Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

NHÌN NHẬN ĐÚNG VỀ TỤC LỆ ĐỐT VÀNG MÃ CỦA NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.73 MB, 102 trang )

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

-----------------------------

NHÌN NHẬN ĐÚNG
VỀ TỤC LỆ ĐỐT VÀNG MÃ
CỦA NGƯỜI VIỆT
CÓ PHẢI LÀ TỤC LỆ NỘI SINH ?
CÓ ĐÚNG VỚI GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT ?
CÓ LỢI LẠC CHO NGƯỜI VIỆT ?
CÓ LỢI LẠC CHO CÁC HƯƠNG LINH?

Hà Nội 2013 - PL.2557


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Gia đình Phật tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn
-----------------------

NHÌN NHẬN ĐÚNG
VỀ TỤC LỆ ĐỐT VÀNG MÃ
CỦA NGƯỜI VIỆT
CÓ PHẢI LÀ TỤC LỆ NỘI SINH ?
CÓ ĐÚNG VỚI GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT ?
CÓ LỢI LẠC CHO NGƯỜI VIỆT?
CÓ LỢI LẠC CHO CÁC HƯƠNG LINH ?

Hà Nội 2013/PL2557
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn



Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

LỜI TỰA
Nam Mô Thường Trụ Tam Bảo Mười Phương Chư Phật
Nam Mô Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, Hộ Pháp
Thiên Thần, Thiên Long Bát Bộ
Nam Mô Đức Tỳ Lô Giá Na Phật
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Vương Quang Phật
Nam Mô Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Hùng Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Bồ Tát
Nam Mô Kim Cương Thượng Sư Liên Hoa Sinh
Nam Mô Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông
ục lệ đốt vàng mã trong thực tế đã ăn sâu vào trong

T

tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Với những ai
chưa dành thời gian tìm hiểu về tục lệ này thì sẽ nghĩ

rằng đó là tục lệ nội sinh của người Việt nhưng trong thực tế
thì hoàn toàn trái ngược. Trong hơn 1000 năm dưới ách đô hộ
của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta đã chịu ảnh hưởng

của nền văn hóa nô dịch. Một số phong tục, tập quán của
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

3


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

chúng đã thâm nhập vào nước ta bất luận đó là tà chính, phải
trái, hay dở. Tục lệ đốt vàng mã là một ví dụ điển hình, nó đã
và đang trở thành một vấn nạn, một căn bệnh trầm trọng của
văn hóa tâm linh người Việt.
Truyền thống quý báu của dân tộc Việt là uống nước nhớ
nguồn, luôn luôn tưởng nhớ và thành kính với Ông bà Tổ tiên.
Dân gian có câu: “Sống vì mồ vì mả chứ không ai sống vì cả
bát cơm” một phần nào đó cho chúng ta thấy sự coi trọng về
tâm linh cũng như tầm quan trọng của việc chăm sóc tới
những người thân đã mất. Việc đốt vàng mã đã là một trong
những cách để người Việt thể hiện tấm lòng của mình với
người đã khuất do ảnh hưởng sâu đậm của quan niệm bắt
nguồn từ Trung Quốc là “Trần sao Âm vậy”.
Khi đốt vàng mã người sống cảm thấy an lòng, cảm thấy
mình đã làm được điều gì đó để thể hiện tấm lòng thành kính,
thể hiện sự quan tâm biết ơn tới Tổ tiên, tới các Đấng linh
thiêng hay vì đã có thể thực hiện một việc nào đó mà bản thân
đã không làm được cho người mất khi họ còn sống.
Khi tìm hiểu một cách kĩ lưỡng giáo lý tuyệt đối và quý báu
của đức Phật - bậc chính đẳng chính giác - để lại, chúng ta sẽ
thấy rằng khi nhắm mắt xuôi tay, khi về với Ông bà Tổ tiên, khi
về với đất thì chỉ có cái nghiệp sẽ đi theo chúng ta mà thôi.

Còn tiền tài, địa vị danh vọng, nhà cao, cửa rộng, vợ đẹp con

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

4


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

sang, cơm ngon áo đẹp tất cả sẽ chấm hết. Do đó mới có câu
thơ rằng:
“Ta đi với nghiệp của ta,
Dù cho tốt xấu tạo ra tự mình
Theo ta như bóng với hình
Ta thọ quả báo, phân minh kiết tường”
Một số các hương linh do lúc còn sống cũng như sau khi
mất không có điều kiện tìm hiểu, thọ nhận giáo lý của đức
Phật. Cái tham, cái sân, cái si cũng như bản ngã của họ còn
bám chấp nhiều vào tình cảm cũng như vào đời sống vật chất
của người dương nên họ khó siêu thoát. Họ tồn tại trong cõi
thân trung ấm với nỗi khổ niềm đau vì phải xa lìa người thân,
xa lìa những của cải vật chất thuộc sở hữu của mình. Trong
Kinh Địa Tạng đức Phật đã nói rõ những nỗi đau khổ cùng cực
mà các hương linh phải thọ nhận.
Do đó, khi người nhà triệu thỉnh hương linh lên, họ sẽ đòi
hỏi được đốt cái này hay cái kia để thỏa mãn lòng tham sân si
cá nhân nhưng trong thực tế họ không thể hưởng thụ được vì
còn đâu thân xác. Chẳng qua họ muốn người nhà đốt vàng mã
vì muốn nhận được sự quan tâm cũng như để họ cảm thấy an
lòng vì người thân đã không quên họ.

Việc đốt vàng mã và cúng kiếng linh đình sẽ làm hương
linh càng bám chấp vào cõi trần, quyến luyến cuộc sống trước
đây và hương linh không thể siêu thoát lên một cảnh giới cao
hơn (cảnh giới an lành an lạc hơn). Hương linh khi nhìn thấy
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

5


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

quần áo nhưng không mặc được, khi nhìn thấy mâm cao cỗ
đầy nhưng không thưởng thức được nỗi khổ niềm đau lại
dâng trào.
Trong thực tế, chúng ta thường rải vàng làm lễ cho người
thân đã mất khi xe tang đi trên đường hay đốt vàng, đồ mã
cho các hương linh vào dịp giỗ tết, rằm tháng bẩy. Một câu hỏi
được đặt ra phải chăng cuộc sống của người âm hoàn toàn
phụ thuộc vào người dương ?.
Có người khi sống thì rất nghèo, không được đối xử tử tế
mà khi chết đi thì được người thân đốt cúng cho nào nhà lầu,
xe hơi, điện thoại đắt tiền, thậm chí cả vợ đẹp … thật vô lý vì
nếu thực tế hương linh nhận được như vậy thì có lẽ chết đi sẽ
sung sướng hơn gấp vạn lần khi sống. Hơn nữa những quốc
gia, dân tộc không có tục lễ đốt vàng mã cho người đã mất thì
không hiểu những người đã mất họ sẽ mặc gì và có tiền vàng
để tiêu không ?
Trong thực tế để thể hiện tấm lòng với người đã khuất một
cách có ý nghĩa thì công việc mà người sống nên làm đó chính
là cần nương tựa vào Tam Bảo để giáo hóa cho các hương

linh, để họ giác ngộ, họ hiểu ra đâu là con đường mình cần
phải đi, đâu là con đường thoát khỏi khổ đau và đâu là điểm
tựa mà họ cần phải có, chứ không phải mãi bám chấp vào
những vật chất phù du của cõi trần.
Ngoài ra người sống cần phải tạo tác các công đức (cúng
dường Tam Bảo, giúp đỡ người nghèo khó, phóng sinh cứu
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

6


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

vật, hành thiện, ăn chay, tụng kinh niệm Phật …) rồi hồi hướng
công đức đó cho các hương linh. Chỉ có công đức, phúc đức
đó mới có thể giúp cho các hương linh trong việc thoát khỏi
khổ đau ở cõi thân trung ấm, cũng như ở các cõi xấu khác.
Còn việc đốt vàng mã đã và đang làm lãng phí rất nhiều
của cải của xã hội. Nó cổ súy cho vấn nạn mê tín dị đoan, tiếp
tay cho việc hủy hoại môi trường thiên nhiên, thậm chí đã và
đang gây ra nhiều tai họa cho bản thân người đốt vàng mã
hay xã hội bởi nguy cơ cháy nổ rất cao.
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn Hóa Thông Tin, mỗi
năm người Việt Nam dâng cúng cho thế giới tâm linh trung
bình 50.000 tấn vàng mã và lượng vàng mã mà người dân Hà
Nội đốt hàng năm có giá trị khoảng 400 tỷ đồng tiền thật.
Riêng ở đền Bà Chúa Kho Bắc Ninh lượng vàng mã đem hóa
mỗi ngày lên tới hàng tạ trị giá cả trăm triệu đồng.
Còn ở phủ Tây Hồ vào những ngày rằm, ngày lễ tết, số
lượng khách hành lễ trung bình từ 500 đến 800 người. Chúng

ta làm một phép tính đơn giản: Nếu mỗi người bỏ ra 15.000
VND cho vàng mã thì sẽ có khoảng gần 10.000 triệu đồng tiền
mặt bị lãng phí mỗi ngày. Số tiền sẽ là không đếm được nếu
chúng ta tính đến việc đốt vàng mã tại các gia đình hay tại
những đình, đền, miếu mạo khác trong lãnh thổ Việt Nam vào
những dịp đó.
Hãy hình dung xem nếu số tiền phí phạm cho việc đốt
vàng mã đó, chúng ta dành cho việc xây dựng trường học,
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

7


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

bệnh viện, trạm y tế cho đồng bào dân tộc vùng xâu, vùng xa,
giúp đỡ những gia đình thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những bà
mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ những người nghèo khó, giúp
đỡ những đứa trẻ mồ côi hay những người bệnh tật thì chúng
ta đã làm được những công đức vô lượng nhằm tích lũy phúc
đức cho chính bản thân, cho gia đình, cho dòng tộc hay góp
phần làm cho xã hội hạnh phúc lên rất nhiều vì có nhiều người
bớt đi được nỗi khổ.
Trong thực tế nguyên vật liệu cũng như quy trình sản xuất
đồ vàng mã hoàn toàn không thanh tịnh và sạch sẽ. Chẳng
nhẽ chúng ta lại đem dâng cúng những thứ bất tịnh đó tới các
Đấng linh thiêng, tới Ông bà Tổ tiên.
Đức Phật như chúng ta đã biết Ngài từ bỏ lầu son, gác tía,
cung vàng điện ngọc để tìm ra con đường giải thoát chúng
sinh khỏi khổ đau, Ngài đâu cần những thứ vàng mã trần tục

đó.
Nhiều kẻ buôn Thần bán Thánh hay những kẻ hoang
tưởng cho rằng mình có căn của Thánh này, Hoàng nọ lợi
dụng sự thiếu hiểu biết về tâm linh hay sự mê muội của những
người khác để vụ lợi cá nhân bằng cách dọa nạt: Thánh trách
mắng vì thiếu lễ, thiếu vàng mã, cần phải làm lễ đốt vàng, đốt
mã nếu không sẽ bị vật chết …
Ta có thể thấy rõ trong những buổi trình đồng mở phủ, hầu
đồng hay giải hạn, trả nợ Tào quan hiện nay, có những người

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

8


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

mê muội đã thiêu hủy hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu
đồng cho tiền vàng, hình nhân, voi, ngựa, rắn…

Tiền thật được đốt gián tiếp qua ngựa, voi, hình nhân giấy
Các bậc được nhân dân tôn làm Thánh Linh Đất Việt từ
Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Gióng, Đức Thánh
Trần, Đức Thánh Chử Đồng Tử, Đức Tản Viên Sơn Thánh …
các Chầu, các Chúa , Ngũ Vị Tôn Quan… cho tới Quan Hoàng
Bơ, Quan Hoàng Bẩy, Quan Hoàng Mười, Cô Bơ, Cô Chín …
hay Công đồng các Giá, Hội đồng các Quan mười tám cửa
ngàn mười hai cửa bể … ta cần phải biết rõ rằng các Ngài
không phải là ai xa lạ mà chính là Nguồn cội, là Tổ tiên, là Ông
bà, Cha Mẹ của chúng ta.

Theo tài liệu nghiên cứu của GS.TS Ngô Đức Thịnh:
Một hiện thân của Thánh Mẫu tối cao là Liễu Hạnh Thánh Mẫu
(Tiên Thiên Thánh Mẫu) là con người tuy gốc từ cõi tiên trên
thiên đình, nhưng đã đầu thai thành người trần, có đời sống
bình thường như mọi người, có chồng, có con, đã từng giao
du với nhiều danh nhân thiên hạ. Tài năng và công đức của
Liễu Hạnh Thánh Mẫu đã được nhân dân ca ngợi, truyền tụng
bao đời. Còn Mẹ Âu Cơ được xem là Mẫu Thượng Ngàn.

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Trong hàng ngũ vị Quan Lớn, theo quan niệm của dân
gian nhiều vị Thánh đã từng là các nhân vật lịch sử. Quan
Tam Phủ gốc là một võ tướng thời Hùng Vương, Quan lớn
Tuần Tranh hay Quan Đệ Ngũ là tướng Cao Lỗ, một danh
tướng thời An Dương Vương hay có nơi lại coi ông là một võ
tướng thời Trần.
Quan Đệ Nhị tương truyền là tướng Lê Sát đã từng chém
đầu Liễu Thăng. Danh tướng Trần Hưng Đạo (đức Thánh
Trần) và các bộ tướng của ông như Phạm Ngũ Lão, Trần
Quang Khải… cũng được tích hợp vào điện thần Tứ Phủ.
Trong hàng Chúa, Chầu Bà, nhiều vị thần linh cũng là
những nhân vật có công với nước với dân :
Chầu Lục tương truyền là con gái của đức Tản Viên Sơn
Thánh, đã từng báo mộng cho vua Lê Lợi vượt qua cạm bẫy
của quân Minh, bảo toàn lực lượng để kháng chiến tới thắng
lợi. Chầu Mười là người Thổ là vị tướng cầm quân đánh tan

cánh quân Liễu Thăng tại ải Chi Lăng và sau đó trấn giữ của
ải đông bắc của Đại Việt.
Chúa Thác Bờ tương truyền là mẹ nuôi của vua Lê Lợi.
Chầu Đệ Tứ vốn là vợ vị tướng cầm quân đi đánh giặc, ở nhà
bà đã đem của cải ban phát cho dân nghèo. Chầu Đệ Ngũ là
công chúa nhà Lý đã bỏ hoàng cung đi tu, Chầu Bát Nàn là bộ
tướng của Hai Bà Trưng… Các vị Thánh hàng các ông Hoàng,
nhiều ông cũng là những danh tướng có công diệt giặc, giữ

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

10


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

gìn biên cương, khai phá đất đai, mang lại lợi ích cho dân cho
nước :
Ông Hoàng Đệ Nhất là danh tướng dưới thời vua Lê Lợi.
Ông Hoàng Đôi là người Dao đã từng cầm quân bảo vệ dân ở
vùng Cẩm Phả hay là Quan Triệu Tường người có công khai
phá vùng đất Thanh Hóa, nay được nhân dân địa phương tôn
thờ.
Ông Hoàng Bơ (Ba) được xem là trạng nguyên Phùng
Khắc Khoan. Ông Hoàng Lục tức tướng Trần Lưu góp công
đánh giặc Minh. Ông Hoàng Bẩy là quan triều đình chấn giữ
vùng Lào Cai, Yên Bái. Ông Hoàng Mười là quan văn thời Lê,
người gốc Nghệ An … Ngoài ra một số vị thần linh hàng Cô và
hàng Cậu cũng đều được gắn với các nhân vật và sự kiện lịch
sử của nước Việt.

Các Ngài là những người đã hi sinh tính mạng, hi sinh cả
cuộc đời vì nền độc lập của dân tộc, vì sự tồn tại và phát triển
của nòi giống Tiên Rồng. Các Ngài sống làm tướng, chết vị
thần để tiếp tục cứu giúp con cháu thì không có lý do gì để các
Ngài còn cái tâm tham tiếc của người đời và cần những thứ
vàng mã hay đồ cúng rẻ tiền, bất tịnh của trần gian. Các Ngài
chỉ cần cái Tâm Thành và mong con cháu của mình có trí tuệ,
luôn được hạnh phúc bình an, sống hiếu thảo, thuận hòa,
sống tuân theo kỷ cương pháp luật và luân thường đạo lý.

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

11


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Do đó, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu và nhận thức rõ :
- Tổ tiên nào, Ông bà nào lại đi hại con cháu mình, bắt
con cháu mình phải gồng mình đi vay mượn để làm lễ
trình đồng, mở phủ, phạt con cháu mình chỉ vì hoàn
cảnh khó khăn mà không có đủ lễ vật, chỉ vì nghèo
mà không đốt đủ vàng mã dâng cúng. Hãy thức tỉnh
và hiểu rằng chính những kẻ buôn thần bán thánh,
những kẻ hoang tưởng vì tự lợi thấp hèn đã biến Ông
bà Tổ tiên mình thành những con ngáo ộp đáng sợ.
- Tổ tiên nào, Ông bà nào lại vui mừng khi nhìn con
cháu tàn phá thiên nhiên đất nước làm lễ vật tỏ lòng
thành kính với mình.
- Tổ tiên nào vui mừng khi thấy con cháu lãng phí tiền

bạc trong khi còn nhiều người Việt Nam khác đang
nghèo đói, khổ đau, thiếu thốn cái ăn cái mặc.
- Tổ tiên nào vui khi thấy con cháu dâng cúng mình
những đồ vật bất tịnh và áp đặt cho mình phải tiêu
tiền ngoại quốc như tiền Đô La giả, tiền Euro giả.
- Tổ tiên nào vui khi thấy con cháu dâng cúng mình với
những lời xin xỏ vô lý, thậm chí trái đạo lý và mang
đậm tính chất đút lót, trao đổi có điều kiện.
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Đạo Phật khi du nhập vào bất kỳ một đất nước nào luôn
dung hòa với văn hóa bản địa mà không hề gây những cuộc
chiến về tôn giáo do bản chất đại từ đại bi. Chính vì vậy, đạo
Phật nói chung và đạo Phật Việt Nam nói riêng cũng đã và
đang bị pha trộn những hình thức mê tín dị đoan của dân gian,
hình thức mê tín dị đoan của những tín ngưỡng, tôn giáo khác.
Hiện nay tại nhiều ngôi chùa vẫn cho phép việc đốt vàng
đốt mã, thậm chí là đốt hoành tráng vì có những lễ trình đồng,
hầu đồng lai tạp không đúng với ý nghĩa nguyên bản và vì có
những lễ dâng sao giải hạn, những lễ trả nợ Tào quan phi lý.
Đạo Phật đang bị đánh đồng với nhiều thứ tà kiến khác.
Thầy đồng, thầy cúng, thầy pháp, thầy bùa… khi làm gì cho dù
mục đích sai với chính Pháp của đức Phật đều bắt đầu bằng
tiếng Nam Mô A Di Đà Phật. Thiết nghĩ đã đến lúc cần lấy lại
sự trang nghiêm thanh tịnh vốn có của đạo Phật, cũng như
cần nghiêm túc thực hành chánh Pháp của đức Phật.
Hiện nay có nhiều người cho rằng đạo Phật là đạo ngoại

nhập không phải đạo nội sinh còn việc đốt vàng mã vốn là
truyền thống lâu đời và là nét đẹp của văn hóa người Việt nên
cần phải giữ gìn bản sắc. Đó thực sự là một nhận định không
chính xác. Có thể chỉ vì không biết rõ nguồn gốc nên cứ theo
tục “trước làm sao, nay làm vậy”. Sau khi tìm hiểu nguồn gốc
của nó ta thấy rõ hiện nay tục lệ đó là một tục lệ không mang
lại lợi lạc cho các hương linh và gây lãng phí, cần phải dần
được giảm thiểu trong đời sống tâm linh của người Việt.
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

13


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt
.

Thực tế, một nước nhỏ luôn chịu những ảnh hưởng văn

hóa từ các nước lớn, tuy nhiên chúng ta cần phải biết chọn lọc
lấy những cái hay, cái có ích, đồng thời với tinh thần hòa nhập
chứ không hòa tan. Đã là người Phật tử chúng ta cần phải tìm
hiểu giáo lý của đức Phật một cách sâu sắc và không khoan
nhượng hay dung túng những hủ tục đặc biệt là tục lệ đốt
vàng mã một cách thái quá.
Tuy nhiên có người sẽ cho rằng: Tiền của họ là do họ
kiếm ra, vì vậy họ có thể tùy tâm tùy ý mà đốt vàng mã để
dâng cúng và theo họ nếu không đốt vàng mã nữa thì những
người làm vãng mã sẽ thất nghiệp. Đây là những quan điểm
nếu nghe không thì có vẻ hợp lý.
Bởi vì đúng là tiền của họ kiếm được thì họ có thể tùy ý sử

dụng. Nhưng liệu họ có biết rằng, do đâu mà họ có được sự
no đủ ấy ? Có phải nhờ hồng phúc của Tổ tiên hay không ? Có
phải là nhờ các bậc tiền nhân đi trước đã xả thân để họ có
được sự no đủ trong bình yên như ngày nay? hay họ luôn cho
rằng tiền mà họ có được là do sự thông minh của mình.
Việc giảm thiểu và tiến tới không đốt vàng mã cũng sẽ
giống như việc cấm đốt pháo hay việc cấm quảng cáo cho
thuốc lá. Chúng ta cần cân nhắc giữa cái lợi và cái hại. Nếu đi
tìm hiểu số liệu thống kê về những thiệt hại trực tiếp hay gián
tiếp của việc đốt vàng mã (tài nguyên rừng bị hủy hoại, những
vụ cháy rừng, cháy nhà, chết người do đốt vàng mã, thất thoát
ngoại tệ…) chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ hiểu vì sao nên hạn chế
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

14


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

đốt vàng mã. Trong thực tế, khi giảm đốt vàng mã, những
người sản xuất vàng mã họ sẽ chuyển sang làm việc trong
những ngành nghề khác cũng giống như những người làm
nghề pháo nổ đã từng làm.
Tôi tin rằng những người có lập luận ủng hộ cho việc đốt
vàng mã sẽ thay đổi suy nghĩ và thay đổi hành động sau khi
đọc những luận điểm đã được phân tích ở phía trên cũng như
sau khi đi tìm hiểu nội dung những bài viết và phóng sự được
trích dẫn trong phần sau của cuốn sách này.
Xin được trích bài kệ của Cố Đại lão Hoà Thượng Thích
Trí Hải (1906-1979) - bậc danh tăng trong lịch sử Phật giáo

Việt Nam viết nhằm châm biếm nạn đốt vàng mã.
Chị tin vàng mã được sao?
Áo kia quần nọ mặc vào hở thân
Hia hài ai xỏ vừa chân
Mũ vuông đồ sộ ai khuân lên đầu
Ngựa bằng chú chó gâu gâu
Voi to rỗng ruột bôi màu nhọ nhem
Lính thì nhỏ quá trẻ em
Vàng thoi là nứa, bạc tiền cát-tông.
Việc đốt mã ví thành công,
Dưới âm người vật ai ko phì cười
Xin đừng mê tín chị ơi…

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

15


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Vẫn luôn biết rằng bỏ một tục lệ lâu đời đã ăn sâu, bén rễ
vào tâm thức của người Việt là không hề dễ. Vì thế, đầu tiên
từ đốt nhiều, đốt lãng phí chúng ta giảm xuống đốt ít, đốt
mang tính chất tượng trưng. Rồi từ đốt ít giảm dần xuống đốt
ít hơn nữa và tiến tới chấm dứt hẳn việc đốt vàng mã. Song
song với việc giảm đó hãy thay đồ vàng mã bằng những thứ
có thật (tiền thật, quần áo thật, hoa quả …). Với những thứ có
thật đó chúng ta có thể tái sử dụng tránh lãng phí cũng như
chia sẻ với những người khác. Và chúng ta cũng cần phải biết
rằng việc đốt vàng mã tại nơi tổ chức lễ hội, tại nơi di tích lịch

sử - văn hóa hay tại nơi công cộng khác là vi phạm pháp luật.
Với tâm niệm mong muốn người Việt Nam chúng ta có
một cái nhìn đúng đắn và sáng suốt hơn đối với tục lệ đốt
vàng mã đã tồn tại từ lâu đời, cũng như muốn rằng mỗi người
Việt Nam sẽ tìm ra cho mình một cách thể hiện sự biết ơn và
lòng thành kính tới các Đấng linh thiêng cũng như tới Ông bà
Tổ tiên trong chính niệm. Gia đình Phật tử (GĐPT) chúng tôi
xin gửi đến quý vị cuốn sách:
“Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt”
Cuốn sách là tập hợp có chọn lọc những bài viết, bài
pháp thoại và phóng sự quý báu từ thập niên 30 cho tới ngày
nay, cụ thể như sau :
- Bài viết của Hòa Thượng Thích Tố Liên vào năm 1952
về nguồn gốc của tục lệ đốt vàng mã.

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

16


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

- Trích ‘‘Khai Thị’’ quyển 2 của Hòa Thượng Tuyên Hóa
nói về bài trừ sắc thái mê tín.
- Trích bài giảng pháp ‘‘Nghiệp và Luân Hồi’’ ngày
22/10/2006 tại chùa Ấn Quang của Đại Đức Thích Nhật
Từ - trụ trì chùa Giác Ngộ.
- Bài viết: ‘‘Bàn về đồ mã’’(Những điều thiệt hại cho nước
Việt, cho dân Việt khi đốt vàng mã) của Báo “Đuốc Tuệ” cơ quan Hoằng Pháp của Hội Phật giáo Bắc Kỳ, trụ sở
đặt tại chùa Quán Sứ. Số đầu tiên ra ngày 10-12-1935.

(nguồn Internet)
- Bài phóng vấn của ông Ngô Lê Lợi với Tiến sỹ Vũ Thế
Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ
Tin học Ứng dụng UIA về việc "người âm" có nhận được
đồ vàng mã hay không?.
- Bài phóng vấn của phóng viên Cao Hồng với Giáo sư,
Tiến sỹ Trần Lâm Biền. Ông là một trong những nhà
nghiên cứu văn hóa Việt Nam, với các công trình nghiên
cứu về văn hóa dân gian, tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam.
- Bài phóng vấn Giáo sư, Tiến sỹ Ngô Đức Thịnh nguyên
là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, nay
là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn hoá
Tín ngưỡng Việt Nam, là Uỷ viên Hội đồng Di sản Văn
hóa Quốc gia và Phó Chủ tịch Hội đồng Folklore châu Á.

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

17


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

- Trích bài phỏng vấn của phóng viên Hoàng Anh Sướng
với nhà Ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng về tục lệ đốt
vàng mã.
- Trích bài Pháp thoại của Nhà Ngoại cảm Nguyễn Văn
Nhã tại chùa Diên Quang ngày 10/10/2010 về tục lệ đốt
vàng mã.
- Phóng sự của phóng viên Quách Dương về: Ngôi làng
'bỗng dưng' bỏ đốt vàng mã từ năm 1945.

- Phóng sự của phóng viên Ngân Anh về: Ngôi chùa
không đốt vàng mã trong suốt 12 năm liền để có trên 06
tỷ đồng thực hiện các hoạt động từ thiện.
- Những vụ đốt mã khủng và những ví dụ thực tế thể hiện
sự mê muội và lãng phí tột độ. (nguồn Internet)
- Thống kê những thiệt hại do nguyên nhân đốt vàng mã 5
tháng đầu năm 2013. (nguồn Internet)
- Trích Nghị định 75/2010/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/09/2010 về mức phạt tiền đối với
hành động đốt vàng mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch
sử - văn hóa, nơi công cộng khác cũng như mức phạt đối
với các hoạt động truyền bá tư tưởng mê tín dị đoan.
Kính xin tác giả của các bài viết, các phóng sự nêu trên
cho phép Gia đình Phật tử chúng tôi được trích dẫn vì sự lợi
lạc cho nước Việt, cho cộng đồng người Việt.

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

18


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Trong quá trình biên soạn cuốn sách này, mặc dù Gia đình
Phật tử chúng tôi đã có nhiều cố gắng nhưng khó có thể tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong quý vị đọc giả hoan hỷ đón
nhận và đóng góp ý kiến.
Trong thực tế, việc hoằng dương Phật Pháp luôn có
những ảnh hưởng vô cùng tích cực và sâu rộng trên mọi lĩnh
vực của từng quốc gia, từng dân tộc, từng địa phương, từng

xóm làng thôn bản, từng gia đình, từng cá nhân mỗi một con
người. Nó không chỉ là việc riêng của một ai mà cần sự chung
tay góp sức của tất cả chúng ta.
Hãy bớt đi một chai bia, một chai rượu, một bao thuốc …
dùng số tiền nhỏ đó để nhân tài liệu này thành 3 bản và gửi
đến bè bạn, đồng nghiệp hay những người thân yêu của mình.
“Chúng con kính xin Chư vị được hồi hướng công đức
nhỏ bé này tới khắp các đệ tử, tới khắp các chúng sinh vì
mọi lý do chưa được vãng sinh, nguyện cầu tất cả đều
trọn thành Phật đạo”
Gia Đình Phật tử Tâm Pháp Tuệ
(Phật tử: Tâm Pháp Viên, Tín Tâm Trí, Tâm Pháp Tuệ, Diệu
Hương, Tín Tâm Trân, Tâm Pháp Quang)

Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Hòa Thượng Thích Tố Liên

Hoà Thượng Thích Tố Liên (1903-1977) là một tu
sĩ Phật giáo Việt Nam, ông là người có nhiều công lao
trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đưa Phật giáo
Việt Nam hòa nhập với Phật giáo Thế giới.
Sau ngày cách mạng tháng 8 thành công, ông chủ
trương Thống nhất Phật giáo, Đoàn kết Tăng già và kết
quả là Giáo hội Tăng già Bắc Việt ra đời do ông làm
chủ tịch, và đồng thời là Phó Hội trưởng Hội Phật giáo
Việt Nam.

Trong thời kỳ 1945-1954, ông là trụ trì tại chùa
Quán Sứ, chủ nhiệm và là chủ bút tờ nguyệt san
Phương Tiện.
Tháng 5 năm 1950, ông đại diện cho Phật giáo Việt
Nam đi dự hội nghị thành lập Hội Phật giáo Thế
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Giới tại Srilanka và đưa Phật giáo Việt Nam vào tư
cách là sáng lập viên.
Năm 1951, ông là sáng lập viên cũng như Tổng thư
ký của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức thống
nhất Phật giáo toàn quốc, gồm cả Tăng già và Cư sĩ ở
cả ba miền Bắc, Trung và Nam Việt Nam, tiền thân
của Giáo hội Phật giáo thống nhất Việt Nam sau này.
NGUYÊN NHÂN TỤC LỆ ĐỐT VÀNG MÃ 1952
Phàm ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới
có kết quả, dưới đây sẽ biện bạch rõ cái nguyên nhân
của tục lệ đốt vàng mã.
Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: Tục
chôn người chết của nước Tầu về đời thượng cổ, một
khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan
không ván, lại cũng không khanh phần mộ chi cả.
Đến đời vua Hoàng Đế (2679 trước Tây lịch) cho
rằng: Con cháu đối với Ông bà, Cha mẹ trong việc mai
táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông
Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải
qua đời Hoàng Đế đến đời nhà Ngu, cái lệ tục chôn cất

người chết chỉ có thế thôi.
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

21


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 trước Tây lịch), người
Tầu mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng
tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v...
để đem theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là
minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem
chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ
nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy.
Rồi đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất phải có
người hầu hạ người chết, người ta mới lại chế ra người
bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo với người chết. Đến
đời nhà Ân (1765 trước Tây lịch), lại không dùng mâm
bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người
chết nữa. Thay vào cái đồ tế khí, dùng toàn đồ thật
chôn theo.
Đời nhà Chu (1122 trước Tây lịch), người Tàu đã
bắt đầu văn minh. Cố nhiên lễ nhạc đối với người chết
cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, giữa người chết với
người chết đã được người sống phân ra giai cấp sang,
hèn trong việc lễ nghi chôn cất.
Số là từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ
được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn


22


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

theo lệ nhà Ân để đem theo các vua chúa đã chết. Còn
từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn
theo độc một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà
dùng nghi lễ ngang với người sang tức khắc phải tội “
Tiếm lễ”.
Không những thế mà thôi, dã man nhất, độc ác nhất
là người ta còn bịa đặt ra những TUẪN TÁNG, nghĩa là
khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ
hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý khi còn sống,
sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết.
Việc này chúng ta được thấy sự thật đã chép ở
sách TẢ TRUYỆN rằng: “ Đời vua Văn Công thứ 6, vua
Tần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ
xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn
sống theo Mục Công, vì Mục Công khi còn sống, yêu
quý nhất ba anh em họ Tứ Xa. Người trong nước tỏ
lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền
đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa
mai.
Trong thơ đại ý nói: “Ba anh em họ Tứ Xa đều là
người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi.
Sao nỡ đem chôn sống để đi theo với người đã tận số
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn


23


Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này
được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người
hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay”. Về
sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với
người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ “Sôlinh”, sau vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại
dùng đồ gỗ “Mộc ngẫu” như trước.
Sách Trang Tử chép rằng: Vua Mục Vương nhà
Chu (1001 trước Tây lịch) có người tên là Yến Sư chế
ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử
đọc đến chuyện này liền nổi lòng phẫn uất mà thống
mạ rằng: “Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với
người chết là bất nhân”. Thầy Mạnh Tử cũng ác cảm
với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu độc
rằng: “Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự”.
Đến đời nhà Hán, giới tri thức Nho học cảm động
với lời tuyệt cự thống thiết của ngài Khổng, Mạnh trong
tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới
bỏ tục lệ TUẪN TÁNG, không dùng người sống chôn
theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để
cho vợ, con, tôi, tớ người đã chết ra để ấp mộ. Còn các
thức đồ ăn, mặc, hành dùng của người chết kia, khi còn
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

24



Nhìn nhận đúng về tục lệ đốt vàng mã của người Việt

sống dùng những thức gì, khi chết cũng đem chôn theo
hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta
lại đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quanh
phần mộ nữa.
Đến đây chúng ta sẽ lại tìm thấy nguyên nhân của
tục lệ đốt vàng mã giấy. Đời Hán Hoa đến năm Nguyên
Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy vỏ
cây dó và rẻ rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có
giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo ...
đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho
vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ.
Sách “Thông giám cương mục” có chép: Vì vua
Huyền Tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ
làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã
dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt
Vương Dũ vào hạng Thủy tổ nghề vàng mã được.
Đức Phật Thích Ca Ngài không hề dạy đốt vàng mã
để cúng gia tiên. Tại sao ngày rằm tháng bẩy là ngày lễ
trọng thể của Phật giáo mà thấy một số tín đồ nhà Phật
đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên. Chính
nghĩa ngày rằm tháng bẩy của Phật giáo là thế này:
Ngài Mục Kiền Liên là bậc đại đệ tử của Đức Phật
Gia Đình Phật Tử Tâm Pháp Tuệ sưu tầm & biên soạn

25



×