nhau giữa các cá nhân và cộng đồng trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống
ngày càng nhiều hơn. Và cùng với sự phát triển của xã hội thì dư luận xã hội
cũng ngày càng phát triển hơn.
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến của cá nhân, các nhóm xã hội, hay
của xã hội. Những ý kiến đó có thể chỉ là sự mô tả lại sự việc, hiện tượng, cũng
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương


1


Trường Đại học Luật Hà Nội

có thể là những ý kiến mang tính khuyên răn, mách bảo, hoặc là sự nhận xét của
các chủ thể đối với các vấn đề nảy sinh trong xã hội được nhiều người quan tâm.
Những việc đó có thể liên quan tới bất kỳ lĩnh vực nào như kinh tế, chính trị,
văn hóa, đạo đức… Dư luận xã hội không những là sự phản ánh trước những sự
kiện xã hội mà còn cho thấy trình độ, khả năng nhận thức, đánh giá và khả năng
ứng xử của dân chúng trước những vấn đề của xã hội.
Như vậy, dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán
xét, đánh giá của các nhóm xã hội, của cộng đồng xã hội hay xã hội nói chung,
nó có tính phổ biến tương đối, tính mạnh mẽ và bền vững nhất định đối với
những vấn đề đụng chạm tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều
người được thể hiện trong các nhận định hay hành động thực tiễn của họ. Trong
thực tiễn cuộc sống rõ ràng là dư luận xã hội không chỉ dừng lại ở việc thể hiện
các ý kiến, đánh giá hay nhận định mà còn thể hiện bằng những hành động thực
tiễn cụ thể nhằm khẳng định, hỗ trợ cho các phán xét đánh giá của mình, đề xuất
những phương hướng cụ thể nhằm giải quyết những mặt còn tồn tại của vấn đề
xã hội. Điều này nói lên rằng dư luận xã hội cũng là trạng thái tinh thần thực
tiễn, là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội.
2, Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội:
Nghiên cứu về dư luận xã hội với tư cách là một hiện tượng thuộc lĩnh
vực tinh thần của đời sống xã hội, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những tính chất
cơ bản của nó. Để hiểu rõ hơn về dư luận xã hội ta sẽ đi phân tích một số tính
chất cơ bản sau của dư luận xã hội:
2.1, Tính khuynh hướng:
Thái độ chung của dư luận xã hội đối với mỗi vấn đề, mỗi sự kiện, hiện
tượng nảy sinh trong xã hội có thể khái quát theo 3 khuynh hướng nhất định

gồm: tán thành, phản đối hoặc lưỡng lự (chưa rõ thái độ). Cũng có thể phân
thành khuynh hướng tích cực hoặc tiêu cực, tiến bộ hoặc lạc hậu… Ở mỗi
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

2


Trường Đại học Luật Hà Nội

khuynh hướng tán thành hay phản đối lại có thể phân chia theo các mức độ cụ
thể như rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối.
Tính khuynh hướng cũng biểu thị sự thống nhất hay xung đột của dư luận
xã hội. Xét theo các mức độ tán thành hay phản đối được nêu ở trên, nếu đồ thị
phân bố theo hình chữ U thì biểu thị sự xung đột; còn nếu đồ thị phân bố theo
hình chữ J thì biểu thị sự thống nhất. Đồ thị phân bố dư luận xã hội có hình chữ
U khi trong xã hội có hai loại quan điểm mâu thuẫn, đối lập nhau về cùng một
sự kiện, hiện tượng quá trình xã hội nào đó đều có tỉ lệ người ủng hộ cao. Trong
một xã hội nhất định nếu thái độ dư luận xã hội đối với phần lớn các vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội có dạng phân bố hình chữ U thì điều đó có nghĩa là xã hội
đang đứng trên bờ vực của một cuộc nội chiến. Khi sơ đồ phân bố dư luận xã
hội phân bố theo hình chữ J thì chỉ có một loại quan điểm (tán thành hoặc phản
đối) có tỉ lệ số người ủng hộ cao mà thôi điều đó biểu thị sự thống nhất cao
trong dư luận xã hội.
Ví dụ: Cuộc chiến tranh đã từng xảy ra khi liên minh quân sự Bắc Đại
Tây Dương (NATO) tấn công Nam Tư. Trước tình hình này đã có nhiều luồng
dư luận khác nhau. Ở trong nước các nước thuộc khối NATO thì cho rằng đó là
một cuộc chiến tranh cần thiết còn ở Nam Tư và một số nước trên thế giới lại
phản đối cuộc chiến tranh đó.
2.2, Tính lợi ích:
Vì đối tượng của dư luận xã hội là những vấn đề có mối quan hệ mật thiết

với lợi ích chung của các nhóm xã hội khác nhau nên dư luận xã hội luôn thể
hiện tính lợi ích chung rất rõ ràng. Tính lợi ích của dư luận xã hội được nhìn
nhận trên hai phương diện là lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong xã
hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của
đông đảo người dân. Chẳng hạn các chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

3


Trường Đại học Luật Hà Nội

nghiệp về cải cách chế độ tiền lương, quyết định tăng giá điện, tăng giá xăng
dầu, quyết định tăng học phí,…
Lợi ích tinh thần được đề cập đến khi các vấn đề, các sự kiện đang diễn ra
đụng chạm đến các giá trị, chuẩn mực xã hội, các phong tục tập quán, khuôn
mẫu hành vi ứng xử văn hóa của cộng đồng xã hội hay cả của một dân tộc.
Ví dụ: Cuộc chiến tranh do Mỹ đơn phương phát động chống lại Irăc –
một quốc gia có chủ quyền – đã gây ra dư luận phản đối mạnh mẽ trên thế giới.
Dư luận thế giới phản đối không chỉ bởi thiệt hại đối với người dân Irăc mà còn
bởi sự nhận thức của đông đảo người dân trên thế giới về một nguy cơ tiềm tàng
của chủ nghĩa đế quốc và thực dân mới núp dưới chiêu bài “can thiệp nhân đạo”
tạo ra một sự nguy hiểm cho các cuộc can thiệp sau này.
Trong bản thân mình thì lợi ích mới chỉ là điều kiện để thúc đẩy việc tạo
ra dư luận xã hội. Điều kiện đủ ở đây chính là sự nhận thức của các nhóm xã hội
về lợi ích của mình với các mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện hiện tượng,
quá trình xã hội đang diễn ra. Chỗ này cần lưu ý hai điểm:
Một là, bản thân nhận thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát
triển giữa tính cá nhân và tính xã hội, giữa tính vật chất và tính tinh thần, giữa

tính trước mắt và tính lâu dài.
Hai là, quá trình trao đổi thảo luận ý kiến để dẫn đến dư luận xã hội là quá
trình giải quyết mâu thuẫn lợi ích. Trong công việc này nhóm xã hội nào có tổ
chức tốt thành lực lượng thì nhóm xã hội đó sẽ thành công hơn trong việc bảo vệ
quan điểm, lợi ích của mình và ngược lại.
2.3, Tính lan truyền:
Dư luận xã hội chỉ nảy sinh khi xuất hiện những vấn đề liên quan đến lợi
ích của cộng đồng, vì vậy dư luận xã hội thường là những thông tin được nhiều
người quan tâm và luôn mang tính kích thích đối với mọi người. Để làm được
điều này dư luận xã hội đã có các thông tin bằng hình ảnh, bằng âm thanh sống
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

4


Trường Đại học Luật Hà Nội

động trực tiếp có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin này, các
nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan
tâm của mình thông qua các hoạt động trao đổi, bàn bạc, tìm kiếm thông tin,
cùng chia sẻ trạng thái tâm lý của mình với người xung quanh.
Đặc biệt với các sự kiện lớn như chiến tranh, tội phạm, ô nhiễm môi
trường… chúng ta có thể theo dõi và ghi nhận được ảnh hưởng của các luồng
thông tin đến các hành động quan tâm của công chúng. Khi đó ta có thể thấy sự
hình thành và lan truyền của dư luận xã hội rất rõ nét.
Ví dụ: Trận động đất khủng khiếp ở Haiti với thiệt hại về người và tài sản
rất lớn vào cuối năm 2009 ngay lập tức thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, thông tin này đã được lan truyền đi khắp thế giới nhằm kêu gọi sự giúp
đỡ của mọi người.
Việc nhà máy Vedan sả trực tiếp chất thải ra sông Thị Vải và làm môi

trường ở đây ô nhiễm nghiêm trọng ngay khi sự việc được công bố dư luận xã
hội lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc làm của công ty Vedan và tẩy chay các sản
phẩm của công ty này.
2.4, Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi:
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối là có tính dễ biến đổi, tính
bền vững tương đối của dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với
những sự kiện, hiện tượng hay các quá trình quen thuộc dư luận xã hội thường
bền vững, ví dụ như sự đánh giá về sự nghiệp bảo vệ đất nước, đánh đuổi thực
dân Pháp, Mỹ hay sự đánh giá về thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp 1976 1986…
Bên cạnh đó thì nhiều dư luận biến đổi nhanh chóng, sự biến đổi này cũng
có những nguyên nhân riêng ví dụ như những dư luận lạc hậu bắt buộc phải biển
đổi khi những cái mới đã khẳng định được sự tiến bộ. Dư luận xã hội thường
biến đổi trên nhiều phương diện nhưng chủ yếu là các phương diện sau:
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

5


Trường Đại học Luật Hà Nội

Biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa, sự phán xét, đánh giá
của dư luận xã hội về bất kỳ một sự kiện, hiện tượng hay một quá trình xã hội
nào cũng phụ thuộc vào hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội đang tồn tại trong
nền văn hóa của cộng đồng người, với cùng một vấn đề phát sinh trong xã hội
nhưng đối với các cộng đồng khác nhau thì khác nhau.
Ví dụ: Hiện tượng các gia đình sinh từ 3 đến 4 đứa con trở lên. Nếu như ở
những vùng, những dân tộc có trình độ dân trí cao thì đó được coi là sinh đẻ
thiếu kế hoạch (như ở Hà Nội, các tỉnh và thành phố khác) còn ở một số vùng
cao, vùng sâu, vùng xa và một số dân tộc ít người thì lại coi đó là một điều tốt
đẹp, có nhiều người trong nhà, nhiều con cái là tốt (như một số các dân tộc ít

người).
Biến đổi theo thời gian: ngay trong một nền văn hóa – xã hội, thì theo thời
gian các dư luận xã hội cũng có thể bị biến đổi. Chẳng hạn, trên cùng lãnh thổ
đất nước Việt Nam, từ thời xưa thì chế độ đa thê, một người chồng được danh
chính ngôn thuận có 5 thê 7 thiếp và được cộng đồng xã hội thừa nhận, nhưng
đến thời kỳ hiện nay thì chế độ đa thê không còn được chấp nhận, bị mọi người
phản đối và lên án gay gắt.
Ngoài hai phương diện trên, dư luận xã hội còn biến đổi theo đối tượng
của các phán xét, đánh giá khi công chúng phát hiện thêm các mối liên quan
giữa các đối tượng ban đầu với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra kèm
theo nó.
2.5, Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội:
Sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thế là đúng hoặc sai theo
nhiều mức độ khác nhau. Dù có đúng đắn được mọi người chấp nhận, tán thành
thì nhiều dư luận xã hội vẫn luôn có những hạn chế của nó, vì vậy không tuyệt
đối hóa khả năng nhận thức từ dư luận xã hội, khi nhận thức từ dư luận xã hội
thì phải có sự chủ động trong sự chọn lọc thông tin để nhận thức. Ngược lại dù
dư luận xã hội có sai thì trong dư luận xã hội vẫn có hạt nhân hợp lý cần được
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

6


Trường Đại học Luật Hà Nội

coi trọng. Dư luận xã hội không phải lúc nào của đa số cũng đúng hơn so với
thiểu số, có nhiều trường hợp dư luận của số ít đúng nhưng do mọi người chưa
nhận thức được nên vẫn phản đối: Ví dụ như Galile, khi ông tuyên bố Trái Đất
quay quanh Mặt Trời, mặc dù đây là một nhận xét đúng nhưng trong thời kỳ ấy
tất cả mọi người trong xã hội đều không công nhận nó, mà còn cho đó là một

quan niệm đi ngược lại với quan điểm của mọi người vì trong thời kỳ này tất cả
mọi người đều coi Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, tất cả mọi hành tinh kể cả
Mặt Trời đều quay quanh Trái Đất. Mãi đến sau này, khi khoa học phát triển thì
nhận định của Galile mới dần dần nhận được sự ủng hộ của mọi người và trở
thành một chân lý.
3, Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật:
Cùng với pháp luật, dư luận xã hội cũng là một trong những công cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội. Và nó cũng tác động đến pháp luật trên nhiều phương diện
khác nhau với những mức độ khác nhau.
Dư luận xã hội rất gần gũi với pháp luật và trong nhiều trường hợp nó là
một phần của ý thức pháp luật. Khi nó đánh giá, phán xét các vấn đề liên quan
đến pháp luật và các hành vi pháp luật của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Dư
luận xã hội về một vấn đề, hiện tượng pháp lý nào đó chứa đựng trong nó những
quan điểm, tư tưởng pháp lý của chủ thể, những phán xét của dư luận xã hội
cũng chính là thái độ, tình cảm của họ đối với hiện tượng pháp lý đó. Sự gắn bó
giữa dư luận xã hội và ý thức pháp luật cho ta thấy nếu ý thức pháp luật cao hơn
trình độ hiểu biết và đánh giá các hiện tượng chính trị - pháp lý của nhân dân
chính xác, đầy đủ thì sẽ góp phần hình thành trong xã hội những dư luận đúng
đắn với các quy định của pháp luật, quá trình điều chỉnh pháp luật. Ngược lại
khi ý thức pháp luật kém trình độ hiểu biết và đánh giá các hiện tượng đó của
nhân dân chính xác, đầy đủ thì sẽ hình thành trong xã hội những dư luận sai lệch
không tốt, không phù hợp với pháp luật. Dư luận xã hội hỗ trợ cùng pháp luật
trong việc điều chỉnh hành vi của con người, duy trì trật tự trong toàn xã hội
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

7


Trường Đại học Luật Hà Nội


cũng như trong mỗi cộng đồng dân cư. Nó tác động nên cách ứng xử của các
thành viên trong xã hội, chỉ ra những việc nên làm, những việc không nên làm.
Đối với hoạt động xây dựng pháp luật: Dư luận xã hội như là một bộ phận
của ý thức pháp luật, nên nó thúc đẩy, củng cố việc hình thành những tư tưởng,
những quan điểm pháp lý phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách pháp
luật. Sáng kiến pháp luật liên quan đến việc ban hành sửa đổi hoặc hủy bỏ các
quy định pháp luật. Nói cách khác thông qua dư luận xã hội có thể biết được giai
đoạn đó nhân dân đang quan tâm đến vấn đề gì. Trên cơ sở nghiêm cứu về dư
luận xã hội các cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành xây dựng chính
sách điều pháp luật, chương trình xây dựng pháp luật và cả những quy định pháp
luật cụ thể cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Dư luận xã hội có
thể hoan nghênh, chào đón, ủng hộ và cũng có thể phản đối việc ban hành một
văn bản pháp luật hay một quy định pháp luật nào đó.
Vì vậy các cơ quan nhà nước khi ban hành bất kỳ một quy định pháp luật
nào đó mang tính nhạy cảm thì nên thăm dó dư luận xã hội về vấn đề đó để nắm
bắt được phản ứng của xã hội ủng hộ hay phản đối hoặc có những băn khoăn gì.
Từ đó cho thấy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ban hành hoặc bãi bỏ
các quy định của văn bản pháp luật có liên quan đến các vấn đề nhạy cảm thì
không thể không quan tâm đến dư luận xã hội, thăm dò cự đồng tình hay phản
đối của các chủ thể có liên quan để có thể đưa ra những giải pháp phù hợp.
Đối với hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật: Dư luận xã hội có tác
dụng như là cố vấn về mặt tinh thần cho việc tiến hành các hoạt động thực hiện
và áp dụng pháp luật của các cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền.
Hoạt động thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật đương nhiên là phải
trên cơ sở pháp luật nhưng nếu được sự đồng tình ủng hộ của dư luận xã hội thì
hiệu quả sẽ rất cao. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng pháp luật không phải lúc
nào cũng có thể lường trước được mọi tình huống hay hoàn cảnh có thể xảy ra
trên thực tế. Do vậy khi tổ chức thực hiện pháp luật các cơ quan nhà nước có
Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương


8


Trường Đại học Luật Hà Nội

thẩm quyền cần chú trọng đến dư luận xã hội, xem xã hội có đồng tình hay phản
đối hoạt động đó. Dư luận xã hội cũng có thể tác động đòi hỏi các cơ quan tổ
chức thực hiện pháp luật phải cân nhắc xem xét lại hành vi, quyết định áp dụng
pháp luật của mình thậm chí có thể phải tạm dừng các hoạt động đó.
Trong hoạt động xét xử của tòa án hay hoạt động truy cứu trách nhiệm
pháp lý của các cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền là những hoạt động luôn
gây được sự chú ý của dư luận xã hội, nhất là các vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình hoặc những vụ án hình sự tham nhũng, hối lộ có sự tham gia vi phạm
của những cán bộ, công chức giữ những cương vị quan trọng trong bộ máy của
nhà nước. Quần chúng nhân dân thường xem xét việc xử lý của các cơ quan bảo
vệ pháp luật có nghiêm minh, công bằng hay không, có biểu hiện của sự bao
che, nương nhẹ hay không… Dư luận xã hội luôn có sự nhận xét về tính đúng
đắn, tính chính xác công bằng trong quyết định, trong hoạt động của các cơ quan
có thẩm quyền, hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn từ đó thể hiện
thái độ đồng tình, ủng hộ hay phê phán, tẩy chay chúng. Không chỉ dừng lại ở
việc đánh giá hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn mà dư luận xã hội
còn đánh giá cả thái độ, tác phong, đạo đức của những người đó.
Từ những tác động trên ta có thể thấy dư luận xã hội ảnh hưởng rất lớn
đến hành vi, đến hành động của những người sống trong xã hội, đặc biệt là
những người có chức, có quyền. Trong một cuộc điều tra xã hội học ở Hà Nội
thì có tới 43,85% số cán bộ cấp phường ở đây được hỏi và trả lời rằng, họ chịu
sức ép của dư luận xã hội khi giải quyến các công việc theo thẩm quyền được
giao. Sự thật cũng đã công nhận phần lớn các hành vi vi phạm pháp luật của cán
bộ nhà nước bị phanh phui từ các dư luận xã hội, đặc biệt là các vụ tham ô, ăn
hối lộ. Theo những đánh giá về công cuộc chống tiêu cực của Đảng, thì đa phần

những vụ tiêu cực, tham nhũng bị phanh phui là do nhân dân. Những dữ liệu từ
các cuộc họp quốc hội vừa qua cho thấy trong số những đơn tố của nhân dân thì
90% là đúng sự thật, chỉ có 10% là không đúng hoàn toàn. Những con số thống

Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

9


Trường Đại học Luật Hà Nội

kê đã cho thấy vai trò to lớn của dư luận xã hội trong công cuộc đấu tranh chống
các hành vi tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
Tóm lại, dư luận xã hội có vai trò như là một trong những công cụ thẩm
định nội dung của pháp luật và các hoạt động pháp luật, đó là một trong những
phương diện để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực hoạt động
pháp luật. Dư luận xã hội còn góp phần cho văn hóa pháp lý ứng xử giữa con
người với con người ngày một tốt hơn, tạo ra sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau
giữa nhân dân với những người thực thi pháp luật, tạo ra không khí hòa thuận
trong các hoạt động xã hội, sự gắn bó của nhân dân đối với công việc nhà nước.
III, Kết luận:
Như vậy dư luận xã hội là một sức mạnh tinh thần trong xã hội và có tác
động mạnh mẽ lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, sự ruồng bỏ của dư luận
xã hội đôi khi có thể hủy diệt uy tín, danh dự thậm chí là sức khỏe và tính mạng
của con người. Mặt khác, dư luận xã hội cũng tạo ra cho mọi người cơ hội, khả
năng thổ lộ và bảo vệ quan điểm, ý kiến của mình một cách công khai đối với
các vấn đề, hiện tượng có liên quan đến lợi ích và đời sống cộng đồng xã hội.
Ngày nay khi mà vai trò của quần chúng nhân dân được coi trọng, nền dân chủ
xã hội được mở rộng thì vai trò và hiệu lực của xã hội ngày càng được nâng cao.


Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

10


Trường Đại học Luật Hà Nội

Danh mục tài liệu tham khảo

- Tập bài giảng xã hội học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, Chủ biên Ths.
Ngọ Văn Nhân.
- Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2008, Ts. Nguyễn Minh Đoan.
- Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

Bài tập lớn học kỳ môn xã hội học đại cương

11



×