Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sự phát triến của tư bản tài chính trong giai đoạn chủ nghĩa tư bán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.29 KB, 18 trang )

Đe tài: Sự phát triến của tư bản tài chính trong giai đoạn chủ nghĩa tư bán
MỤC
ngày LỤC
nay
I. Sự HÌNH THÀNH CỦA TƯ BẢN TÀI CHÍNH
1. Sự tích tụ sản xuất trong công nghiệp dẫn đến hình thành các tổ chức độc
quyền trong công nghiệp
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất
I. SỤ HÌNH THÀNH CỦA TƯ BẢN TÀI CHÍNH..............................................2
diễn ra cực kỳ nhanh chóng trong ngành công nghiệp. Những năm đầu thế kỷ 20 ở
1. Sự tích tụ sản xuất trong công nghiệp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền
Mỹ, Anh, Đức, Pháp các xí nghiệp lớn chiếm 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm
trong công nghiệp...............................................................................................................2
hơn % tông số sức hơi nước và điện lực, gần 1/2 số công nhân và /4 tông sản phâm.
2. Sự tích tụ sản xuất và độc quyền hoá trong công nghiệp dẫn đến tích tụ tư bản
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình
và độc quyền hoá trong lĩnh vực ngân hàng...................................................................2
thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên
3. Sự dung hợp giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng và tư bản độc quyền trong
có thê dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỳ thuật
công nghiệp dẫn đến hình thành TBTC............................................................................3
cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến
khuynh hướng thoả hiệp với nhau đe nắm độc quyền.
Tô chức độc quyền là tô chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn đê tập trung
BIỂU
HIỆNlớn
MỚI
TÀIthụ
CHÍNH
GIAI
vào II.


trong
tay phần
việcCỦA
sản TƯ
xuấtBẢN
và tiêu
một sốTRONG
loại hàng
hoáĐOẠN
nào đóCNTB
nhằm
mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền
hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết
những
NGÀYdoanh
NAY....................................................................................................................
nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền,
4
các1.tổ Sở
chức
hữu
độc
củaquyền
tư bảnđãtàiphát
chính.........................................................................................4
triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác
nhau.
2. Với
Sự những
thay đổiưudiễn

thế ra
vàngay
quyền
trong
lực quá
này,trình
các tổ
liênchức
kết và
độcthâm
quyền
nhập
có vào
thể loại
nhautrừ
giữa
đối thủ
cạnh
tưtranh,
bản độc
độcquyền
quyềncông
quy và
định
tư giá
bảnvà
độc
thuquyền
đượcngân
lợi nhuận

hàng..................................................6
độc quyền cao.
3. Lênin
Sự thay
đã đổi
nóitrong
“Cạnh
lĩnh
tranh
vực biến
phát hành
thànhchứng
độc quyền,
khoán kết
và hệ
quả
thống
là xã
tham
hộidự
hóa
...............
của sản
6
xuất4.cóHình
một thành
bước nhũưg
tiến lớntậplao.
đoàn
Tập

tư trung
bản tàisản
chính
xuấtvớidiễn
tư cách
ra với
nhưtốc
một
độhình
cao thái
và trên
liên qui
mô minh
lớn đã
siêu
đần
độcthẳng
quyền...........................................................................................................7
tới độc quyền, đây là quy luật phổ biến và căn bản của CNTB
vào5.thờiSự
kỳtham
này”gia của các chuyên gia quản lý với tư cách là một bộ phận hợp thành
2. Sự tích tụ sản xuất và độc quyền hoá trong công nghiệp dẫn đến tích tụ tư
bản và độc quyền hoá trong lĩnh vực ngân hàng
Cũng vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trong ngành ngân hàng cũng
của giới đầu sỏ tài chính...................................................................................................7
không ngừng diễn ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản tiền tê. Biểu hiện ở chỗ: số
các ngân hàng độc lập giảm xuống, sổ chi nhánh và sổ tiền gửi vào các ngân hàng
III. CÁC VÁN ĐÊ CỦA TƯ BẢN TÀI CHÍNH NGÀY NAY..............................7
1. Khủng hoảng tài chính và hệ lụy của nó....................................................................7

2. Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính...................................................................8
3. Nen kinh tế toàn cầu và các giai đoạn khủng hoảng tài chính.................................9
3.1. Khủng hoảng tài chỉnh giai đoạn 1929 - 1934..............................................9
3.2. Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997...................................................11
3.3............................................................................................................................. T
hế giới với cuộc khủng hoảng tài chính mới nhất.................................................12

KÉT LUẬN.................................................................................................................. 19

21


lớn tăng nhanh. Nguyên nhân: do ảnh hướng của tích tụ và tập trung sản xuất trong
công nghiệp và do tác động của quá trình cạnh tranh trong ngân hàng tù - đó hình
thành nên các ngân hàng khổng lồ. Trên cơ sở các ngân hàng khổng lồ, các tổ chức
độc quyền trong ngân hàng ra đời và ngân hàng có vai trò mới. Vai trò mới của
ngân hàng được thể hiện ở sự khống chế của tu - bản độc quyền ngân hàng đối với tư
bản độc quyền công nghiệp và phản ứng của các tư bản độc quyền công nghiệp
muốn thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào tư bản độc quyền ngân hàng đã dẫn đến sự
thâm nhập và hòa quện vào nhau giữa tư bản độc quyền công nghiệp và tu - bản độc
quyền ngân hàng
3. Sự dung họp giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng và tư bản độc quyền
trong công nghiệp dẫn đến hình thành TBTC
Sự xuất hiện, phát triến của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đôi
quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu
có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín
dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng,
khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản. Dựa trên địa vị người chủ
cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của nó vào các cơ quan quản lý của độc
quyền công nghiệp đề theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc các tố chức độc quyền

ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phổi
ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của
các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tồ chức độc quyền
công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần
của ngân hàng lớn đế chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng
phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng
xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư
bản tài chính. V.I. Lênin nói: "tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư
bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tu - bản của những
liên minh độc quyền các nhà công nghiệp"l.
Sự phát triên của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là
bọn đầu sỏ tài chính.

3


- Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham
dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài
chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách
là công ty gốc (hay là "công ty mẹ"); công ty này lại mua được co phiếu khống chế,
thống trị được công ty khác, gọi là "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại chi
phối các "công ty cháu" cũng bàng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và
phương pháp tô chức tập đoàn theo kiêu móc xích như vậy, băng một lượng tư bản
đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được
một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài "chế độ tham dự", bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn
như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng
khoán ớ sớ giao dịch, đầu cơ ruộng đất... đế thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Thống trị về kinh tế là cơ sở đề bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và

các mặt khác, về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phổi mọi hoạt động
của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi
ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa
phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng
chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược đế áp bức, bóc lột các nước đang
phát triển và chậm phát triển.
II. BIỂU HIỆN MỚI CỦA TƯ BẢN TÀI CHÍNH TRONG GIAI ĐOẠN
CNTB NGÀY NAY
Do sự phát triên mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các
ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm... ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
Thích ứng với sự biến đổi đó, hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và cơ chế thống
trị của tư bản tài chính đã thay đồi.
1. Sở hữu của tư bản tài chính
Tư bản tài chính theo Lênin “là sự hợp nhất hay sự hòa hợp vào nhau giừa
Ngân hàng và công nghiệp - đó là lịch sử phát sinh của tư bản tài chính và là nội
dung của khái niệm tư bản tài chính”. Đây là hình thức sử hữu hỗn hợp tư bản ngân

4


hàng và tư bản công nghiệp do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đưa tới. ngày
nay tư bản tài chính đã có sự thay đổi và là những thay đổi về mặt cơ cấu, giá trị,
cách thức huy động vốn và ngày càng mang tính quốc tế hóa cao. Trước sự phát
triên mạnh mè của cách mạng KHKT - CN, đê chiêm lĩnh các kỳ thuật mũi nhọn và
xác lập vị trí độc quyền bằng kỳ thuật các tập đoàn cần phải có lượng vốn cực kỳ
lớn, do đó việc huy động vốn phải bằng nhiều hình thức.
Trước nhất, đó là hình thức sáp nhập giữa các xí nghiệp độc quyền, hình thức
này ngay nay đã mang tính toàn cầu và ngày càng trở thành phương thức đầu tư chủ
yếu, đế trở thành các tập đoàn xuyên quốc gia.

Thứ hai, là các XN đã sử dụng phương thức phát hành trái phiếu để gom vốn,
do ngân hàng đầu tư hoặc bảo lãnh đề gán kết các XN lại thành những tập đoàn tài
chính lớn
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng thì vai trò của
các hình thức phi ngân hàng thực hiện nhiều chức năng khác nhau đã tăng lên trong
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Đây là một xu hướng vận động mới của ngân hàng hiện
đại. Các hình thức phi ngân hàng như việc thành lập các công ty cổ phần kinh doanh
tiền tệ ở Mỹ, thi trường tư bản chi vay và chứng khoán mà việc thu hút tiết kiệm,
việc cấp vốn của Nhà nước, các doanh nghiệp và dân cư trong nền kinh tế được
thực hiện đã tăng lên. Từ đó quan hệ sở hữu cổ phần thay đổi.
Thứ nhất, chế độ ủy nhiệm do phát hành cổ phiếu có giá trị nhỏ đã làm cho
cổ phần gia tộc chuyển thành cổ phẩn của nhiều tổ chức, biến các nhà tư bản cá biệt
thành nhà tư bản hỗn hợp, sở hữu cá nhân thành sở hữu của TB hỗn hợp.
Thứ hai, hình thức liên hợp nắm giữ cô phần làm cho các tập đoàn tài c hình
đan xem nhau, thâm nhập vào nhau. Từ sau chiến tranh, với các hình thức liên kết
nganh và liên kết dọc giữa các xí nghiệp độc quyền, những cổ đông lớn chiếm độc
quyền cổ phần giảm đi, nhiều cổ đông lớn liên kết với nhau để khống chế một công
ty, XN độc quyền. Các cổ đông lớn chi phối trong tổ chức tài chính, chúng liên kết
với nhau, hình thành kiểu liên kết cùng nhau khổng chế các tổ chức tài chính.
Thứ ba số người và các tổ chức tham gia đầu tư cổ phiếu ngày càng nhiều,
quyền sở hữu cổ phần ngày càng phân tán

5


Như vậy, việc phát hành cô phiếu giá trị nhỏ, chế độ ủy nhiệm, sự đan xen
thâm nhập vào nhau của tư bản tài chính đã làm cho số cô đông tăng lên, lượng chu
chuyển ốc phiếu tăng theo. Sự dịch chuyển quyền sở hữu cổ phiếu diễn ra liên tục,
tính xã hội hóa của tư bản ngày càng mở rộng. Nhưng sự chênh lệch về quyền sở
hữu cổ phiếu do sự khác nhau về loại cổ phiếu gây ra khiến cho đông đảo các cổ

đông nhỏ nắm được tình hình sản xuất tiêu thụ và đầu tư của XN, quyền kiểm soát
cổ phiếu vẫn thuộc về các cổ đông có lượng cổ phiếu đủ lớn. Sự đan xen vào nhau
giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính thông qua sự đan xem cổ phần làm cho
bất kỳ một cổ đông độc lập nào cũng không thể có được số cổ phần có ý nghĩa
quyết định đối với XN độc quyền, quyền lực bị dàn đều, tù’ đó chế độ sở hữu kiểu
mắt lưới liên kết theo chiều quang ra đời, một hình thức sử hữu tập thể của tư bản
độc quyền
2. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết yà thâm nhập yào
nhau giũa tư bán độc quyền công yà tư bán độc quyền ngân hàng
Ngày nay, phạm vi liên kết được mở rộng ở nhiều ngành do vậy, các tập
đoàn tài chính thường tồn tại dưới dạng kiêu công -nông - thương - tín - dịch vụ,
hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc phòng
Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hon và phức tạp hon. Ví
dụ: ngân hàng cho công nghiệp vay vốn và đảm bảo tính dụng cho nó kinh doanh,
lợi cùng hưỏng, rủi ro thua lồ cùng chịu. Hoặc là ngân hàng mua sắm các phương
tiện hiện đại, đắt tiền voi mới cho các doanh nghiệp thuê. Ngày nay, do tác động
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên các tài sản cổ định cũng như các trang
thiết bị lỗi thời rất nhanh, việc đi thuê phương tiện của tài sản cố định đồng thời tiết
kiệm được chi phí đầu tu mua sắm khi gia nhập một ngành sản xuất mới.
3. Sự thay đối trong lĩnh vực phát hành chứng khoán và hệ thống tham dự
Các ngân hàng đầu tư đã củng cố thêm vị trí của chúng trên thị trường quốc
gia và quốc tế nhờ phát hành chứng khoán và buôn bán chứng khoán với quy mô
lớn. Các ngân hàng quản lý vốn của các công ty đầu tư, các quỳ hưu trí và từ thiện,
các tổ chức và cá nhân nhà tư bản đã tạo ra khả năng hình thành số cổ phiếu khổng
chế. VD: cuối năm 1987, công ty tài chính lớn nhất của Mỹ là American Express
cùng

V

ới các ngân hàng lớn đã quản lý 332 tỷ USD trong số 531 tỷ USD vổn kinh


doanh của 5 công ty thương mại hàng đầu ở Mỳ

6


4. Hình thành những tập đoàn tư bản tài chính vói tư cách như một hình
thái liên minh siêu độc quyền
Đe vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống
kinh tế, toàn cầu hoá kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân
hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia thực hiện việc điều tiết các consơn và
cônglômêrát, xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác. Sự ra đời của các
trung tâm tài chính của thế giới như Nhật Bản, Mỳ, Đức, Hồng Kông, Xingapo... là
kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế. Dù biểu hiện dưới hình thức
nào, có sự thay đối cơ chế thống trị ra sao, bản chất của tư bản tài chính cũng không
thay đổi
5. Sự tham gia của các chuyên gia quản lý với tư cách là một bộ phận hợp
thành cùa giói đầu sồ tài chính
Sự tham gia của các chuyên gia quản lý với tư cách là một bộ phận hợp thành
của giới đầu sỏ tài chính. Thực tế hiện nay, các chuyên gia quản lý do chức năng
của mình có thề đạt tới sự kiểm soát đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của các
công ty tài chính, các ngân hàng.ở Mỹ, nhiều chuyên gia quản lý do tham gia vào
dịch vụ môi giới cổ phần cho công ty mà đã trở thành những chủ sở hữu của công
ty: khoảng 150 chuyên gia quản lý ở Mỳ hiện nay có thu nhập hàng năm trên một
triệu đô la. Các chuyên gia quản lý này nằm trong giới kinh doanh và chính trị có
ảnh hưởng lớn như bộ phận họp thành của giới chop bu, thuộc vào hàng ngũ đầu sỏ
tài chính. Đây chính là tiêu biêu cho một thế hệ nhà tư bản tài chính mới
III. CÁC VÁN ĐẺ CỦA TƯ BẢN TÀI CHÍNH NGÀY NAY
1. Khủng hoảng tài chính và hệ lụy của nó
Có thể hiểu khủng hoảng tài chính là trạng thái chấn động của hệ thống tài

chính, từ hệ thống lưu thông tiền tệ, tín dụng, đến tài chính nhà nước, biểu hiện chủ
yếu ở sự mất ổn định, mất cân đối giữa thu và chi, thiếu hụt nghiêm trọng và kéo
dài các nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng của ngân hàng, kéo theo lạm
phát, đồng tiền mất giá nghiêm trọng. KHTC bắt nguồn tù' sự thiếu hụt ngân sách do
đề phòng và chuẩn bị chiến tranh, tăng cường lực lượng quân sự, hoặc do chi tiêu
vào phúc lợi xã hội quá sức chịu đựng của nền kinh tế, hoặc đầu tư nhiều mà không
có hiệu quả, tất cả đều có thể dẫn đến KHTC. Khủng hoảng thị trường tài chính xảy
ra khi những món nợ đến hạn không thu hồi được, do việc cấp phát vốn, cấp tín

7


dụng không kiêm tra, kiêm soát, không xem xét khả năng hoàn vôn của những đon
vị vay hoặc, do giá chứng khoán cô phần đột nhiên giảm sút.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính xảy ra nặng nề chưa từng có từ 1997 ở
Châu Á làm bộc lộ những mặt yếu kém, với sắc thái và mức độ khác nhau ở từng
nước, về cơ cấu kinh tế và cơ chế kinh tế. Nó đòi hỏi sự hợp tác, phối hợp hành
động ở cả ba cấp: quốc gia, khu vực, toàn cầu; sự đổi mới các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế, bảo đảm sự hợp tác bình đẳng; sự hỗ trợ có hiệu quả nhằm giúp cho
nền kinh tế mỗi nước, cùng như nền kinh tế thế giới phát triên bền vững. Việt Nam
ít nhiều chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ấy, vì 70%
thị trường xuất khẩu của Việt Nam và 70% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là từ
khu vực Châu Á. Tác động ấy biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng chậm lại (GDP năm
1997: 8,8%; năm 1998: 5,8%; đầu năm 1999: thấp hơn). Biện pháp khắc phục khó
khăn, vượt qua thử thách là tiếp tục đây mạnh đôi mới toàn diện và sâu sắc hơn,
phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng, ra sức tiết kiệm trong sản xuất và tiêu
dùng, thúc đấy tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính



Bàng cân đối kể toán
cùa ngân hàng xáu đi

Thị trường chúng
khoán suy giám

Tâng tai suát

Độ bãt Ổn táng

\
Vắn đè lưa chọn đôi nghich và
rũl ro đạo đữc táng cao
Mát cân dối tái chinh
quốc gia

Khùng hoảng giao
dịch ngoại hối

ván dè lụa chọn díi nghịch và

Hoạt dộng kính té
dỉnh trệ

Khùng hoàng
thống Ngân hàng

hệ

ván để lựa chọn dổi nghịch và

rùi ro dạo đức tang cao
Hoạt động kinh té
đinh trệ

Nguyên nhân gâfy ra khùng hoàng tàĩ chinh
Tác dộng hệ lụy tữ nhũng bểến đồì của các nguyên nhân

3. Nen kinh tế toàn cầu và các giai đoạn khủng hoảng tài chính
3.1. Khủng hoảng tài chính giai đoạn 1929 - 1934
Vào những năm 1920, nền kinh tế Mỹ vận hành với chủ trương trở thành nhà
băng của thế giới, thành nhà sản xuất lương thực, sản xuất đồ dùng cho toàn thế giới
nhưng sẽ mua ít nhất có thể những gì mà phần còn lại của thế giới sản xuất ra. Tất
nhiên điều này tạo nên trạng thái cán cân thương mại rất có lợi cho Mỹ, những nó
không thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại đổ bảo vệ hoạt động
kinh doanh của những doanh nghiệp Mỳ, nhưng vấn đề ớ chồ nếu Mỹ không muốn
mua hàng từ đổi tác Châu Âu thì những đối tác đó lấy đâu ra tiền để mua hàng từ
các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đổi tác Châu Âu thậm chí không còn đáp
ứng được lãi suât cho những khoản vay từ nước Mỹ, họ không thê mua hàng nữa,
thì hoạt động xuất khẩu của Mỹ sụt 30% và tiếp tục sụt giảm trong thời gian sau đó.
Đây là một trong những yếu tố góp phần vào cuộc Đại khủng hoảng.

9


Hoạt động đầu cơ với quy mô lớn cũng hình thành nhiều vào những năm
1920. Chỉ trong năm 1929, đã có một luợng cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được
giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm 1928 đến tháng 9 năm 1929, chỉ số công
nghiệp Dow Jones tăng từ 191 diêm lên 38139 diêm. Không một nhà đâu tư nào có
thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Có thể lấy ví dụ về công ty RCA, công ty này có
cổ phiếu tăng từ 85 lên 420 chỉ trong năm 1928, mặc dù cổ phiếu này chưa từng trả

cổ tức một lần nào. Nguy hiềm hơn, với sự tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta
bắt đầu vay để mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tu - A có thể có 10 USD và vay
75 USD từ người môi giới của mình. Neu anh ta bán cô phiếu khi giá là 420$ ớ thời
điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10 USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD
(420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho người môi giới). Tức là lợi suất lên đến 3400%.
Con số này càng thúc đây "cơn điên" cô phiếu. Cho đến giữa năm 1929, tông lượng
cho vay đang lưu hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau
con số này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng
nhanh không kém, đạt mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nô đầu cơ này hoàn toàn
chỉ dựa trên những niềm tin vô căn cứ, và nó trái ngườ với sự sụp đổ khủng khiếp
vài tháng sau đó cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt nguồn tù' sự sợ hãi.
Giá bắt đầu giảm từ tháng chín, nhưng khi đó nhìn chung nhà đầu tư nói chung
vẫn rất lạc quan. Những nhà đầu cơ tiếp tục nhảy vào thị trường. Ngày thứ hai,
21/10/1929, giá bắt đầu giảm nhanh. Khối lượng giao dịch lớn khủng khiếp. Nhà
đầu tư vô cùng hoang mang và sợ hãi. Nhận ra ràng giá băt đầu "rơi", chứ không còn
tính được giảm bao nhiêu, nhiều người lao ra bán. Điều này làm cho sự sụp đổ diễn
ra nhanh hơn. Giá có ôn định lại một chút vào ngày thứ ba và thứ tư, nhưng cho đến
Ngày thứ Năm Đen Tối, 24/10/1929, mọi thứ đều vờ tan. Hầu hết những nhà đầu tư
lớn đều mất niềm tin vào thị trường. Tất cả nhà đầu tư đều đồng ý ở một điểm - đã
hết tăng rồi. Thị trường có hồi phục lại một chút vào thứ Sáu và thứ Bảy khi một
nhóm các ngân hàng lớn tham gia tham gia vào với nồ lực cố gắng chặn lại sự sụp
đổ của thị trường. Nhưng vào thứ hai tuần sau, ngày 28, giá tiếp tục giảm 13%.
Ngày hôm sau, Thứ Ba Đen Tối, khối lượng lên đến 16,4 triệu cô phần đã được giao
dịch. Cổ phiếu giảm liên tục, thường xuyên không có người mua.

10


Cuộc đại khủng hoảng 1929 bắt đầu từ Mỳ nhưng tác động của nó ảnh hưởng
trên toàn thế giới. Nhũng hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm từ mùa hè năm 1929

và đến năm 1933, GDP của Mỹ giảm hon 25%, xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt
được của 1/4 thế kỷ trước đó. Sản lượng công nghiệp bị tác động mạnh nhất, giảm
đến 50%. Nen kinh tế suy thoái liên tục đến năm 1933 thì bắt đầu cải thiện trong
vòng 4 năm cho đến 1937. Sau đó tiếp tục có những giai đoạn điều chỉnh lên xuống
nhưng cho đến 1940 mới đạt lại mức sản lượng kinh tế trước suy thoái.
Mức thất nghiệp, không có thống kê chính thức, nhưng được chấp nhận chung
là ở vào khoảng 25% vào năm 1933 và duy trì trên 14% vào những năm 1940. Tuy
nhiên những con số này vẫn chưa phản ảnh hết sự thực bởi số lượng người không
nhỏ, quá thất vọng, đã không còn động lực đi kiếm việc và không được tính vào thất
nghiệp. Những người này thường về các vùng quê đế tự kiếm sống.
Hệ thống ngân hàng cùng chúng kiến những con số "hoảng loạn" khi người gửi
tiền đua nhau đi rút. Nhiều nhà băng không chịu được sức ép này, một số khác buộc
phải sáp nhập, số lượng ngân hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai đoạn 1929 đến 1933.
3.2. Khủng
hoảng
tài
chính
Châu
A
năm
1997
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng
7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm
tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia
trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn
thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi
cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng
bới sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt
Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng

hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của
chính bản thân mình.
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất
giá tiền tệ, sụp đố thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á.
Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đấy xuống dưới

11


ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ôn định chính trị với sự ra đi của Suharto
ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia
tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhàm vào George Soros và Quỳ Tiền tệ Quốc tế.
Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu
người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là
nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu
nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997
xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống
3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn
tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không
bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do
FDI vào giảm.
3.3. Thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính mới nhất
Thảm kích đưưc háo trước
8 giờ 25 phút ngày 9-8-2007, Ngân hàng Trung ương Mỳ buộc phải bơm hàng
tỷ USD ra thị trường trước nguy cơ hệ thống ngân hàng bị suy sụp. 70 phút sau đó,

họ lại phải bơm thêm tiền vào hệ thống này. Ớ bcn kia bờ Đại Tây Dương, Ngân
hàng Trung ương châu Âu cũng hành động tương tự.
Người ta biết thêm một từ mới thông dụng trong nền kinh tế: Cho vay thế chấp
thứ cấp - một phương thức cho vay tồi tệ ở Mỹ đã tạo nên những khoản nợ rác, nợ
độc hại, thậm chí là những khoản nợ điên. Các nhà lãnh đạo ngân hàng trung ương
đang tìm cách bác bỏ sự thật là những biện pháp cấp bách như những biện pháp thi
hành cách đây một năm, và vẫn phải liên tục áp dụng với mức độ ngày càng nhiều

12


hơn kê từ đó - chính là dấu hiệu cho thấy quy mô của tấn thảm kịch. Thời gian trôi
qua chỉ càng khẳng định thêm nhũng mối lo ngại đó.
Những cơn chấn động trong năm qua đã làm cho hơn 100.000 nhân viên
ngành tài chính mất công ăn việc làm. Nó đê lại xác một vài ngân hàng được nhà
nước ra tay cứu vớt. Cuộc khủng hoảng đã khoét sâu vào uy tín của các ngân hàng
trung ương, nhất là các thiết chế quản lý tài chính. Nó làm mất lòng tin vào ngân
hàng. Tác động hủy diệt của nó đang dần dần làm ô nhiễm nền kinh tế thực. Nó đẩy
nhanh cuộc khủng hoảng địa ốc tại Mỳ, Anh và Tây Ban Nha. Các nước ở rất xa
như New Zealand và Đan Mạch cũng đang bước vào suy thoái. Nước Mỳ đang tiến
gần đến bóng ma đáng sợ này. Và châu Âu - đi đầu là Tây Ban Nha - đã bắt đầu
nhìn thấy tai con sói.
Sai lam noi tiếp sai lâm
"Chúng tôi đã cảnh báo rồi mà" - đó là một trong những câu nói cửa miệng
của các nhà kinh tế. Trong trường hợp này, thực tế không phải như vậy. Thực tế là
cuộc khủng hoảng đã ập đến một cách bất ngờ. Sau vài tháng, người ta lập luận rằng
điều tồi tệ nhất đã qua. Lại một sai lầm nữa. Rất nhiều người đã tưởng ràng, sự xáo
trộn trong sự phát triển của nền kinh tế phương Tây sẽ diễn ra trong thời gian ngắn.
Một lần nữa, lại sai. Giò' đây, không ai nghĩ rằng chặng cuối của con đường hầm sẽ
hiện ra trước năm 2010, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thêm cuộc khủng hoảng

lương thực và năng lượng. Tuy nhiên, trong khi nín thở chò' xem những gì sẽ tiếp
tục xảy ra, các biến động tài chính thời gian qua đang gây nên một sự hoài nghi sâu
sắc nhất. Cách đây vài hôm, Alan Greenspan, cựu Chủ tịch FED, giải thích: "Tòa
nhà kinh tê của chủ nghĩa tư bản thị trường, cái tòa nhà đã thúc đây sự bành trướng
kinh tế trong thời gian qua giò' đây đang có vấn đề".
Nói một cách khác là: Những chấn động tài chính trong năm qua đã gây nên
một cuộc khủng hoảng lòng tin đối với hệ thống, nó dẫn đến tình trạng thiếu lòng
tin vào hệ thống ngân hàng. Điều này không phải là do một người nào đó nói ra.
Ông Greenspan là một trong nhũng nhân vật nổi tiếng nhất trong những năm gần
đây, một chuyên gia lớn về vấn đề thị trường. Đã có lúc, ông ta gần như là một tín
đồ của thị trường chứng khoán. Bao giờ ông cũng nổi lên như là một trong những

13


người bảo vệ mạnh mè nhất đối với chủ nghĩa tự do mới về kinh tế. Và ông vẫn tiếp
tục bảo vệ nó như vậy. Tuy nhiên, di sản của ông giờ đây đang bị phê phán.
Siêu bons bóng
Bởi vì cần phải tìm kiếm nguồn gốc của con chấn động tài chính hiện nay ớ
cuộc khủng hoảng trước ngày 11-9-2001 và ở tình trạng bong bóng cổ phiếu của các
công ty kỹ thuật cao. FED hồi ấy đã đối phó các vấn đề này bàng biện pháp giảm
mạnh lãi suất xuống tới mức thấp nhất trong lịch sử. Ớ châu Âu, tình hình cùng như
vậy. Biện pháp này đã tạo nên một cuộc "liên hoan": Những người tiêu thụ và các
công ty đua nhau chi tiêu bới vì họ được vay tiền lãi suất rất thấp - và nó tạo ra một
trận "siêu bong bóng" - như định nghĩa của nhà đầu tư kiểu đầu cơ George Soros.
Giá niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỳ và Tây Ban Nha tăng hai lần trong
khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2006; giá nhà đất ớ Mỹ và cả ớ Tây Ban Nha
tăng vọt; lợi nhuận của ngành ngân hàng và các công ty không ngừng tăng lên. Cho
đến khi các khoản cho vay thế chấp - thực ra cũng chỉ như một giọt nước trên đại
dương hệ thống tài chính - đột nhiên làm thay đối tất cả. Theo Greenspan, đó chính

là một thuộc tính trong bản chất con người: "Từ sợ hãi đến cuồng nhiệt - và ngược
lại".
Theo Antonio Vilaroia, làm việc cho công ty Merrill Lynch, mầm mong của
cuộc khủng hoảng tài chính nằm chính ở chỗ đó, "ở chính sách tiền tệ duy trì lãi
suất cực thấp, ở sự lơi lỏng kiểm soát tài chính tạo điều kiện cho sự tích tụ những
rủi ro. Các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu tư rủi ro và các ngân hàng lớn bắt đầu
tiến hành các thủ thuật tài chính - mà một số nhà phân tích gọi là "biến đổi gien"
trên lĩnh vực tài chính - đe không bị lỡ chuyến tàu thu lợi nhuận bạc tỷ.
Những sai lầm tội lỗi của thị trường đã bắt đầu như thế, với sự cho phép của
các ngân hàng trung ương và các nhà quản lý. Các ngân hàng Mỹ bắt đầu cung cấp
ồ ạt những khoản tiền vay thế chấp cho nhừng người không hề có bảo đảm là sẽ thu
hồi được tiền của họ. Đó là nhũng khoản cho vay rác rưởi. Trong khi giá nhà tăng
lên, "mật đầy trong tổ ong", công việc làm ăn vô cùng phát đạt. Phát đạt đến mức
các ngân hàng cần thêm tiền để tiếp tục cho vay tín dụng. Họ gộp các khoản cho
vay thế chấp thành các gói nợ được sự bảo trợ của các thiết chế có uy tín, làm như
thể không hề có những rủi ro đi kèm. Họ rút các khoản nợ này ra khỏi bản quyết

14


toán và phân tán đi khắp nơi, với niềm tin phi lý rằng việc chia nhỏ các khoản nợ ra
cho người khác cùng gánh chịu sẽ có thề tránh được hậu quả nếu như tình hình xấu đi.
Chan đông khủng khiếp
Tình hình đã diễn biến ngược hắn lại. Và chấn động thật khủng khiếp. Khi
nhũng người vay tiền có thế chấp đầu tiên bị siết nhà do không có khả năng thanh
toán nợ, ở Mỳ, giá nhà đất bắt đầu đi xuống. Ong Vilaroia nhận xét: Đó chính là
ngòi nổ. Thông qua hàng chuồi nhừng sản phẩm được cơ cấu liên quan các khoản
cho vay thế chấp, khủng hoảng lan rộng ra toàn bộ hệ thống ngân hàng và nhanh
chóng bao trùm các thị trường tài chính quốc tế. Không ai muốn nắm giữ các cô
phiếu bị ô nhiễm, không ngân hàng nào chịu mua lại những gì mà họ lo ngại sẽ ảnh

hưởng đến họ.
Các ngân hàng trung ương đã phản ứng đê tránh nguy cơ căng thăng trên thị
trường liên ngân hàng có thể trở thành một kênh khuếch đại tình trạng bất ổn. Trên
các thị trường vốn, các ngân hàng siết chặt điều kiện cho vay và người ta phải xem
xét lại triên vọng tăng trưởng, bởi vì thị trường tài chính và nền kinh tế thực vận
hành như những bình thông nhau. Người ta tiếp tục sợ hãi, và đã xảy ra một số cơn
hoảng loạn. Song tình trạng này sẽ không thay đổi chừng nào chưa phục hồi được
niềm tin vào lĩnh vực tài chính - Paul De Grauwe, một trong những chuyên gia lớn
của châu Âu về thị trường tài chính và các ngân hàng trung ương nhận định như
vậy. Trong khi đó, Guillermo Calvo, Giáo sư Trường đại học Colombia (Mỹ) thì
khẳng định rằng, cuộc khủng hoảng hiện nay là phức tạp và người ta chưa nhìn thấy
triển vọng có sự phục hồi. Vai trò của các ngân hàng trung ương là điều đáng tranh
cãi, song Calvo khăng định rằng, việc chính quyền Mỹ ra tay cứu các ngân hàng
như Bear Stearns, Freddie Mac và Fannie Mae đã giúp tránh một sự sụp đổ tài chính
và một sự giảm sút toàn diện GDP và công ăn việc làm, như tình hình đã xảy ra hồi
những năm 1930. Ông nói: vấn đề là biện pháp này có kéo theo những vấn đề rủi ro
về tinh thần (các ngân hàng gánh chịu rủi ro vì biết ràng chính quyền sẽ cứu họ nếu
như tình hình xấu đi). Ông cùng cho ràng, với việc ngăn không cho nền kinh tế
chìm nhanh xuống tới đáy, quá trình phục hồi cùng có thể mất rất nhiều thời gian.
Sè không xảy ra suy thoái sâu sắc, nhưng sự phục hồi sẽ rất chậm chạp.

15


Các chuyên gia thường nói răng, các nhân viên làm việc trên lĩnh vực kinh tê
có trí nhớ rất kém. Họ rất chóng quên những biện pháp cực đoan dẫn đến một cuộc
khủng hoảng. Trong nội bộ các nhà kinh tế, có một sự nhất trí nào đó cho ràng cần
phải rút ra ít nhất hai bài học từ cuộc khủng hoảng hiện nay: Một là, không được
mua cái gì mà anh không biết về nó. Nhà kinh tế Pháp Charles Wyplosz khuyên nhủ
các ngân hàng tư nhân như vậy. Hai là, khu vực tài chính hiện nay đang ở trong tình

trạng quản lý vô cùng lỏng lẻo, và cần phải thay đổi tình hình này - Desmond
Lachman, nhà phân tích chiến lược ở Washington nói như vậy.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn chưa xuống đến đáy. Trong cuộc điều trần
tại quốc hội Mỹ ngày 24.2.2009, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ hy vọng
suy thoái sê chấm dứt vào cuối năm nay, nhưng ông cảnh báo rằng sự phục hồi hoàn
toàn có thế mất hon vài ba năm. Ông gạt bỏ ý nghĩ rằng Chính phủ Hoa Kỳ cần phải
quốc hữu hoá các ngân hàng lớn gặp rắc rối như Citigroup và Bank of America.
Đây là 2 ngân hàng lớn nhất ở Mỹ đã được chính phủ cứu giúp.
Tháng 10.2008 Citigroup đã nhận khoản cứu trợ 25 tỉ USD, một tháng sau lại
phải bom tiếp cho ngân hàng này 20 tỉ USD nữa bên cạnh việc bảo lãnh cho khoản
tài sản cờ 300 tỉ USD trong danh mục đầu tư của nó. Ngoài hai ngân hàng này,
Chính phủ Mỹ đã cúư giúp hãng bảo hiêm AIG, các hãng bảo lãnh tín dụng nhà đât
Fannie Mae và Freddie Mac (thực sự nhà nước đã kiểm soát 2 hãng này), hai công
ty ôtô lớn nhất Hoa Kỳ, v.v...
Năm ngoái, Quốc hội Mỹ đã thông qua gói cún trợ 700 tỉ USD, vừa qua lại
thông qua gói kích thích kinh tế 787 tỉ USD và được tổng thống ký thành luật ngày
17.2.2009.
Ngày 18.2.2008 Đức đã thông qua luật cho phép chính phủ quốc hũu hoá các
tổ chức tài chính ốm yếu nếu cần. Chính phủ Anh đã quốc hữu hoá vài ngân hàng
trong năm 2007 và 2008.
Tất cả các nước đều có những gói cứu trợ, kích thích với tổng giá trị hàng
ngàn tỉ USD ngõ hầu ngăn chặn sự tàn phá thêm của cuộc khủng hoảng hay/và thúc
đấy sự phục hồi kinh tế. Người ta nhắc rất nhiều đến những chính sách theo kiếu
Keynes, nhà kinh tế học Anh đã có công đúc kết nhũng bài học trước đó của chủ nghĩa
tư bản "tự do vô độ" mà nổi bật là của đại suy thoái để cải tổ chủ nghĩa tư bản.

16


Cuộc đại suy thoái 1929-1934 cũng có xuất xứ từ Mỳ. Có nhiều cách

giảivề nhũng nguyên nhân của cuộc đại suy thoái này. Trong nhiều cách




giải, lý giải của nhà kinh tế học Mỳ Irving Fisher, người được Keynes coi là bậc
thầy, gần với lý giải của nhiều người về cuộc khủng hoảng hiện nay. Fisher cho
rằng nhân tố chủ chốt gây ra đại suy thoái là tín dụng dễ dãi dẫn đến sự nợ nần quá
đáng, gây ra nạn đầu cơ và các bong bóng tài sản, và khi bong bóng vỡ dẫn đến tài
sản giảm giá trị, đóng băng tín dụng, ảnh hưởng đến các ngành sản xuất, dẫn đến
giảm phát.
Với các chính sách can thiệp nhiều hơn của nhà nước theo gợi ý của Keynes,
chủ nghĩa tư bản đã có thời kỳ phát triên mạnh mẽ sau Chiến tranh Thế giới II. Từ
các năm 1980 trường phái kinh tế tân tự do chiếm ưu thế và người ta bắt đầu nới
lỏng sự can thiệp của nhà nước: thu hẹp sự điều tiết của nhà nước, mở rộng thị
trường tụ’ do ngay cả cho khu vực tài chính ngân hàng.
qua.

Nen kinh tế thế giới đã có những bước phát triên ngoạn mục trong hơn

20năm

Rồi khủng hoảng tài chính xảy ra tại Mỳ, nhanh chóng lan ra toàn thế

giới và

biến thành khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng hiện thời được cho là mốc đánh
dấu sự chấm dứt của tư tưởng kinh tế tân tự do. Có nhiều nét tương đồng giữa đại
suy thoái và cuộc khủng hoảng hiện thời.
Tuy nhiên, tình hình hiện nay cũng khác xưa khá nhiều: sự hội nhập, kết nổi

giữa các nền kinh tế cao hon, sự phát triển công nghệ cũng giúp đẩy nhanh những
tác động lẫn nhau, các chính phủ can thiệp mạnh hơn và cũng có cơ hội hợp tác,
phối họp nhiều hơn so với 80 năm trước.
Cũng phải nhấn mạnh ràng khủng hoảng, suy thoái, các biện pháp can thiệp ít
hay nhiều đều là những sự tự điều chỉnh của bản thân chủ nghĩa tư bản. Và sau mỗi
lần tự điều chỉnh nó lại có bước phát triên mới, mạnh mẽ hơn.
Các nền kinh tế thị trường với sở hữu tư nhân chủ đạo là đặc trưng cơ bản nhất
của chủ nghĩa tư bản. Không có nền kinh tế thị trường không có sự quản lý hay can
thiệp của nhà nước. Nói cách khác chủ nghĩa tư bản rất "dễ uốn nắn", có năng lực to
lớn đê tụ’ đôi mới.
Và việc quốc hữu hoá một số ngân hàng hay một số doanh nghiệp chỉ là một
trong những biện pháp can thiệp như vậy của nhà nước, chứ hoàn toàn không có

17


nghĩa rằng các nhà nước nước này đi theo công thức cứng nhắc của ai đó hay đi
theo con đường "xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21”!
Thực ra, Thụy Điển là nước đã nêu gương tốt về việc quốc hữu hoá một số
ngân hàng lớn yếu kém khi khủng hoảng xảy ra đầu các năm 1990. Khi đó các ngân
hàng lớn ớ Thụy Điên thực sự đã phá sản và chính phủ trung hữu (chứ không phải
chính phủ cánh tả có thiên hướng xã hội) đã quốc hữu hoá chúng, vực chúng dậy và
sau đó lại thoái các khoản đầu tư của nhà nước bằng cách bán cổ phần của mình cho
các nhà đầu tư tư nhân khi ngân hàng đã lành mạnh trở lại. Nói cách khác quốc hữu
hoá chỉ là quốc hữu hoá "tạm thời". Mục tiêu tối thượng là cải tổ hệ thống và bảo vệ
tiền của dân chúng đóng thuế. Các cố đông cũ, các nhà điều hành cũ của ngân hàng
này phải trả giá cho những yếu kém của họ. Thế mới công bàng.
Các nước EU chắc đã học được kinh nghiệm Thụy Điển dễ dàng hơn. Nhiều
học giả và thậm chí các "nhà đầu cơ" tại Mỳ, như Soros, cũng khuyên chính phủ Mỳ
học cách làm của Thụy Điển. Và thực ra, chính phủ Mỹ cũng đã nghe theo một

phần. Từ chính sách mua lại các tài sản xấu của ngân hàng họ đã chuyển dần sang
"góp vốn" cho các ngân hàng này. Nói cách khác họ đã hầu như "quốc hừu hoá"
chúng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh cụ thê của Mỹ họ vẫn e ngại nói trực tiếp đến
"quốc hữu hoá".
Tóm lại, việc "quốc hữu hoá" chỉ là quốc hữu hoá tạm thời, là một trong nhiều
biện pháp can thiệp của nhà nước trong khuôn khổ nền kinh tế thị trường hiện đại.
Không hề có chuyện các nước này đi theo con đường "xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21".

18


KẾT LUẬN
Hơn năm thế kỷ phát triền, chủ nghĩa tư bản luôn luôn phải đương đầu với
khủng hoảng, xung đột đe dọa chính bản thân sự tồn tại của nó. Ớ giai đoạn phát
triển nào chủ nghĩa tư bản cũng mang theo nhũng mâu thuẫn nội tại hết sức sâu sắc.
Tư bản tài chính với vai trò là một trong những nét biêu hiện mới của chủ nghĩa tư
bản hiện đại cũng đang mang trong mình căn bệnh mà ai cũng thấy - căn bệnh
khủng hoảng. Và hậu quả của nó đang trở thành nỗi lo lắng chung của toàn thế giới
khi mà tốc độ phát triển kinh tế của thế giới giảm sút, sự sụp đổ hàng loạt của các
Ngân hàng Mỹ kéo theo sự sụp đổ không chỉ của thị trường chúng khoán Mỹ nói
riêng mà còn của thị trường chứng khoán trên toàn thế giới nói chung. Chưa bao giờ
thế giới phải đối mặt cùng lúc với khủng hoảng tài chính trầm trọng như thế này.
Theo nhận định của nhà nghiên cún Age Bakker ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cuộc
khủng hoảng hiện nay đã làm bộc lộ rõ hơn bao giờ hết những sự mù mờ trên thị
trường tài chính ở nhiều quốc gia và trên quy mô toàn cầu nói chung. Các sản phẩm
tài chính hiện nay đã trở nên cực kỳ phức tạp, vừa tạo nên những cơ hội lớn nhưng
cũng gây ra những nguy cơ lớn mà khó ai có thê nắm bắt được hết. Trong khi đó, sự
kiểm soát của các nhà nước đối với các thị trường tài chính không đầy đủ dẫn tới
nhiều hoạt động tự tung tự tác đầy tính tư lợi và bất minh hoành hành trong những
khoảng thời gian không ngắn. Rốt cuộc là các yếu kém trong thanh toán tài chính đã

dẫn tới sự đổ vờ của các định chế tài chính ở một loạt quốc gia.
Phải chăng chủ nghĩa tư bản đã kết thúc sứ mệnh?
Có một số học giả cho rằng chủ nghĩa tư bản đang có xu hướng vượt ra ngoài
mọi sự kiểm soát với những rủi ro và nguy hiểm có quy mô thế giới. Nhưng, với tư
cách một hệ tư tưởng, chủ nghĩa tư bản vẫn quan quanh với niềm tin như là một thứ
tôn giáo chính thống. Chi ôn định về tài chính và tiền tệ không thôi sẽ khó lòng ôn
định cả thế giới. Và một khi hạ tầng kinh tế đã đổi thay thì thượng tầng kiến trúc
cũng phải phù hợp. Lịch sử diễn tiến còn dài dài nhưng đã có đầy đủ “chất liệu” của
một thế giới giao thời.

19



×