Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Truyện ngắn Tạ Duy Anh nhìn từ thi pháp thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.08 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ LIỆU

NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp

Thái Nguyên - Năm 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả của luận văn là trung thực và chƣa
từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 04 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Liệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


/>

LỜI CẢM ƠN !
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn
Đăng Điệp – ngƣời thày đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thày cô trong khoa Ngữ văn, khoa Sau đại
học trƣờng Đại học sƣ phạm Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trƣờng.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến ngƣời thân,
gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ, động viên tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 04 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Liệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỤC LỤC ............................................................................................................. i
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 8
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn .............................................................. 8
NỘI DUNG ........................................................................................................... 9
Chƣơng 1. TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH TRONG BỐI CẢNH
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ..................................................... 9
1.1. Vài nét về truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại .......................................... 9
1.1.1. Khái lƣợc về truyện ngắn và thi pháp thể loại truyện ngắn .................... 9
1.1.2. Bối cảnh truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại .......................................... 12
1.1.3. Một số thành tựu của truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại ...................... 14
1.2. Hành trình truyện ngắn Tạ Duy Anh .................................................... 17
1.2.1. Tạ Duy Anh – cuộc đời, sự nghiệp văn chƣơng ................................... 17
1.2.2. Tạ Duy Anh với thể loại truyện ngắn ................................................... 20
1.3. Vị trí của truyện ngắn Tạ Duy Anh trong truyện ngắn Việt Nam
đƣơng đại ........................................................................................................ 22
Chƣơng 2. TỪ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI ĐẾN THẾ
GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH ....................... 26
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Tạ Duy Anh ......................... 26
2.1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong văn học ............. 26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN i

/>

2.1.2. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong văn học sau
năm 1975 ........................................................................................................ 27
2.1.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Tạ Duy Anh ......................... 29
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh................................ 31
2.2.1. Nhân vật giữa “hai lằn ranh Thiện – Ác” ............................................. 31
2.2.2. Nhân vật mang bi kịch của sự tha hóa .................................................. 35
2.2.3. Nhân vật là nạn nhân của thù hận ......................................................... 39
2.2.4. Nhân vật cô đơn, lạc loài ...................................................................... 43

2.2.5. Nhân vật đối diện với những ẩn số về thời thế và nhân thế ................. 46
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh ........... 48
2.3.1. Miêu tả chân dung, ngoại hình.............................................................. 48
2.3.2. Xây dựng nhân vật qua hành động ....................................................... 53
2.3.3. Xây dựng nhân vật qua đời sống nội tâm ............................................. 56
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TẠ
DUY ANH .......................................................................................................... 58
3.1. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................. 58
3.1.1. Điểm nhìn bên ngoài ............................................................................. 59
3.1.2. Điểm nhìn bên trong ............................................................................. 62
3.1.3. Sự dịch chuyển và đan cài điểm nhìn trần thuật ................................... 64
3.2. Kết cấu trần thuật .................................................................................. 66
3.2.1. Kết cấu phân mảnh – lắp ghép .............................................................. 67
3.2.2. Kết cấu truyện lồng truyện.................................................................... 69
3.2.3. Kết cấu mở ............................................................................................ 71
3.3. Ngôn ngữ trần thuật .............................................................................. 72
3.3.1. Ngôn ngữ đời thƣờng ............................................................................ 73
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm ............................................. 75
3.4. Giọng điệu trần thuật ............................................................................ 81
3.4.1. Giọng điệu triết lí, suy ngẫm ................................................................ 82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN ii

/>

3.4.2. Giọng điệu châm biếm, giễu nhại ......................................................... 84
3.4.3. Giọng điệu lạnh lùng, khách quan ........................................................ 87
3.4.4. Giọng trữ tình, giàu cảm xúc ................................................................ 89
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 93


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iii

/>

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.

Nghiên cứu tác phẩm văn học dƣới góc độ thi pháp đã trở nên khá

quen thuộc trong hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học những năm gần đây.
Trên sách báo văn nghệ, ngƣời ta nhắc nhiều đến khái niệm thi pháp tác phẩm,
thi pháp tác giả, thi pháp thể loại, thi pháp thời kì…. Lí thuyết thi pháp đã đƣợc
sử dụng soi chiếu nhiều hiện tƣợng văn học đƣơng đại, góp phần làm sáng tỏ
nhiều vấn đề. Việc nghiên cứu tác phẩm văn học dƣới góc nhìn thi pháp nói
chung và thi pháp thể loại nói riêng sẽ cung cấp cho ngƣời đọc chiếc “chìa
khóa” để khám phá tác phẩm. Và trên thực tế, nó đã đem lại cho nghiên cứu
phê bình văn học những chiêm nghiệm sâu sắc, thú vị.
1.2.

Sau năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc kết thúc

thắng lợi, nƣớc nhà thống nhất, dân tộc Việt Nam bƣớc vào một chặng đƣờng
mới. Cùng với sự sang trang của lịch sử dân tộc, nền văn học cũng đang có
những bƣớc chuyển mình đáng ghi nhận. Trƣớc sự biến đổi của thời đại, yêu
cầu đổi mới toàn diện nền văn học nƣớc nhà đƣợc đặt ra một cách cấp thiết.
Trong xu hƣớng vận động đó, văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn đã
và đang có những nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm trên cả hai bình diện nội dung và
hình thức nghệ thuật. Sự đổi mới quan niệm về nhà văn, quan niệm về nghệ
thuật, quan niệm về hiện thực, con ngƣời, các thủ pháp nghệ thuật… đã bƣớc

đầu tạo ra một diện mạo mới cho văn học. Sau gần một nửa thế kỉ đổi mới,
chúng ta đã có một lực lƣợng sáng tác khá hùng hậu, một số lƣợng tác phẩm
đồ sộ và một không khí sôi động trong dƣ luận. Lịch sử văn học dân tộc đã
chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt cây bút trẻ đầy năng lực và nhiệt huyết
nhƣ: Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Ngọc Tƣ, Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồ Anh Thái… và không thể không nhắc tới
Tạ Duy Anh, một cây bút đƣợc xem là hiện tƣợng nổi bật với nhiều thể
nghiệm văn chƣơng táo bạo.

1


1.3.

Trong sự nghiệp văn chƣơng của mình, Tạ Duy Anh luôn trăn trở

tìm cách đổi mới tƣ duy, quan niệm nghệ thuật, làm mới tác phẩm từ nội dung
tới hình thức. Ông đã mạnh dạn thử bút trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện
ngắn, tản văn… Nhƣng ông khẳng định trên văn đàn trƣớc hết ở thể loại truyện
ngắn. Tác phẩm của ông thực sự đã đặt ra đƣợc những vấn đề nghiêm túc về
cuộc sống, chứa đựng những giá trị nội dung và nghệ thuật mới mẻ. Nó không
chỉ ẩn chứa những triết lí về cuộc sống mà còn thể hiện những chiêm nghiệm
về số phận con ngƣời, nỗi đau khổ và lòng hi sinh, tình yêu và sự khát khao
hạnh phúc. Từ quan niệm về hiện thực, về nhân sinh, cho đến cách tổ chức cốt
truyện, kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật,… truyện ngắn Tạ Duy Anh đều có những
cách tân đáng ghi nhận. Sự nghiệp viết truyện ngắn của ông thực sự là “mảnh
đất màu mỡ” để cho chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện về truyện ngắn Tạ Duy Anh dƣới góc nhìn thi pháp thể loại. Chính vì
vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Tạ Duy Anh nhìn từ thi pháp thể

loại nhằm nghiên cứu những đặc điểm thi pháp thể loại truyện ngắn trong các
sáng tác của Tạ Duy Anh. Qua đó thấy đƣợc những đóng góp của nhà văn trong
quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Giải quyết đề tài này, chúng tôi mong
muốn góp thêm một tài liệu tham khảo để làm phong phú thêm các công trình
nghiên cứu về truyện ngắn Tạ Duy Anh.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1.

Nghiên cứu đánh giá chung về sáng tác của Tạ Duy Anh

Tạ Duy Anh là một trong số những nhà văn đi tiên phong trong việc nỗ
lực để tìm tòi, đổi mới cách viết. Chính vì vậy, ông luôn giành đƣợc sự quan
tâm của dƣ luận cũng nhƣ giới nghiên cứu phê bình. Cho đến nay, các ý kiến
đánh giá về tác phẩm của Tạ Duy Anh khá đa dạng, phong phú, bao gồm nhiều
ý kiến khen chê khác nhau. Những bài viết về ông xuất hiện nhiều trên báo chí,
các trang web và trong các luận văn thạc sĩ và khóa luận tốt nghiệp đại học.

2


Khi đánh giá về Tạ Duy Anh, các nhà nghiên cứu đã quan tâm tìm hiểu
trên cả phƣơng diện nội dung cũng nhƣ nghệ thuật. Trong công trình Thế giới
nghệ thuật Tạ Duy Anh, ba tác giả Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan
Hƣơng, Võ Thị Thanh Hà đã có những nhận xét hết sức khái quát về giá trị nội
dung tác phẩm Tạ Duy Anh. Các tác giả này đánh giá: “Tạ Duy Anh đã mang
đến cho độc giả những day dứt, trăn trở không nguôi trước ý nghĩa làm người.
Xuyên qua một thế giới đầy những ám ảnh tăm tối, tàn ác vẫn lấp lánh niềm tin
và sự thương xót con người” [24, tr.243]. Trên báo Pháp luật số 140/2004 cũng
có bài viết khẳng định : “Tạ Duy Anh là tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận
con người, nhất là khi họ rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Trong

lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lí trí, lạnh lùng
nhưng cũng đầy thương xót con người”. Báo Thể thao và Văn hóa số 47/2004
lại đƣa ra nhận xét: “Có thể coi ông là nhà văn của đạo đức, văn chương ông
có lúc hiện lên bằng một gương mặt thế sự, đớn đau, riết róng chuyện thánh
thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương nhưng không phải như những khái niệm
truyền bản, chết khô mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận”. Tƣơng
tự, tác giả Thụy Khuê trong bài Tạ Duy Anh – người đi tìm nhân vật khi nghiên
cứu về tiểu thuyết Tạ Duy Anh cũng nhận ra: “Mối quan tâm lớn nhất của Tạ
Duy Anh là cái vong bản đánh mất mình của con người, dưới sự giằng giật,
xiêu dạt của lịch sử. Trên con đường truy tìm lại chính mình cũng như khả dĩ
gương mặt thực của quá khứ, con người vấp phải và bị phong tỏa bởi thói gian
trá, đớn hèn, vật dục, tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân” [39]… Nhƣ vậy, các bài
viết nêu trên dù nhấn mạnh đến những khía cạnh khác nhau về nội dung tác
phẩm Tạ Duy Anh nhƣng hầu hết đều nhận thấy tác phẩm của ông đặc biệt
quan tâm đến vấn đề nhân sinh, nhân bản và số phận con ngƣời. Cho dù viết
nhiều về những vấn đề gai góc nhƣng chủ ý của Tạ Duy Anh vẫn là lay thức cái
thiện, hƣớng con ngƣời đến những giá trị tốt đẹp.

3


Không chỉ đánh giá về nội dung, các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự đổi
mới về nghệ thuật trong tác phẩm của Tạ Duy Anh. Trong bài viết Tạ Duy Anh
– Đi tìm nhân vật, tác giả Dƣơng Thuấn đã khẳng định những cách tân của Tạ
Duy Anh trong việc tiếp cận hiện thực. “Tác giả đã thoát khỏi hoàn toàn lối
viết truyền thống, quen thuộc là hiện thực che phủ bởi nhiều lớp mùng màn,
miêu tả dầm dề, hành động chậm chạp, ngôn ngữ sạch bóng, trơn tru. Anh
chọn phương pháp tiếp cận hiện thực đa diện, đa chiều và gần nhất” [61].
Tác giả Việt Hoài trong bài Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác thì ghi
nhận Tạ Duy Anh đã bắt kịp với lối viết của các nhà văn trên thế giới “sự lao

động nghiêm túc của nhà văn thể hiện nỗ lực tìm tòi, đổi mới cách viết của
mình. Nhà văn đã dùng những kĩ thuật viết hiện đại của thế giới, những phá
cách về mặt cấu trúc đa thanh, phức điệu, điểm nhìn mới từ một bào thai trong
bụng mẹ và lăng kính nhận thức đa chiều, Việt hóa các mô típ trong văn học
thế giới, cách viết ẩn dụ, ngôn ngữ hiện thực, huyền ảo”. Cũng trong bài viết
này, tác giả đã nhận xét về thế giới nhân vật của Tạ Duy Anh. Việt Hoài cho
rằng: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về
ngoại hình. Người xấu thì cực xấu như lão Khổ, lão Phụng… người đẹp thì như
hoa như ngọc như Quý Anh, bà Ba, như những sản phụ chờ sinh. Nhưng bản
chất con người thì luôn ở ranh giới thiện – ác. Nhân vật nào cũng luôn bị đặt
trong trạng thái lựa chọn – đấu tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với
người thân, với chính bản thân mình”. [35]
Nhƣ vậy có thể thấy, xuyên suốt các bài viết các tác giả đều thống nhất khi
xác nhận những nỗ lực của Tạ Duy Anh trong việc đổi mới văn học trên cả hai
phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Các nhận xét, đánh giá đó đã
phần nào cho thấy vị trí của Tạ Duy Anh trong giai đoạn văn học thời kì đổi mới.
2.2. Đánh giá về truyện ngắn Tạ Duy Anh
Tạ Duy Anh là cây bút xuất sắc không chỉ trong lĩnh vực tiểu thuyết mà
thành công đầu tay của ông là truyện ngắn. Truyện ngắn của ông thƣờng đi vào

4


những mảng tối khuất lấp của hiện thực với một cái nhìn đa diện, nhiều
chiều soi rọi vào mọi ngóc cùng ngõ hẻm của đời sống, nhìn nhận lại những
vấn đề của lịch sử, quá khứ và đi vào những vấn đề ngổn ngang, bề bộn của
cuộc sống thời hiện đại. Trong bất cứ trƣờng hợp nào, văn ông luôn thể hiện
một nỗi niềm ƣu tƣ, một sự trăn trở về số phận con ngƣời, về sự tồn tại, sự
mâu thuẫn giữa hai lằn ranh Thiện – Ác, giữa mặt thiên thần và ác quỷ trong
mỗi tâm hồn con ngƣời.

Bắt tay vào cầm bút từ năm 1980 với truyện ngắn Để hiểu một con người
đƣợc in trên báo Lao Động nhƣng tên tuổi của Tạ Duy Anh thực sự đƣợc khẳng
định sau thành công của truyện ngắn Bước qua lời nguyền (1989). Tác phẩm đã
đoạt giải trong cuộc thi viết về nông nghiệp và nông thôn do tuần báo Văn
nghệ, báo Nông nghiệp Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức
năm 1989. Trong báo cáo tổng kết cuộc thi, nhà thơ Hoàng Minh Châu nhận
định về truyện ngắn Bước qua lời nguyền: “báo hiệu một tấm lòng lớn, một tầm
nhìn xa và một tài năng viết về số phận con người”. Cũng theo Hoàng Minh
Châu, thông điệp mà ngƣời đọc nhận đƣợc qua truyện ngắn Bước qua lời
nguyền là “bài học lớn về quan niệm đấu tranh giai cấp, về lòng nhân ái”.
Cụ thể hơn, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét: “Bước qua lời nguyền của
Tạ Duy Anh gói gọn trong mười trang cả một cuộc đời, một kiếp người, mấy
kiếp người, vừa là tác giả vừa là nạn nhân của những bi kịch xã hội đằng đẵng
một thời” và nhà văn đã khái quát “truyện ngắn chỉ mươi trang thôi mà sức
nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên” [48].
Hoàng Ngọc Hiến cũng có bài bình luận đăng trên báo Nông nghiệp số 50,
tháng 12/1989, trong đó khẳng định “Đọc truyện của Tạ Duy Anh, một câu hỏi
được đặt ra: giã từ thế kỉ XX bão táp và máu lửa này và chuẩn bị bước vào thế
kỉ XXI “lí trí và nhân bản”, những lời nguyền nào là đáng nguyền rủa, những
lời nguyền nào nhân loại trước sau phải bước qua? Phải chăng truyện ngắn Tạ

5


Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học “Bước qua lời
nguyền?” [31].
Nhƣ vậy có thể thấy Bước qua lời nguyền không chỉ có giá trị nhân văn
mà còn là một tƣ tƣởng có tầm thời đại. Tác phẩm không chỉ là sự khởi đầu tốt
đẹp đối với cá nhân nhà văn mà còn là sự đóng góp lớn vào công cuộc đổi mới
nền văn học nƣớc nhà.

Các khóa luận và luận văn thạc sĩ Ngữ văn cũng dành nhiều sự quan tâm
đến truyện ngắn của Tạ Duy Anh.
Tác giả Phạm Thị Hƣơng trong khóa luận Tạ Duy Anh từ quan niệm nghệ
thuật đến những đổi mới trong sáng tác truyện ngắn (ĐHSP Hà Nội, 2005) đã
nghiên cứu quan niệm sáng tác cũng nhƣ nỗ lực đổi mới trong truyện ngắn Tạ
Duy Anh từ nhiều góc độ: hiện thực, con ngƣời, đổi mới về quan niệm nghệ thuật,
gia tăng yếu tố kì ảo và chất tiểu thuyết trong truyện ngắn Tạ Duy Anh.
Luận văn Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Mai
Loan (ĐHSP Hà Nội, 2004), nghiên cứu những đổi mới của Tạ Duy Anh về mặt
tƣ tƣởng và nghệ thuật trong sáng tác về đề tài nông thôn.
Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy
Anh (ĐH Vinh, 2010), đã tập chung nghiên cứu các đặc điểm nội dung cũng
nhƣ nghệ thuật truyện ngắn Tạ Duy Anh. Trong luận văn, tác giả đã chỉ ra một
số đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh. Tuy nhiên mới chỉ
dừng lại ở những nhận xét khái quát, sơ bộ.
Luận văn Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh của tác giả Trần Văn Viễn
(ĐH sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh, 2009) đã tiến hành khảo sát về thế giới nhân
vật và một số thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh.
Luận văn Nghệ thuật trần thuật trong Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh
của tác giả Lê Thị Loan (ĐH Vinh) lại đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật trần
thuật trong tập Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh. Tác giả đã chỉ ra một vài
khía cạnh về thi pháp thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, luận văn này mới chỉ

6


giới hạn nghiên cứu trong một tập truyện ngắn của Tạ Duy Anh, do đó chƣa
thực sự có tính bao quát.
Từ những kết quả nghiên cứu đƣợc tổng hợp ở trên, chúng tôi thấy, các tác
giả ít nhiều đã quan tâm đến vấn đề thi pháp truyện ngắn Tạ Duy Anh. Nhiều

khía cạnh đã đƣợc chỉ ra nhƣ: nhân vật, cốt truyện, kết cấu, không gian, thời
gian nghệ thuật... Tuy nhiên để nhìn truyện ngắn Tạ Duy Anh từ phƣơng diện
thi pháp thể loại một cách có hệ thống thì chƣa có. Những bài viết, công trình
nghiên cứu trên chính là những gợi mở quý báu giúp ngƣời viết thực hiện đƣợc
mục đích của luận văn này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đi sâu tìm hiểu thi pháp truyện ngắn Tạ Duy Anh thể hiện qua các bình
diện: quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, thế giới nhân vật và tổ chức trần thuật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn Tạ Duy Anh dƣới góc
nhìn thi pháp thể loại.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả truyện ngắn Tạ Duy
Anh từ trƣớc đến nay, bao gồm các tập truyện ngắn sau đây:
- Bố cục hoàn hảo, Nxb Hội nhà văn, 2004
- Người khác, Nxb Hội nhà văn, 2007
- Tạ Duy Anh – truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, 2008
-

Ba đào kí, Nxb Hội nhà văn, 2008

- Lãng du, Nxb Hội nhà văn, 2011
Ngoài ra, để nghiên cứu sâu hơn và làm nổi rõ những đóng góp của Tạ

Duy Anh trong lĩnh vực truyện ngắn, chúng tôi có sử dụng những sáng tác của
các tác giả cùng thời với Tạ Duy Anh để so sánh đối chiếu.

7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp cấu trúc – hệ thống
- Phƣơng pháp thống kê – phân loại
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
- Phƣơng pháp so sánh loại hình
- Tiếp cận theo hƣớng nghiên cứu thi pháp học
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1.

Đóng góp của luận văn

Luận văn đi sâu nghiên cứu Truyện ngắn Tạ Duy Anh nhìn từ thi pháp thể
loại, cung cấp một cách tiếp cận mới mang tính khái quát khoa học, phù hợp với
bản chất của văn học. Qua đó hiểu thêm về truyện ngắn Tạ Duy Anh cùng với
những đóng góp của nhà văn trên bƣớc đƣờng hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tiếp cận tác
giả Tạ Duy Anh nói riêng và truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới nói chung.
6.2.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Truyện ngắn Tạ Duy Anh trong bối cảnh truyện ngắn Việt Nam
đƣơng đại
Chƣơng 2: Từ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời đến thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Tạ Duy Anh
Chƣơng 3: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Tạ Duy Anh

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN NGẮN TẠ DUY ANH
TRONG BỐI CẢNH TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Vài nét về truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại
1.1.1. Khái lƣợc về truyện ngắn và thi pháp thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn là một khái niệm quen thuộc nhƣng cách hiểu về nó không
đơn giản. Cho đến nay, có nhiều nhà nghiên cứu lí luận phê bình đã đƣa ra cách
hiểu về truyện ngắn:
Theo nhà văn ngƣời Nga Pautopxki thì: “Truyện ngắn là truyện viết ngắn
gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như cái bình thường và cái bình
thường hiện ra như cái không bình thường” [45]. Aimatov lại chú ý đến đặc
trƣng lao động nghệ thuật của truyện ngắn. Ông cho rằng: “Truyện ngắn giống
như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc,
các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chính xác”
[45]. Nhấn mạnh đến vai trò của chi tiết, Nguyễn Công Hoan quan niệm:
“Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi
tiết” [59].
Để có một cái nhìn thống nhất và toàn diện hơn về truyện ngắn, chúng tôi

khảo sát một số khái niệm truyện ngắn trong các cuốn: Từ điển thuật ngữ văn
học, Từ điển văn học và 150 thuật ngữ văn học. Nhìn chung, các tác giả đều
thống nhất coi truyện ngắn là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”, “được viết bằng văn
xuôi, đề cập đến hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội” và
“thích hợp với việc tiếp thu liền mạch, đọc một hơi không nghỉ”.
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tƣ duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một
cách nắm bắt đời sống rất riêng. Truyện ngắn so với tiểu thuyết thƣờng có ít
nhân vật, sự kiện hơn. Nếu nhƣ tiểu thuyết thƣờng hƣớng tới chiếm lĩnh đời

9


sống trong sự đày đặn và tính toàn vẹn của nó thì truyện ngắn thƣờng phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con ngƣời. Xét
về thi pháp thể loại truyện ngắn, ngƣời ta thƣờng xét tới các yếu tố: cốt truyện,
kết cấu, nhân vật, không – thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu…
Cốt truyện là chuỗi các sự kiện đƣợc tạo dựng trong tác phẩm tự sự và
kịch. Truyện ngắn là thể loại thuộc phƣơng thức tự sự vì vậy truyện ngắn cũng
có cốt truyện. Cốt truyện là phƣơng tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã
hội, thể hiện cái nhìn của nhà văn đối với cuộc sống, có sức mạnh hấp dẫn và
lôi cuốn ngƣời đọc. Chuỗi sự kiện, biến cố ấy đƣợc hình thành chủ yếu dựa trên
hành động của nhân vật, đƣợc tổ chức theo quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc
lộ ý nghĩa. Trên cơ sở đó, mỗi tác giả và ngay ở mỗi tác phẩm cũng thể hiện
một phƣơng thức xây dựng riêng. Việc tìm hiểu thi pháp cốt truyện vì vậy
không phải là tìm hiểu truyện đó kể cái gì mà là phát hiện dụng ý và quan niệm
của tác giả đƣợc thể hiện trong tác phẩm.
Nhà văn khi sáng tạo truyện ngắn thƣờng chú ý đến cách tổ chức tác
phẩm. Kết cấu truyện ngắn do đó cũng đa dạng và phong phú nhƣ chính cuộc
sống muôn màu trong thực tế. Truyện ngắn có thể đƣợc kết cấu xâu chuỗi theo
trình tự thời gian hoặc theo hành động, sự kiện, kết cấu tâm lí, kết cấu lắp ghép

hoặc kết cấu đồng hiện. Nhìn chung thì các thủ pháp kết cấu trong truyện ngắn
thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn và quyết định sự thành công của truyện
ngắn. Trong cách xây dựng truyện ngắn, nhà văn cũng chú ý đến phần mở đầu
và đoạn kết câu chuyện. Có vô số cách mở đầu truyện ngắn. Nhƣng quan trọng
câu mở đầu phải là “một thứ âm chuẩn” giúp cho việc tạo nên âm hƣởng chung
cho toàn bộ truyện ngắn. Nhà văn một khi đã tìm ra đƣợc cách vào truyện tức là
họ đã tìm ra cách dẫn câu chuyện đó theo một nhịp điệu riêng. Vì hƣớng tới
hiệu quả tác động duy nhất, truyện ngắn cũng cần phải xây dựng đoạn kết một
cách độc đáo và ấn tƣợng. Cách chấm dứt câu chuyện của mỗi nhà văn sẽ thể
hiện tài năng sáng tạo của họ. Trƣớc đây truyện ngắn thƣờng đƣợc kết thúc

10


bằng một kết cục có hậu, giải quyết hoàn toàn các vấn đề. Truyện ngắn hiện đại
thƣờng chọn loại kết thúc mở, cũng có thể gọi là kết thúc không có hậu. Câu
chuyện dừng lại nhƣng vấn đề, sự kiện, nhân vật do nhà văn nêu ra vẫn ám ảnh,
day dứt ngƣời đọc. Nhà văn không phải là ngƣời hƣớng dẫn, “răn dạy” bạn đọc
mà họ chỉ gợi ra vấn đề bằng cách kể câu chuyện đó, còn ngƣời đọc thì tiếp
nhận câu chuyện nhƣ một cuộc đối thoại ngầm về cuộc sống đang từng ngày
biến động không ngừng.
Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm văn học. Theo
Trần Đình Sử, nhân vật là khái niệm dùng để chỉ hình tƣợng các cá thể con
ngƣời trong tác phẩm văn học – cái đã đƣợc nhà văn nhận thức, tái tạo, thể
hiện bằng các phƣơng tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Các yếu tố thông
thƣờng của một nhân vật gồm có: tên gọi, nguồn gốc, ngôn ngữ, hành động,
tâm lí, tính cách, số phận… Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự
miêu tả thế giới của văn học có đƣợc chiều sâu và tính hình tƣợng. Nhờ có
nhân vật với những lời nói, hành động tƣơng tác mà cốt truyện đƣợc hình
thành. Nó đƣợc xem nhƣ là chìa khóa để nhà văn bƣớc vào thế giới hiện thực,

tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ, miêu tả và khái quát các loại tính cách
xã hội. Và do đó, nhân vật văn học còn có khả năng giúp nhà văn thể hiện
quan niệm nghệ thuật về thế giới và con ngƣời. Vì vậy việc tìm hiểu nhân vật
không phải là liệt kê hàng loạt những chi tiết về nhân vật đó. Điều quan trọng
là phân tích đƣợc, chỉ ra đƣợc dụng ý của tác giả, quan niệm tƣ tƣởng của tác
giả về cuộc sống, con ngƣời.
Không – thời gian nghệ thuật tức là không – thời gian đƣợc xây dựng
trong tác phẩm nghệ thuật. Trong truyện ngắn đó là bối cảnh để nhân vật sinh
sống, hoạt động. Tuy nhiên, nó không chỉ đơn thuần là cái bối cảnh sống của
nhân vật mà nó còn thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Không – thời gian
trong tác phẩm văn học chịu sự chi phối của quy luật tâm lí và ý đồ sáng tác

11


của tác giả. Tìm hiểu thi pháp không – thời gian nghệ thuật là tìm hiểu ý đồ
nghệ thuật, quan niệm của nhà văn về cuộc sống.
Ngôn ngữ là chất liệu của tác phẩm văn học. Bởi văn học chính là nghệ
thuật ngôn từ. Có ngôn ngữ mới có cốt truyện, có nhân vật, có không – thời
gian nghệ thuật… Cũng từ ngôn ngữ đó mà hình thành giọng điệu của nhà văn.
Viết nhƣ thế nào cho sâu sắc, cho hấp dẫn với nhà văn luôn là một thử thách.
Với việc tiếp nhận thì ngôn ngữ, giọng điệu là một trong những yếu tố góp
phần tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm.
Trên đây là một số nét khái quát về thi pháp thể loại truyện ngắn. Có thể
nhận thấy truyện ngắn là một thể loại văn học gần gũi với đời sống hàng ngày.
Nó mang những đặc trƣng rất riêng so với các thể loại khác. Tuy nhiên ở bất cứ
thể loại nào cũng vậy, sự phân chia này chỉ mang tính chất tƣơng đối để tiện
cho việc tìm hiểu, nghiên cứu.
1.1.2. Bối cảnh truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại
Sau thành công của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, sự đổi mới

tƣ duy văn học đã tạo nhiều điều kiện cho các thể loại vận động và phát triển.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 gắn liền với cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại. Nó thực hiện nhiệm vụ chính trị là phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến
đấu. Chính vì vậy, khuynh hƣớng sử thi, cảm hứng lãng mạn, âm hƣởng ngợi
ca là những vấn đề chủ đạo chi phối đời sống văn học. Ngƣời ta đánh giá giá trị
của tác phẩm thông qua nội dung phản ánh, lấy hiện thực đƣợc phản ánh trong
tác phẩm làm thƣớc đo cho sự tiến bộ của nghệ thuật. Đánh giá về giai đoạn
văn học này, Nguyễn Minh Châu viết: “Tôi không hề nghĩ rằng mấy chục năm
qua, nền văn học cách mạng không có những cái hay, không để lại được
những tác phẩm chân thực. Nhưng về một phía cũng phải nói thật với nhau
rằng: Mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, với
những cây bút chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khắc

12


khổ đã có sẵn mà chúng ta quy cho đấy là tất cả hiện thực đời sống đa dạng
và rộng lớn”.[20]
Bƣớc ra khỏi cuộc chiến, hiện thực cuộc sống đã thay đổi, đặc biệt là dƣới
sự ảnh hƣởng của không khí đổi mới, văn học đã thực sự đƣợc “cởi trói”. Tƣ
tƣởng tự do dân chủ đã mang đến cho văn học nƣớc nhà một “luồng sinh khí
mới”. Các nhà văn đƣợc quyền “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật” [18]. Hiện thực phản ánh đƣợc mở rộng. Đó không chỉ là hiện
thực cuộc chiến tranh trƣờng kì gian khổ nhƣng tất yếu thắng lợi của cả dân tộc
mà nó còn là hiện thực đời sống ở mỗi cá nhân, mỗi số phận. Con ngƣời cũng
đƣợc nhìn nhận đa chiều đa diện hơn. Bên cạnh âm hƣởng ngợi ca thì âm
hƣởng phê phán những thói hƣ tật xấu, những khuyết tật của đời sống xã hội
cũng trở nên đậm đặc. Có thể nói, sau “Lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa”, nền văn học nƣớc ta đã có sự trƣởng thành vƣợt bậc cả về số lƣợng
và chất lƣợng sáng tác. Văn học giai đoạn này thực sự đã gặt hái đƣợc nhiều

thành công trong việc phơi bày những góc khuất của hiện thực, nhận chân lại
các giá trị lịch sử, “nói lên sự thật trần trụi, đưa ra khỏi bóng tối, phơi bày dưới
mắt mọi người tất cả các mặt tiêu cực của xã hội, của đời sống đất nước sau
chiến tranh, các mặt trước đây vẫn bị dồn nén lại, che dấu cẩn thận” [49]. Mỗi
nhà văn bằng những trải nghiệm của mình đang dần xác lập một hệ tiêu chí mới
cho văn học gắn bó với cuộc sống, với con ngƣời. Chính nhu cầu cách tân, nhu
cầu tái tạo lại chính mình là khát khao thƣờng trực của các nhà văn Việt
Nam thời hiện đại. Hơn lúc nào hết họ ý thức đƣợc nhiệm vụ cao cả của
mình, tự do sáng tạo theo quan điểm chính trị của riêng mình, với lập trƣờng
của nhân dân và dân tộc, khai thác cuộc sống và con ngƣời trên nhiều bình
diện. Vì thế mà con ngƣời hiện lên trong văn học đƣơng đại rất phức tạp,
toàn diện, đa chiều. Nó không còn là những nhân vật lí tƣởng, nguyên phiến,
đơn trị, mà nó xuất hiện với tất cả những thói tật, cả rồng phƣợng lẫn rắn rết,
thiên thần và ác quỷ…

13


Có thể nói, văn học thời kì đổi mới đã có những khám phá tìm tòi mới khi
đi vào phản ánh những ngổn ngang, bề bộn của cuộc sống con ngƣời thời hiện
đại. Đó là sự chuyển đổi không chỉ về số lƣợng tác giả, chất lƣợng tác phẩm mà
còn là sự chuyển đổi về tƣ duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo. Đánh giá về
văn học đƣơng đại, một số độc giả cho rằng văn học hiện nay có cái nhìn bi
quan về con ngƣời và cuộc sống bởi những mặt trái của xã hội và con ngƣời
đƣợc thể hiện một cách lộ liễu trên trang giấy chứ không đƣợc chải chuốt bóng
bẩy, lí tƣởng hóa nhƣ trƣớc. Nhƣng trên thực tế, thể hiện những mặt trái của xã
hội và con ngƣời không phải là cái nhìn bi quan mà đó là tiếng nói thẳng thắn,
đầy lạc quan, hi vọng vào thiên lƣơng, vào những mầm mống tốt đẹp ở đời.
Đấy mới là điều cao cả mà văn học hƣớng tới. Ý thức đƣợc điều này, các nhà
văn hôm nay luôn tự hoàn thiện ngòi bút của mình, nỗ lực cách tân trên mọi

phƣơng diện từ nội dung đến hình thức nghệ thuật để tạo nên những thành tựu
mới đặc biệt ở thể loại văn xuôi tự sự trong đó có truyện ngắn.
1.1.3. Một số thành tựu của truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại
Nằm trong mạch vận động chung của văn xuôi Việt Nam sau 1986, thể
loại truyện ngắn với ƣu thế đặc biệt đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể và
ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trên văn đàn.
Đánh giá về thành tựu của truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại trƣớc hết cần
phải kể đến sự phát triển vƣợt bậc về số lƣợng tác phẩm và đội ngũ sáng tác.
Qua một vài con số thống kê, ta có thể thấy đƣợc tốc độ phát triển của truyện
ngắn. “Chỉ có ba cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn nghệ, Hội nhà văn thành
phố Hồ Chí Minh và tạp chí Văn nghệ quân đội đã tổ chức có gần 700 truyện
ngắn dự thi. Nếu tính cả truyện ngắn đăng trên báo, tạp chí trong năm con số
sẽ lên hàng vạn” ; “Cuộc thi truyện ngắn 2001 – 2002 do tạp chí Văn nghệ
quân đội tổ chức có gần 2000 tác phẩm dự thi bằng số lượng truyện ngắn bốn
năm 1978 – 1979, 1983 – 1984” [17]. Những thống kê đó cho thấy tiềm lực rất
lớn của thể loại truyện ngắn. Có thể nói, chƣa bao giờ trong lịch sử văn học dân

14


tộc lại chứng kiến sự bùng nổ về số lƣợng tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn
nhƣ ở giai đoạn văn học sau đổi mới. Từ Nguyễn Minh Châu với một loạt các
tác phẩm nhƣ Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Chiếc thuyền ngoài xa,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bức tranh, Bến quê… đến Nguyễn
Quang Lập với Tiếng gọi phía mặt trời lặn, Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về
hưu, Nguyễn Quang Thiều với Hai người đàn bà xóm trại, Tạ Duy Anh với
Bước qua lời nguyền, Võ Thị Hảo với Biển cứu rỗi, Nguyễn Thị Thu Huệ với
Hậu thiên, Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Phan Thị Vàng Anh với Khi
người ta trẻ, Phan Hải Triều với Một tối ở quán bar… thực sự đã mang đến
cho thể loại này một nguồn sinh lực tràn trề nhựa sống.

Về đội ngũ sáng tác thể loại truyện ngắn cũng khá đông đảo. Đó là cuộc
chạy tiếp sức giữa ba thế hệ nhà văn, từ những cây bút đi tiên phong mở đƣờng
khai phá cho sự nghiệp đổi mới của văn học nhƣ: Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp… cho đến những nhà văn
thuộc thế hệ sau đổi mới nhƣ: Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái,
Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu… và thế hệ nhà
văn thứ ba còn rất trẻ, đƣợc sinh ra từ những năm 70, 80 của thế kỉ trƣớc đang
nỗ lực sáng tạo những giá trị mới cho văn học. Nhiều phong cách truyện ngắn
tài hoa xuất hiện với cá tính, sự sáng tạo khác nhau đã đem đến cho giai đoạn
văn học này một diện mạo hết sức phong phú, mới mẻ và khác biệt.
Cùng với sự gia tăng nhiều tên tuổi mới và số lƣợng tác phẩm, truyện
ngắn thời kì này đã mở ra nhiều hƣớng tìm tòi tiếp cận hiện thực đời sống. Bên
cạnh việc tiếp tục đề cao những cái mới, tiến bộ, cái tốt, cái thiện, các nhà văn
còn đào sâu khai thác những mặt trái của xã hội. Hiện thực cuộc sống hiện lên
muôn màu muôn vẻ. Từ những mất mát của ngƣời lính trong chiến tranh đến
những hận thù của dòng họ, gia tộc, sự khắc nghiệt của cái đói khát, nghèo khổ,
cô đơn, niềm hân hoan hạnh phúc, xót xa cay đắng, những vấn đề thuộc về tâm
linh, tiềm thức và vô thức... Bao nhiêu phức tạp của đời thƣờng đều đƣợc

15


truyện ngắn phản ánh một cách chân thực. Truyện ngắn giờ đây không còn là
“mũi khoan thăm dò nhỏ và nhẹ” (Nguyên Ngọc) mà đã mang sức nặng của sự
khái quát. Ta có thể bắt gặp trong truyện ngắn hôm nay cái trật hẹp của cõi
nhân gian rộng lớn và cái mênh mông thẳm sâu của cõi lòng nhỏ bé qua số
phận của mỗi cá nhân. Các nhà văn dƣờng nhƣ đều cảm nhận đƣợc sự đổ vỡ
của những trật tự đời sống, sự đảo lộn của các thang bảng giá trị, sự mất niềm
tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của
con ngƣời. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đó là những câu chuyện về

sự vô nghĩa của cuộc đời, sự bê tha, nhếch nhác của con ngƣời, sự bơ vơ, lạc
loài của cái đẹp; Nguyễn Bình Phƣơng lại bị ám ảnh bởi sự khủng hoảng niềm
tin, sự băng hoại đạo đức và sự đổ vỡ của những trật tự đời sống xã hội và gia
đình; sáng tác của Tạ Duy Anh là nỗi khắc khoải đi tìm bản ngã, tìm một giá trị
thực sự nhân bản trên cái hiện thực đổ nát, điêu tàn, là sự loay hoay lí giải
những nỗi đọa đày con ngƣời từ tiền kiếp…
Đáng kể nhất là sự đổi mới trên phƣơng diện hình thức nghệ thuật. Đó là
những đột phá về mặt thể loại làm nên thành công ở nhiều cây bút. Để truyền
tải đƣợc hiện thực bộn bề, ngổn ngang và đầy biến động của xã hội hiện đại,
các nhà văn đã không ngừng nỗ lực tìm tòi đổi mới cách viết. Các kĩ thuật viết
truyện ngắn đƣợc chú trọng, cách tân nhƣ: dòng ý thức, sự thay đổi ngôi kể,
điểm nhìn trần thuật, tính chất đa thanh của ngôn ngữ, tính cởi mở của cấu trúc
tác phẩm, câu văn linh hoạt, đa dạng… Những chất liệu đời sống vào văn
chƣơng cũng nhiều hơn, mang theo cả cái ngổn ngang của hiện thực, cái oi
nồng bụi bặm của phố phƣờng. Ở nhiều tác phẩm giọng giễu nhại trở thành
giọng chủ đạo. Hiện thực đời sống đƣợc nhìn qua lăng kính phóng đại, trào
lộng. Nhà văn suy tƣ về những nghịch lí của đời ngƣời, những con ngƣời đời
thƣờng, cƣời cợt, mỉa mai, châm biếm mà cũng đầy xót xa.
Có thể nói, truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã thực sự khẳng định đƣợc vị
thế trong các thể loại khi đáp ứng đƣợc nhu cầu của độc giả, tỏ ra là thể loại có

16


nhiều ƣu thế trong chiếm lĩnh và phản ánh cuộc sống. Sự đổi mới trong tƣ duy
sáng tạo và hình thức nghệ thuật đã đem lại cho truyện ngắn những mùa gặt bội
thu cả về số lƣợng và chất lƣợng tác phẩm. Với những đóng góp vào thành tựu
chung của nền văn xuôi đƣơng đại, truyện ngắn đã khẳng định đƣợc vị trí và có
tầm ảnh hƣởng nhất đối với đời sống văn học thời kì đổi mới.
1.2. Hành trình truyện ngắn Tạ Duy Anh

1.2.1. Tạ Duy Anh – cuộc đời, sự nghiệp văn chƣơng
Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Viết Đãng, sinh ngày 9/9/1959 tại làng Đồng
Trƣa, xã Hoàng Diệu, huyện Chƣơng Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
Ngoài bút danh Tạ Duy Anh, ông còn nhiều bút danh khác: Lão Tạ, Chu Quý,
Quý Anh, Bình Tâm. Ông tốt ngiệp khóa IV trƣờng viết văn Nguyễn Du và
đƣợc giữ lại trƣờng giảng dạy bộ môn Sáng tác đến năm 2000. Ông từng làm
cán bộ giám sát chất lƣợng bê tông tại nhà máy thủy điện Hòa Bình, làm trung
sĩ bộ binh ở Lào Cai và hiện đang là biên tập viên văn học Nhà xuất bản Hội
nhà văn.
Xuất hiện trên văn đàn từ thập niên 80 của thế kỉ XX, sự nghiệp văn
chƣơng của Tạ Duy Anh chƣa thực sự dài so với các nhà văn cùng thời. Tuy
nhiên trải qua hơn ba mƣơi năm cầm bút, ông đã cho ra đời sáu tiểu thuyết,
hàng chục tập truyện ngắn, tản văn và truyện thiếu nhi. Trong đó có không ít
các tác phẩm làm độc giả phải giật mình, gây “sốt” trong dƣ luận. Điều đó
chứng tỏ sức lao động bền bỉ của một cây bút giàu nhiệt huyết và đam mê.
Vốn là một cậu bé “cơ thể còi cọc, mặt mũi đen đủi, xấu xí”, sinh ra ở một
“làng quê hẻo lánh, thấm đẫm không khí thù hận”, Tạ Duy Anh không đƣợc
chuẩn bị những điều kiện thuận lợi để trở thành nhà văn. Ông đã từng tâm sự:
“Tôi không được chuẩn bị mảy may để trở thành nhà văn. Trừ cụ nội bốn đời
của tôi có ít chữ nghĩa nhưng lánh tục, còn lại tôi không được thừa hưởng
truyền thống văn chương như mọi người thường hỏi tôi về điều đó. Thậm chí
tôi còn được thừa hưởng cái không ai muốn ấy là sự thất học” [12, tr.171].

17


Những dòng tâm sự có phần xót xa ấy rõ ràng một nỗi ám ảnh lớn đối với nhà
văn. Không có may mắn thừa hƣởng truyền thống văn chƣơng từ gia đình
nhƣng dƣờng nhƣ từ nhỏ Tạ Duy Anh đã có duyên với văn học. Trong một lần
trả lời phỏng vấn, ông nói đùa: “Ngẫm lại thấy có duyên với nhà văn từ bé, từ

nhỏ tôi đã nhớ rất dai, đã thích phụ nữ, đã yêu rồi” [65]. Trong cuốn Tạ Duy
Anh, Nhân vật – tác phẩm chọn lọc, ông cũng chia sẻ: “Bi kịch lớn nhất đời tôi
là sự chối bỏ, từ trong ý thức sâu thẳm vùng đất mình sinh ra và lớn lên. Tôi
chạy trốn nó như chạy trốn cái chết thường khiến tôi cô đơn ngay từ buổi chưa
đi học”[12]. Nhƣ vậy, có thể thấy nỗi ám ảnh suốt tuổi thơ của Tạ Duy Anh là
sự cô đơn, cô độc. Trong tâm trạng đó, ông đã tìm đến với những cuộc đối
thoại tƣởng tƣởng với một cô bạn gái để hờn dỗi, sẻ chia: “Đó là cuộc đối thoại
được nối với nhau bằng những sợi tơ ngũ sắc, toàn những lời có cánh, thấm
đẫm niềm say mê và tinh thần xả thân. Đó là sự hiến mình của tôi cho cái mà
sau này, tôi ý thức rất rõ ràng nó là văn chương nghệ thuật. Giống như dâng
tặng tình yêu, tôi không hề băn khoăn, không hề để lại mảy may cho riêng mình
như một sự phòng xa nào đó. Tôi kí thác một lần trọn vẹn và chung thân cho
niềm đam mê cái đẹp” [12, tr.5]. Có lẽ ít ai ngờ rằng, chính những cuộc đối
thoại vô thức đó đã mở ra cánh cửa để Tạ Duy Anh đến với văn chƣơng nghệ
thuật và trở thành một nhà văn tên tuổi.
Bƣớc vào làng văn, Tạ Duy Anh luôn có ý thức tự giác về trách nhiệm và
sứ mệnh của ngƣời cầm bút. Trong các cuộc trả lời phỏng vấn, ông đã khẳng
định sự nghiêm túc, tỉnh táo và trách nhiệm của mình với nghề: “Khi viết, dù là
bài báo, tôi cũng chú ý từng chữ một. Bất cứ sự buông thả nào đều phải trả
giá” [14]. Ông luôn tâm niệm: “Tôi đứng ở giữa thời cuộc này để làm được
điều gì đó cho những người xung quanh” [65]. Với Tạ Duy Anh, văn chƣơng
không phải là một thứ danh vọng mà nó thực sự là lƣơng tâm và trách nhiệm
của ngƣời cầm bút. Ông viết “để cho cái ác không biến mất thì cũng vì những
trang viết của tôi mà mỗi ngày ít đi một chút, một chút như những hạt bụi”

18


[35]. Chính vì vậy, trong suốt hơn ba mƣơi năm cầm bút, Tạ Duy Anh không
lúc nào thôi trăn trở về sự “thay đổi”. Bắt đầu từ thay đổi nghề, thay đổi cách

sống, đến thay đổi cách nghĩ, thay đổi lối viết, văn phong… Tạ Duy Anh đã
thực hiện một cuộc thay đổi về mặt bút pháp và tƣ tƣởng. Hành trình nghệ thuật
của ông là các chặng đƣờng sáng tạo: “Với tôi, mỗi cuốn sách chưa viết đều là
một chặng đường mới và khi viết xong rồi thì chặng đường đó đã ở lại phía
sau” [46]. Và cứ sau mỗi tác phẩm trình làng, nhà văn lại nhân thêm “hi vọng
mình làm thay đổi được điều gì đó theo chiều hướng tốt lên” [69]. Có lẽ chính
vì vậy mà ông luôn có đủ sự bình tĩnh trƣớc những sóng gió của dƣ luận. Vƣợt
lên tất cả những luồng ý kiến khen chê, những sự bài xích, thậm chí bị cấm
xuất bản, Tạ Duy Anh vẫn lặng lẽ sáng tác, cần mẫn trên cánh đồng chữ nghĩa
để cho ra đời những tác phẩm thực sự có giá trị.
Là ngƣời khơi mở “dòng văn học bước qua lời nguyền”, Tạ Duy Anh đã
gắt hái đƣợc thành công trên nhiều thể loại. Bên cạnh truyện ngắn thì tiểu
thuyết là sự khẳng định chắc chắc tên tuổi của Tạ Duy Anh trên văn đàn. Năm
1992, tiểu thuyết Lão Khổ ra đời đƣợc giới nghiên cứu phê bình đánh giá là
một bƣớc tiến dài của Tạ Duy Anh trên hành trình sáng tạo nghệ thuật. Hoàng
Ngọc Hiến trong một bài bình luận đăng trên Tạp chí văn học số 4/1992 đã
khẳng định: “Tạ Duy Anh Bước qua lời nguyền để đi đến Lão Khổ. Đây là một
cuốn tiểu thuyết rất quan trọng … thêm một giả thuyết văn học về bản chất và
thân phận người nông dân”.
Không tự thỏa mãn với chính mình, đầu năm 2002 Tạ Duy Anh lại làm
cho dƣ luận bùng lên ồn ào xoay quanh tiểu thuyết Đi tìm nhân vật. Tác phẩm
đã cho ta thấy “một Tạ Duy Anh khác nhiều so với Tạ Duy Anh của “Bước qua
lời nguyền” hay “Lão Khổ”. Nhà văn đã đạt đến lối viết đa âm hiện đại, từ cách
đặt vấn đề đầu tiên đến cấu trúc tiểu thuyết, phong cách ngôn ngữ… đều khá lạ
lẫm với những gì chúng ta đƣợc biết về dòng tiểu thuyết non trẻ Việt Nam. Tuy
nhiên cuốn sách sau khi ra đời đã bị thu hồi bởi những hàm ngôn ẩn dụ, những

19



×