Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu - chi nhánh Long Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.83 KB, 45 trang )

Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng chuyên phục vụ cho đối tượng khách hàng là cá
nhân. Các sản phẩm dịch vụ được cung cấp phổ biến bao gồm tiết kiệm, kiểm tra tài khoản, cho
vay cá nhân, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng… và rất nhiều dịch vụ khác. Một trong những sản phẩm
chiếm tỉ trọng cao trong hoạt động của ngân hàng bán lẻ, đó là cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng đã xuất hiện ở các nước phát triển từ những năm 70 của thế kỉ trước. Ở
Việt Nam, hoạt động này mới chỉ được các ngân hàng thương mại chú ý khoảng 20 năm trở lại
đây, và hiện nay, đây là mảng thị trường tiềm năng mà tất cả các ngân hàng đều hướng tới. Việt
Nam với dân số khoảng 85 triệu người và mức thu nhập của người dân ngày càng tăng hứa hẹn
sẽ là sân chơi bán lẻ rộng mở cho các ngân hàng thương mại nói riêng và tất cả các tổ chức tín
dụng nói chung.
Đối với Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank Vietnam), mở rộng cho vay tiêu
dùng là mục tiêu trước mắt và lâu dài của ngân hàng, nhằm mục tiêu phát triển hoạt động ngân
hàng bán lẻ cũng như giữ vững vị trí một trong những NHTM hàng đầu Việt Nam.
Chính vì vậy, đề tài “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần xuất nhậpkhẩu - chi nhánh Long Biên” đã được lựa chọn nhằm mục tiêu
nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động cho vay tiêu dùng ở chi nhánh Eximbank Long Biên, từ đó đưa
ra các kiến nghị và đề xuất để phát triển hoạt động này.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Chuyên đề tốt nghiệp hướng vào 3 mục tiêu sau:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động cho vay tiêu dùng của các NHTM
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Eximbank
Long Biên
- Đề xuất giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng ở Eximbank Long Biên
3. Đối tượng nghiên cứu
Căn cứ vào ba mục tiêu trên, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của công trình tập trung
vào hoạt động cho vay tiêu dùng ở Eximbank Long Biên trong 3 năm 2008-2010
4. Phương pháp nghiên cứu




Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp thu thập thông tin và
phương pháp phân tích. Thông tin thu thập được thông qua nhiều kênh như quá trình thực tập trực
tiếp tại chi nhánh, phỏng vấn các cán bộ công nhân viên của ngân hàng, các báo cáo tài chính năm,
báo cáo tín dụng… Phương pháp phân tích sử dụng các thông tin này, kết hợp với phương pháp so
sánh, đối chiếu, tổng hợp thông tin, từ đó đưa ra những nhận định về tình hình cho vay tiêu dùng ở
Eximbank Long Biên.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương
mại (NHTM).
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP xuất
nhập khẩu – chi nhánh Long Biên.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
tại ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu – chi nhánh Long Biên.

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ
HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái quát về hoạt động tín dụng của NHTM.
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng .
Tín dụng (credit), xuất phát từ tiếng Latinh là credo – là sự tin tưởng, sự tín nhiệm và được định
nghĩa dưới nhiều giác độ khác nhau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật trên nguyên tắc có
hoàn trả.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử
dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.

- Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức, cá nhân
này cho một tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn
trả.


Như vậy, tín dụng có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng bản chất của tín
dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi vay và một bên là người cho vay trên
cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối với một ngân hàng thương mại, tín dụng là chức năng cơ bản của ngân hàng, là một trong
những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được định nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng
hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng và bên đi vay là các cá nhân,
doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
2. Các hình thức của tín dụng ngân hàng.
1. Căn cứ vào mục đích vay:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động
sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động
cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón,
thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu,...
- Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật
dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông
qua phát hành thẻ tín dụng.
- Cho thuê: Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho
thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc

- thiết bị.
2. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp
sự thiếu hụt vốn lưu động. Của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm chủ yếu được sử dụng để đầu tư
mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án mới, có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ
yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: Máy cày, máy bơm nước, xây dựng các
vườn cây công nghiệp như cà phê, điều, ...
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu
dộng thường xuyên của các doanh nghiệp dặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến
20-30 năm, một số trường hợp cá biệt cá thể lên đến 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.


3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
- Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo
lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm
cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
4. Căn cứ theo phương thức hoàn trả:
- Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp
đồng.Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (cho vay phi trả góp)
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể (Cho vay trả góp)
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay không có thời hạn thì ngân hàng có
thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời

gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi
vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước
hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau:
+
+
+
3.

Chiết khấu thương phiếu:
Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
Nghiệp vụ thanh tín (factoring):
Vai trò của tín dụng ngân hàng.

Trong nền kinh tế thi trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng được thực hiện ở
các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế.Trong nguồn
vốn của doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm vốn tự có và vốn từ bên
ngoài như ngân hàng, doanh nghiệp khác... Song tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ có hiệu quả
hơn cả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu về số lượng và thời hạn đồng thời chi phí sử dụng vốn tín
dụng ngân hàng thấp hơn các chi phí từ chủ thể khác.
Thứ hai:Tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và
người thiếu vốn vì tín dụng Ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế đáp
ứng đầy đủ nhu cầu về vốn thúc đẩy tái sản xuất mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế
phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động đó, Ngân hàng thu được lợi tức cho vay để duy
trì và phát triển hoạt động của chính bản thân ngân hàng. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện

nay huy động và cho vay bao nhiêu có đáp ứng được hay không là vấn đề đặt lên hàng đầu trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, mỗi ngân hàng phải có nghệ thuật trong kinh doanh,
phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng với chi phí thấp nhất


để kinh doanh. Có thể nói, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình vận dụng liên
tục của nguồn vốn, đẩy nhanh tốc chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng giúp thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tín dụng ngân hàng
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất mở rộng hoạt động, mỗi chu kỳ đều phải bắt
đầu từ tiền và kết thúc bằng tiền (T-H-T’)(T-T’). Do đó để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ
thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị
trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có vốn đầy đủ và kịp thời. Tín dụng ngân
hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó. Mặt khác vốn ngân hàng cung ứng cho các nhà
kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định.Vì
vậy các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng
nhanh vòng quay vốn, trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi. Chính quá trình này làm cho nền kinh tế
hàng hoá ngày càng phát triển cao.
Thứ tư: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu
kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay việc phát triển kinh tế của mỗi nước luôn phải gắn với
sự phát triển kinh tế thế giới, xu hướng quốc tế hoá và hội nhập ngày càng được mở rộng theo
nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong đó vốn đầu
tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông
dụng và phổ biến giữa các nước. Vốn là nguyên nhân quyết định cho việc thực hiện quá trình
này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một tổ chức kinh doanh nào cũng có
đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt
động tín dụng, sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư vào kinh doanh xuất - nhập khẩu
hàng hoá.
Thứ năm: Tín dụng Ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu
thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền và lưu thông qua kênh cung ứng tín dụng. Bởi vì, Ngân

hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền lưu thông qua hoạt động tín dụng
và thanh toán. Trong điều kiện cần mở rộng, thu hẹp khả năng cung ứng vốn sẽ tác động đến
việc cấp tín dụng của Ngân hàng. Khi Nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì NHNN
có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại.
Thứ sáu: Tín dụng ngân hàng thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh
tế vì qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc cấp vốn cho các doanh
nghiệp. Đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh tế trong hoạt động
kinh doanh.
Thứ bẩy: Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho bản thân các
ngân hàng. Trong quá trình sử dụng vốn ngân hàng thường tập trung vào hai loại hình chủ yếu là
sử dụng tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời. Song trên thực tế đại bộ phận vốn của các
NHTM được đầu tư vào tài sản sinh lời mà lớn nhất là qua kênh tín dụng. Chính hoạt động đầu
tư này tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của hệ thống các NHTM từ đó ảnh
hưởng đến nền kinh tế.


Thứ tám: Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào việc phát triển công ty cổ phần. Để
thành lập được công ty phải có một số vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp và ngân hàng có thể
là một cổ đông lớn. Hơn nữa trong quá trình sản xuất kinh doanh các công ty cổ phần thường có
nhu cầu tăng thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc tăng thêm vốn có thể thông qua
nhiều giải pháp trong đó việc huy động góp vốn bằng việc phát hành cổ phiếu mới là hình thức
phổ biến. Chính sự hoạt động của thị trường vốn, thị trường tiền tệ mà việc phát hành cổ phiếu,
chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu mới quyết định một phần không nhỏ đến chất lượng cổ
phiếu. Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính có khả năng chi phối hoạt động của hệ
thống tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các trung gian tài chính như: Việc tổ chức
thu thập và xử lý thông tin, tham gia các nghiệp vụ bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá (cổ phiếu,
trái phiếu...) làm tăng tính lưu thông cho chứng từ, từ đó tạo uy tín cho các công ty cổ phần đó.
Như vậy, Tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
bền vững. Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý

ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy
định chặt chẽ, tạo điều kiện cho cả người cho vay và người đi vay trong nền kinh tế.
2. Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng và các nhân t ố ảnh hưởng đến khả năng
mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng
1. Sự cần thiết khách quan của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương
mại.
Cho vay tiêu dùng là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dung, bao
gồm cá nhân và hộ gia đình.Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp giúp những người này
trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dung gia đình và xe cộ… Bên cạnh đó, những chỉ tiêu cho nhu cầu
giáo dục, y tế và du lịch… cũng có thể được tài trợ bởi CVTD.
Như chúng ta đã biết, cho vay của các NHTM hiện nay luôn là hoạt động chính mang lại
cho ngân hàng một nguồn thu chủ yếu. Không những thế việc cho vay còn phản ánh được năng
lực hoạt động cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các ngành khác. Có rất nhiều
hình thức cho vay trong đó không thể không kể đến cho vay tiêu dùng. Tuy hình thức cho vay
này nó chưa hoàn toàn phổ biến ở nước ta, nhưng nó ngày càng khẳng định được vị trí cũng như
tầm quan trọng của mình trong hoạt động cho vay của NHTM. Trong nền kinh tế hiện nay, các
ngân hàng đang phải bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt thì đây là điều kiện nhằm tăng sức cạnh
tranh cho các ngân hàng cũng như khẳng định được vị trí trong nền kinh tế Việt Nam khi tham
gia vào các tổ chức quốc tế. Từ đó hình thành nên tính tất yếu khách quan của cho vay tiêu dùng.
Bên cạnh đó, nhờ hình thức cho vay này mà các NHTM đã thu hút được khách hàng là cá
nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh của mình.Đồng thời,nó còn giải quyết được vấn đề tâm
lí cho các cá nhân. Bởi với họ bên cạnh việc gửi tiền vào ngân hàng thì họ cũng cần thấy hết
được khả năng vay tiền từ chính ngân hàng đó. Như vậy với những lí do đó phần nào khẳng đình
đựoc tính tất yếu ra đời của cho vay tiêu dùng trong các ngân hàng thương mại.
3. Đặc điểm của hình thức cho vay tiêu dùng (CVTD)
- Quy mô của từng hợp đồng cho vay thường nhỏ,dẫn đến chi phí tổ chức cho vay cao,vì lãi
suất CVTD thường cao hơn so với lãi suất của các loại cho trong lĩnh vực thương mại và công
nghiệp.



- Nhu cầu CVTD của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
- Nhu cầu CVTD của khách hàng hầu như ít co dãn với lãi suất.Thông thường, người đi vay
quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải chịu.
- Mức thu nhập và trình đọ học vấn là hai biến số có quan hệ rất mật thiết tới nhu cầu vay
tiêu dùng cả khách hàng.
- Chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao.
- Nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm
việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của ngững người này.
- Tư cách của khach hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng, quyết định sự hoàn
trả của khoản vay.
4. Các hình thức CVTD của NHTM
1. Căn cứ vào mục đích vay
- CVTD cư trú: Là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo
nhà ở của khách hàng.
- CVTD phi cư chú: Là các khoản vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ,
đồ dùng gia đình, chi phí giáo dục, y tế, giải trí. v.v...
2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có ba loại:
- CVTD trả góp: Là hình thức cho vay trong đó người đi vay phải trả cho ngân hàng tiền gốc
và lãi làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Các khoản vay loại này nhằm tài trợ
cho nhu cầu mua sắm vật dụng đắt tiền như ôtô, xe máy ... hoặc trang trải các khoản nợ của gia
đình, tồn tại dưới khoản vay ngắn hạnhoặc trung hạn vì giá trị thường không lớn.
Đối với CVTD loại này, các ngân hàng cần phải chú ý đến một số vấn đề như:
+ Loại tài sản được tài trợ.
Ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu
bền và có giá trị lớn.Như vậy, với những loại tài sản như vậy,người tiêu dung sẽ hưởng được
những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài.
+ Số tiền phải trả trước.
Thông thường ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần
mua sắm, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền này một mặt làm cho người đi vay nghĩ

rằng họ là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng vì tài sản
đảm bảo cũng chính là tài sản hình thành từ vốn vay.
Số tiền trả trước nhiều hay ít tuỳ thuộc vào các yếu tố sau:
• Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức đọ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước
nhiều và ngược lại.
• Thị trường tiêu thụ tài sản sau đã khi sử dụng: Nếu tài sản đã sử dụng nếu vẫn có
thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp và ngược lại.


• Môi trường kinh tế.
• Năng lực tài chính của người đi vay.
+ Chi phí tài trợ.
Chi phí tài trợ là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng. Chi phí tài trợ chủ yế bao gồm
lãi vay và các chi phí khác có liên quan.
+ Điều khoản thanh toán.
• Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù hợp với khả năng chi trả của khách hàng.
• Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng.
• Thời hạn trả nợ không nên quá dài, liên quan đến thời hạn hoạt động của tài sản tài
trợ và thiện trí trả nợ của khách hàng.
Có ba phương pháp trả góp phổ biến:
* Phương pháp gộp: Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách
lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia
cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán mỗi kỳ.
* Phương pháp lãi đơn: Vốn gốc được thanh toán đều nhau giữa các kỳ, còn
tiền lãi được tính trên số dư nợ còn lại.
* Phương pháp hiện giá: Số tiền thanh toán bằng nhau mỗi kỳ hạn gồm cả gốc
và lãi được tính bằng cách quy về giá trị hiện tại của khoản tiền trong tương lai.
- CVTD phi trả góp: Là các khoản vay đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời của cá nhân và hộ
gia đình, được thanh toán một lần khi đáo hạn. Thường thì các khoản vay này có quy mô tương
đối nhỏ và tồn tại dưới dạng vay ngắn hạn.

- CVTD tuần hoàn: Là khoản vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín
dụng hoặc phát hành loại séc được thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ.
- CVTD gián tiếp: Là hình thức cho vay trong dó ngân hàng mua lại các khoản nợ phát sinh
do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng. CVTD gián tiếp
được thực hiện theo sơ đồ sau:
(1)
NGÂN HÀNG (4) CÔNG TY BÁN LẺ
(5)
(6)
(2) ( 3)
NGƯỜI TIÊU DÙNG
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ.


(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường,
người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị hàng hoá .
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6): Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.

 Ưu điểm của CVTD gián tiếp:
+ Cho phép ngân hàng tăng doanh số CVTD.
+ Cho phép ngân hàng tiết giảm chi phí cho vay.
+ Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng
khác.
+ Nếu ngân hàng có mối quan hệ tốt với công ty bán lẻ thì CVTD gián tiếp an toàn hơn
CVTD trực tiếp.
 Nhược điểm của CVTD gián tiếp:

+ Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc vời người tiêu dùng.
+ Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng
hoá.
+ Kỹ thuật nghiệp vụ CVTD gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do ngững nhược điểm trên mà rất nhiều ngân hàng không mặn mà với hình thức CVTD này.
Còn những ngân hàng tham gia vào hoạt động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng chặt
chẽ.
Các phương thức CVTD gián tiếp
• Tài trợ truy đòi toàn bộ: Công ty bán lẻ cam kết thanh toán cho ngân hàng toàn bộ
các khoản nợ nếu đến hạn người tiêu dùng không thanh toán nợ cho ngân hàng.
• Tài trợ truy đòi hạn chế: Trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với khoản nợ khi
khách hàng không thanh toán cho ngân hàng chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, tuỳ
theo thoả thuận giữa ngân hàng với công ty bán lẻ.
• Tài trợ miễn truy đòi: Công ty bán lẻ hoàn toàn không chịu trách nhiệm về khoản
nợ sau khi đã bán nợ cho ngân hàng. Phương thức này chứa đựng rủi ro cao cho ngân hàng nên
chi phí tài trợ được mua cũng được kén chọn rất kỹ. Hơn nữa ngân hàng cũng phải rất tin tưởng
vào uy tín của công ty bán lẻ.
• Tài trợ có mua lại: Nếu người tiêu dùng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ thì ngân
hàng có thể bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán, kèm với tài sản đã
được thụ đắc trong một thời hạn nhất định.
- CVTD trực tiếp: Là hình thức CVTD trong đó ngân hàng trực tiếp cho vay đối với người
tiêu dùng cũng như trực tiếp thu nợ đối với họ. CVTD trực tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
NGÂN HÀNG (3) CÔNG TY BÁN LẺ


(1) (5)

(2) (4)
NGƯỜI TIÊU DÙNG
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.

(2): Người tiêu dùng trả trước một phần giá trị tài sản cho công ty bán lẻ.
(3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
 Ưu điểm của CVTD trực tiếp:
- Ngân hàng có thể tận dụng được năng lực của nhân viên tín dụng. Họ là những người được
đào tạo chuyên môn và có kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng. Ngoài ra, họ có xu hướng chú
trọng đến việc tạo ra khoản vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của các công ty bán lẻ
thường chú trọng đến việc tăng doanh số bán hàng. Hơn nữa tại những điểm bán hàng quyết định
tín dụng được đưa ra có phần vội vàng,nhanh chóng trong khi những khoản tín dụng ngân hàng
cấp cho khách hàng đều qua một quá trình thẩm định chặt chẽ.
- CVTD trực tiếp linh hoạt hơn CVTD gián tiếp, bởi vì ngân hàng sẽ chủ động hơn trong
việc đưa ra những khoản tín dụng với quy mô và thời hạn phù hợp. Đồng thời việc tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu và lợi ích cho cả hai bên.
Các phương thức CVTD trực tiếp:
• Tín dụng trả theo định kỳ: Theo phương thức này, toàn bộ số tiền vay được ghi nợ
vào tài khoản cho vay và ghi có tài khoản tiền gửi cá nhân hoặc giao tiền mặt cho khách hàng.
Kỳ hạn trả nợ tuỳ theo thoả thuận, thường theo tháng. Lãi suất được tính trên số dư nợ còn lại
của khoản vay.
• Thấu chi: Là nghiệp vụ tín dụng cho phép khách hàng rút tiền mặt từ tài khoản
vãng lai của mình vượt quá số dư có tới một hạn mức đã thoả thuận trước.
• Thẻ tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng phát hành thẻ tín dụng
cho những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định một giới hạn tín dụng
tối đa mà chủ thẻ được phép sử dụng.
Đối với phương thức này, chủ thẻ đã được ngân hàng bảo lãnh một số tiền nhất định, được coi là
một đảm bảo cho người bán hàng.


5. Lợi ích của cho vay tiêu dùng.
1. Đối với ngân hàng.

Đối với ngân hàng ngoài những nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao, CVTD có những
lợi ích sau:
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi
cho ngân hàng.
- Tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán
rủi ro cho ngân hàng.
2. Đối với người tiêu dùng.
Nhờ vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền và đặc biệt quan
trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tinh cấp bách,như
nhu cầu chi tiêu giáo dục y tế.
Tuy vậy,người tiêu dùng cần tính toán để việc chi tiêu được hợp lý không vượt quá mức cho
phép và đảm bảo khả năng chi trả.
3. Đối với nền kinh tế.
Cho vay tiêu dùng được dùng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ trong nước,
có tác dụng rât tốt trong việc kích cầu. Nhờ cho vay tiêu dùng các doanh nghiệp đã đẩy nhanh
tốc độ tiêu thụ hàng hoá,ngân hàng rút ngăn khoảng thời gian lưu thông, tăng khả năng trả nợ
cho ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
6. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng của hoạt động cho vay tiêu dùng.
1. Nhân tố khách quan
1. Môi trường kinh tế.
Yếu tố nói đến trước tiên ở đây là trình độ phát triển của nền kinh tế.
Ở các nước phát triển, các thành phần kinh tế phát triển với một trình độ cao, tạo ra cơ sở hạ
tầng thuận lợi phục vụ cho thói quen tiêu dùng của người dân. Họ chi tiêu bằng thẻ thay vì dùng
tiền mặt, và mỗi một điểm bán hàng hay dịch vụ đều là đơn vị chấp nhận thẻ. Do đó, CVTD
thông qua hình thức phát hành thẻ rất phát triển ở các ngân hàng. Ngoài ra, người dân coi CVTD
của ngân hàng là nguồn tài trợ phổ biến cho những nhu cầu tiêu dùng của mình thay vi tìm đến
bạn bè, người thân. Và ngược lại kinh tế phát triển ở trình độ thấp là một yếu tố khách quan hạn
chế phần nào sự phát triển của hoạt động CVTD.
Một yếu tố nữa phụ thuộc môi trường kinh tế là chu kỳ và mức độ ổn định của nền kinh tế.
Nền kinh tế ở giai đoạn tăng trưởng là điều kiện thuận lợi để các ngân hàng mở rộng CVTD.

Kinh tế tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người tăng, thất nghiệp giảm, sản xuất mở rộng, tiêu
dùng tăng dẫn đến tín dụng ngân hàng nói chung và CVTD nói riêng có cơ hội phát triển mạnh.


Đồng thời, trong nền kinh tế ổn định, không có khủng hoảng người dân sẽ thấy yên tâm về
công việc của mình và lạc quan về tương lai. Từ đó họ có xu hướng muốn thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng của mình để đạt được mức sống như mong muốn và tìm đến ngân hàng như một nguồn tài
trợ hiệi quả. Vì họ tin tưởng vào thu nhập của mình trong tương lai có thể chi trả được các khoản
nợ để phục vụ mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái và
bất ổn, cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng, nhất là khi họ thấy tình trạng thất
nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc mượn tiền từ ngân hàng. Lúc này dân cư có xu hướng tích
luỹ hơn là tiêu dùng.
2. Môi trường xã hội.
Có rất nhiều yếu tố thuộc môi trường xã hội ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân
hàng như: Thói quen, tập quán sinh hoạt, trình độ dân trí, tâm lý người dân, trật tự xã hội hay xu
hướng gia tăng dân số thành thị...
Tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân địa phương là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến tiềm năng phát triển dịch vụ CVTD của ngân hàng. Ở một số nơi, người dân thường
có xu hướng lao động cật lực khi còn trẻ và sống tiết kiệm để đến khi nhiều tuổi cảm thấy có đủ
điều kiện họ mới hướng đến việc hưởng thụ thành quả lao động và cải thiện tiện nghi cuộc sống.
Do đó, việc vay mượn để mua sắm hay đi du lịch, giải trí... nhất là vay từ ngân hàng là điều họ
không muốn hay không quen làm.
Thói quen chi tiêu bằng tiền mặt, đặc biệt là ở một số nước đang phát triển như Việt Nam
cũng hạn chế việc cho vay qua phát hành thẻ tín dụng. Tất nhiên, phần nhiều do trình độ phát
triển của nền kinh tế, nhưng một phần cũng do người dân không muốn thay đổi thói quen của
mình, ngoài ra còn do yếu tố tâm lý và trình độ dân trí. Những người có hoc vấn và thu nhập cao
thường có xu hướng vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình, mục đích là để đạt được
mức sống như mong muốn.
Ngoài ra ở một số nước xu hướng đô thị hoá, di dân từ nông thôn ra thành thị làm cho dân số
thành thị ngày càng gia tăng. Đây là một điều kiện tốt cho các ngân hàng mở rộng loại hình dịch

vụ này.
3. Môi trường pháp lý.
Mọi hoạt động trong nền kinh tế đều dưới sự điều chỉnh của các quy định pháp luật, CVTD
của NHTM cũng như vậy. Bên cạnh những quy định của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động kinh
doanh ngân hàng nói chung và CVTD nói riêng đều liên quan đến rất nhiều quy định của các
ngành, lĩnh vực khác có liên quan. Nếu như không có một luật hay quy chế, quy định điều chỉnh
hoạt động CVTD của các ngân hàng một cách rõ ràng và chặt chẽ thì sẽ gây cản trở cho hoạt
động này được diễn ra thông suốt và phát triển bền vững, đồng thời ảnh hưởng đến lợi ích của cả
hai phía ngân hàng và khách hàng, đặc biệt là khi xảy ra tranh chấp.Có thể nói có một hành lang
pháp lý rõ rang cho hoạt động CVTD của các ngân hàng là cơ sở rất quan trọng để hoạt động này
phát triển và mở rộng. Bên cạnh đó, trình độ pháp luạt của xã hội nói chung cũng ảnh hưởng rất
nhiều đến hoạt động ngân hàng cũng như trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng. Nếu các bộ luật, các
quy định pháp luật ở mọi ngành nghề, lĩnh vực không xây dựng được một cách chặt chẽ, đồng


bộ, chồng chéo và không ổn định thì các thành phần kinh tế sẽ không an tâm, chần chừ và e ngại
trong việc mở rộng hoạt động đồng thời tạo ra một môi trường đầu tư không an toàn. Điều này
gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và tấ nhiên,gián tiếp ảnh hưởng đến việc mở rộng quy mô
tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động CVTD.
4. Sự ổn định của chính trị và các chính sách nhà nước.
Đối với mọi quốc gia, chính trị ổn định là cơ sở quan trọng nhất để phát triển kinh tế và duy trì
sự phồn thịnh của xã hội. Sự bất ổn của chính trị như: Thay đổi thể chế chính trị, khủng bố, chiến
tranh... sẽ dẫn đến hậu quả xấu cho bộ mặt của đất nước, thể hiện ở nhiều khía cạnh như: Mất an
ninh trật tự xã hội, chính sách đường lối phát triển của nhà nước thay đổi, thoái lui đầu tư, nền
kinh tế suy thoái... Và tất nhiên, tất cả các thành phần kinh tế đều bị ảnh hưởng, trong đó có hệ
thống ngân hàng. Người dân sẽ thấy không an tâm, bi quan và mất niềm tin vào ngân hàng. Do
đó, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng.
2. Nhân tố chủ quan.
1. Nhân tố thuộc về bản thân khách hàng.
Khách hàng là yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đối với mọi tổ chức kinh doanh cũng như đối

với ngân hàng.
Trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, có nhiều yếu tố thuộc về phía khách hàng ảnh hưởng đến chất
lượng của một khoản CVTD như: Đạo đức, năng lực pháp lý, khả năng tài chính, tài sản đảm
bảo.
Một khách hàng có đầy đủ các điều kiện về pháp lý, tài chính... nhưng không có thiện chí trả nợ
thì khoản vay khó có khả năng được hoàn trả. Đây là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng,
đòi hỏi cán bộ tín dụng phải hết sức chú ý khi thẩm định khách hàng, phải đảm bảo rằng khách
hàng vay vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm hoàn trả đầy đủ đầy đủ và đúng hạn khoản nợ.
Ngoài việc kiểm tra về năng lực pháp lý là yếu tố cơ bản để khách hàng có quyền tham gia tín
dụng, xác nhận thu nhập thường xuyên và sự ổn định trong thu nhập của khách hàng là việc rất
quan trọng vì đây là nguồn trả nợ cho khoản vay.
Ngoài những yếu tố trên, nhu cầu của khách hàng được coi là nhân tố hàng đầu tác động đến
hoạt động CVTD của ngân hàng. Ngân hàngphải luôn tìm hiểu nhu cầu hiện tại và tìm ra nhưng
nhu cầu tiềm ẩn trên thị trường. Từ đó có những chiến lược kinh doanh đúng đắn, đưa ra những
loại hình dịch vụ CVTD phù hợp.
2. Nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng.
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Để lĩnh vực tín dụng tiêu dùng là một trong những thế mạnh của ngân hàng thì các nhà quản trị
ngân hàng cần coi CVTD là chiến lược kinh doanh của mình và xây dựng một chính sách tín
dụng riêng cho mục đích này. Không những thế, chính sách tín dụng cần phải thông thoáng, linh
hoạt và hiệu quả để có thể tạo ra những khoản vay an toàn và thu hút khách hàng. Trên cơ sở xây


dựng một chiến lược cụ thể ngân hàng có thể phân bổ nguồn lực về vốn, nhân lực... một cách
phù hợp và đưa ra những mục tiêu hoạt động cả trong ngắn hạn và dài hạn. Còn nếu ngân hàng
không chú trọng đến mảng dịch vụ này và không có một chiến lược nào cả thì hoạt động CVTD
sẽ không có cơ hội phát triển.
* Tiềm lực về vốn và công nghệ.
Các khoản CVTD tuy có quy mô nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn. Do đó, muốn đẩy mạnh
CVTD, ngân hàng cần tập trung một tỷ lệ nguồn vốn đáng kể vào khoản mục tài sản này. Nếu

ngân hàng không tạo ra được thế mạnh về vốn, cả vốn tự có và vốn huy động thì sẽ khó đáp ứng
được nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, cũng như là nhu cầu vốn cho tín dụng
tiêu dùng.
Bên cạnh đó, công nghệ hiện đại là cơ sở quan trọng để các ngân hàng triển khai dịch vụ ngân
hàng bán lẻ. Nhờ có công nghệ hiện đại nên ngân hàng mới có thể xây dựng được những kênh
phân phối an toàn, đa dạng và hiệu quả đến khách hàng là cá nhân.
* Chất lượng cán bộ tín dụng.
Đối với mọi lĩnh vực hoạt của ngân hàng, yếu tố con người luôn được coi là một trong những
yếu tố chiến lược. Trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, chất lượng cán bộ tín dụng bao hàm các
yếu tố như: Trình độ, kinh nghiệm và đạo đức.
Kinh nghiệm đi trước ở các nước phát triển cho thấy, Cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng
trong việc thẩm định khách hàng. Họ có thể phát hiện ra những biểu hiện không trung thực hay
những nhược điểm trong tính cách cũng như sự thành thật của người đi vay thông qua gặp gỡ
phỏng vấn trực tiếp khách hàng. Đó là những việc mà không một máy móc, chương trình tự động
nào có thể làm được.
Bên cạnh đó, đạo đức của nhân viên tín dụng là yêu cầu quan trọng để ngân hàng có thể tránh
được những rủi ro và tổn thất về cả vật chất và uy tín. Đồng thời tránh được những tranh chấp,
kiện tụng liên quan đến pháp luật-vốn là vấn đề luôn mất nhiều thời gian và công sức để giải
quyết, ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của ngân hàng.
* Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng bao gồm các bước thực hiện từ khi thẩm định khách hàng cho tới khi thu hồi
đủ nợ. Nếu các bước đó được xây dựng một cách khoa học hợp lý, phân công nhiệm vụ thích
hợp, quy trình thẩm định không rườm rà và nhanh gọn thì sẽ tạo ra các khoản vay có chất lượng,
giảm thiểu rủi ro và tạo điều kiện cho ngân hàng gia tăng doanh số cho vay và ngược lại.
* Thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng là cơ sở quyết định sự thành công hay thất bại của quan hệ tín dụng. Thông
tin tín dụng trong CVTD bao gồm các thông tin về khách hàng cá nhân như: Họ tên, chứng minh
thư, địa chỉ, tình hình quan hệ tín dụng, thu nhập bình quân tháng, thời gian sống ở nơi cư trú



hiện tại...; Thông tin kinh tế tổng hợp trong nước - rất quan trọng vì môi trường kinh tế ảnh
hưởng đến hoạt động CVTD của ngân hàng và thông tin ngoài nước.
Đặc biệt thông tin về khách hàng là quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng khoản vay, giúp
ngân hàng tránh được rủi ro tín dụng và lựa chọn đối nghịch do thông tin không cân xứng.
Ngược lại, khách hàng cũng cần được cung cấp thông tin đầy đủ về chi phí và thời kỳ các khoản
vay, về chính sách ưu đãi của ngân hàng, thậm chí cá nhân và hộ gia đình có thể soát lại hồ sơ tín
dụng của mình và yêu cầu có sự điều tra và sửa chữa những thông tin sai lệch. Đó là những
quyền lợi chính đáng của khách hàng và điều đó giúp cho khách hàng yên tâm hơn khi đến với
dịch vụ của ngân hàng.

CHƯƠNG II :THỰC TRẠNG CHO VAY
TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP
XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM – CHI
NHÁNH LONG BIÊN
1. Tổng quan về ngân hàng TMCP xuất nhạp khẩu Việt Nam – chi nhánh Long Biên.
1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt
Nam – chi nhánh Long Biên.
3. Giới thiệu về ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam (ngân hàng Eximbank)
Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội
Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export
Import Bank), là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam.
Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong
thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với
tên mới là Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import
Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến nay vốn điều lệ của
Eximbank đạt 8.800 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt 13.627 tỷ đồng. Eximbank hiện là một trong
những Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn nhất trong khối Ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Ngân
hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở
Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 124 Chi nhánh, phòng giao dịch được đặt tại Hà Nội, Đà

Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Quảng Ngãi, Vinh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đồng Nai, Bình
Dương, Tiền Giang, An Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu, Đắc Lắc, Lâm Đồng và TP.HCM. Đã thiết
lập quan hệ đại lý với hơn 750 Ngân hàng ở tại 72 quốc gia trên thế giới và hoạt động.
4. Sự ra đời và phát triển ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – chi nhánh Long
Biên.


Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – chi nhánh Long Biên được thành lập theo tờ trình
số 177/EIB-HĐQT ngày 16/3/2004 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHTMCP xuất nhập khẩu
Việt Nam và hồ sơ kèm theo về việc mở chi nhánh cấp II Long Biên trực thuộc Chi nhánh Hà
Nội Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam đã được Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP Hà
Nội chấp nhận bằng văn bản số 237/NHNN-HAN7 ngày 27/4/2004.Chi nhánh Long Biên chính
thức được thành lập vào ngày 13/08/2004, địa điểm hiện tại : 558 đường Nguyễn Văn Cừ - quận
Long Biên – Hà Nội. Là chi nhánh cấp II trực thuộc chi nhánh ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu
Việt Nam tại Hà Nội (Eximbank Hà Nội)
Quy mô ban đầu của chi nhánh chỉ bao gồm 11 người, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của ban giám
đốc và lỗ lực hết mình của cán bộ nhân viên. Chi nhánh đã có tiến độ phát triển nhanh chóng,
toàn diện và đã đạt được những thành tích đáng kể. Chi nhánh ngày càng phát huy vai trò của
mình để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hiện nay, chi nhánh đã mở rộng thêm 3 phòng giao dịch
trực thuộc tại địa bàn Hà Nội đó là PGD Đồng Xuân, PGD Nguyễn Thái Học, PGD Lò Đúc.
2. Nhiệm vụ của chi nhánh Eximbank Long Biên
Eximbank Long Biên cũng như toàn bộ hệ thống Eximbank cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một
Ngân hàng tầm cỡ quốc tế, cụ thể sau:
- Huy động tiền gởi tiết kiệm, tiền gởi thanh toán của cá nhân và đơn vị bằng VND, ngoại tệ
và vàng.
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn; cho vay đồng tài trợ; cho vay thấu chi; cho vay sinh
hoạt, tiêu dùng; cho vay theo hạn mức tín dụng bằng VND, ngoại tệ và vàng với các điều
kiện thuận lợi và thủ tục đơn giản.
- Thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu hàng hóa, chiết khấu chứng từ hàng hóa và thực hiện
chuyển tiền qua hệ thống SWIFT với các hình thức thanh toán bằng L/C, D/A, D/P, T/T,

P/O, Cheque.
- Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa và quốc tế, chấp nhận thanh toán thẻ quốc tế
Visa, MasterCard, JCB...thanh toán qua mạng bằng Thẻ.
- Thực hiện giao dịch ngân quỹ, chi lương, thu chi hộ, thu chi tại chỗ, thu đổi ngoại tệ, nhận
và chi trả kiều hối, chuyển tiền trong và ngoài nước.
- Các nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước
- Dịch vụ tài chính trọn gói hỗ trợ du học.Tư vấn đầu tư-tài chính-tiền tệ
- Dịch vụ đa dạng về Địa ốc
- Các dịch vụ khác: Bồi hoàn chi phiếu bị mất cắp đối với trường hợp Thomas Cook
Traveller' Cheques, thu tiền làm thủ tục xuất cảnh…
3. Cơ cấu tổ chức.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đã được xác định ngay từ khi mới thành lập là phục vụ các
chương trình kinh tế - xã hội và đẩy mạnh công cuộc đầu tư phục vụ sản xuất, chế biến hàng xuất
khẩu ở các tỉnh phía Bắc. Bộ máy tổ chức của Eximbank Long Biên phải tổ chức sao cho vừa
gọn nhẹ, nhưng lại vừa đảm bảo đạt hiệu quả cao phù hợp với quy mô và đặc điểm địa bàn hoạt
động của chi nhánh. Do đó cơ cấu tổ chức của Eximbank Long Biên gồm:
- Giám đốc.


- Phó giám đốc.
- Các phòng nghiệp vụ.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức tại ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – chi nhánh Long
Biên
Giám đốc
Ph
ó giám đốc

Ph
òng hành chính ngân quỹ
Ph

òng giao dịch
Ph
òng dịch vụ khách hàng
Ph
òng tín dụng tổng hợp


Ph
òng giao dịch Nguyễn Thái Học
Ph
òng giao dịch Lò Đúc
Ph
òng giao dịch Đồng Xuân
Ph
òng khách hàng cá nhân
Phòng khách hàng doanh nghiệp

7. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – chi
nhánh Long Biên.
1. Hoạt động huy động vốn.
Nguồn huy động vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại,và
Eximbank Long biên cũng không nằm ngoài quy luật đó. Do vậy, huy động nguồn vốn trong xã
hội là công việc quan trọng được ngân hàng đặc biệt quan tâm để thực hiện hoạt động kinh
doanh của mình.
Trước những biến động về giá huy động vốn trên thị trường, Eximbank Long Biên đã chủ động
áp dụng nhiều công cụ huy động vốn mới như lãi suất bậc thang, các loại hình tiết kiệm dự
thưởng với chương trình khuyến mại hấp dẫn. Chính sự linh hoạt và chủ động trong việc điều
chỉnh lãi suất đã góp phần giảm tối thiểu tác động của thị trường tới việc huy động vốn, nâng cao
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.Không những thế, trong những năm qua dưới sự chỉ đạo



đúng đắn của ban Giám đốc cùng với sự nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên
mà Eximbank Long Biên đã phấn đấu đạt được những kết quả đáng khích lệ.Cụ thể xét nguồn
vốn huy động của ngân hàng theo cơ cấu sau :
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại NHTMCP xuất nhập khẩu Việt Nam – Chi nhánh
Long Biên (Eximbank Long Biên)
(Đơn vị tính:Tỷ đồng)
Chỉ tiêu

Tổng tài sản
Tổng nguồn vốn huy động
- Tiền gửi của dân cư
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
- Tiền gửi không kỳ hạn
- Tiền gửi có kỳ hạn
- VNĐ
- Ngoại tệ

Năm 2008
Năm 2009
Số tiền Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
(%)
837,04
100
1045,81
100
560,90

67,01
750,85
71,80
Phân loại theo đối tượng
151,64
27,04
227,05
30,24
409,26
72,96
523,80
69,76
Phân loại theo thời hạn
95,51
17,03
155,12
20,66
465,39
82,97
595,73
79,34
Phân loại theo loại tiền
387,75
69,13
452,97
60,33
173,14
30,87
297,88
39.,67


Năm 2010
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
1990,54
100
1199,31
60,25
539,69
659,62

45
55

241,98
957,33

20,18
79,82

695.,60
503,71

58
42

( Nguồn:Báo cáo tài chính tổng hợp của Eximbank Long Biên giai đoạn 2008-2010, phòng dịch vụ khách
hàng Eximbank Long Biên )


Qua bảng số liệu trên ta thấy, tình hình hoạt động về huy động vốn của ngân hang diễn ra theo
chiều hướng tích cực. Trong 3 năm liên tiếp 2008-2010 tổng nguồn vốn huy động liên tục tăng.
Tổng nguồn vốn huy dộng năm 2010 đạt được là 1199,31 tỷ đồng. So với năm 2008 tổng nguồn
vốn huy động tăng lên 638,41 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 113,82 %, so với năm 2009
tổng nguồn vốn huy động tăng lên 448,46 tỷ đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 59,73 % và đạt
82.39% kế hoạch năm.Và cũng thông qua bảng trên, cho ta thấy vốn huy động của Eximbank
Long Biên qua 3 năm liên tiếp có sự biện động khá lớn về cơ cấu nguồn vốn. Cụ thể như sau:

− Phân theo đối tượng:
+ Tiền gửi của dân cư : tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tiền là 539,69 tỷ đồng
chiếm 45% trong tổng nguồn vốn huy động,tăng so với năm 2008 là 388,05 tỷ
đồng (255,89 %), tăng so với năm 2009 là 312,64 tỷ đồng (137,70%). Tỷ trọng
tiền gửi của dân cư tăng đều qua các năm.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế :tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tiền là 659,62
tỷ đồng chiếm 55% trong tổng nguồn vốn huy động,tăng so với năm 2008 là
250,37 tỷ đồng (61,18 %), tăng so với năm 2009 là 135,82 tỷ đồng (25,93). Tỷ
trọng tiền gửi của các tổ chức kinh tế có xu hướng giảm nhẹ qua các năm.


→ Điều này cho thấy, Ngân hàng đã có sự điều chỉnh về khách hàng.Thay vì tập trung vào
các Tổ chức kinh tế thì nay ngân hàng còn quan tâm chú trọng đến đối tượng khách hàng
là tín dụng tiêu dùng cá nhân. Không những thế, từ kết quả khách quan trên còn cho ta
thấy ngân hàng đã chiếm được lòng tin của khách hàng đặc biệt là công tác quản lý tiền
gửi của dân cư với các chính sách hợp lý như đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi, nâng lãi
suất tiết kiệm linh hoạt.
− Phân theo thời hạn:
+ Tiền gửi không kỳ hạn (KKH):tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tiền là 241,98 tỷ
đồng chiếm 20,18 % trong tổng nguồn vốn huy động,tăng so với năm 2008 là
146,47 tỷ đồng (153,35 %), tăng so với năm 2009 là 86,87 tỷ đồng (56 %). Tỷ
trọng trên tổng NVHĐ có xu hướng giảm nhẹ qua các năm.

+ Tiền gửi có kỳ hạn: tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tiền là 957,33 tỷ đồng chiếm
79,82% trong tổng nguồn vốn huy động,tăng so với năm 2008 là 491.94tỷ đồng
(105,71%), tăng so với năm 2009 là 361,60 tỷ đồng (60,70%). Tỷ trọng tăng đều
qua các năm.
→ Tuy nhiên ta thấy rằng tỷ trọng tiền gửi VNĐ so với tổng nguồn vốn giảm nhẹ qua từng
năm tuy rằng tổng lương tiền gửi VNĐ vẫn tăng.Có thể giải thích điều này là do ngân
hàng bắt nhịp với thị trường,đa dạng hóa danh mục tiền gửi,nâng dần tỷ trọng tiền gửi là
ngoại tệ.Ngoài ra, việc tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ tăng có thể do Eximbank là ngân hàng
xuất nhập khẩu nên gia tăng lượng vốn ngoại tệ là điều luôn được quan tâm.Eximbank đã
tập trung tín dụng vào các DN xuất khẩu để gia tăng nguồn thu ngoại tệ. Thêm vào đó
việc Eximbank thực hiện thành công các mối quan hệ chiến lược với tập đoàn ngân hàng
Sumitomo Mitsui và 2 quỹ đầu tư nước ngoài vào năm 2008 đã giúp Eximbank tăng
nguồn vốn ngoại tệ của mình.Đáng chú ý là tổng nguồn ngoại tệ của chi nhánh vào năm
2010 đã tăng hơn so với 2009 dù tình hình lãi suất, tỷ giá ngoại tệ vàng năm này có nhiều
biến động, đây có thể coi là một thành công của Eximbank Long Biên.
− Phân theo loại tiền:
+ VNĐ:tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tiền là 695,60 tỷ đồng chiếm 58 % trong
tổng nguồn vốn huy động,tăng so với năm 2008 là 307,85 tỷ đồng (79,39 %), tăng
so với năm 2009 là 242,63 tỷ đồng (53,57%). Tỷ trọng nguồn vồn huy động này
có xu hướng giảm nhẹ qua các năm .
+ Ngoại tệ:tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tiền là 503,71tỷ đồng chiếm 42% trong
tổng nguồn vốn huy động,tăng so với năm 2008 là 330,57 tỷ đồng (190,92 %),
tăng so với năm 2009 là 205,83 tỷ đồng (69,10%). Tỷ trọng của TG ngoại tệ tăng
lên.
→ Điều này cho thấy, Nguồn vốn huy động từ tiền gửi KKH tăng là do số lượng các đơn vị,
cá nhân mở tài khoản thanh toán qua Chi nhánh tăng, đây là loại tiền gửi có chi phí huy
động vốn thấp nên việc tăng tiền gửi không kì hạn đã làm giảm chi phí đầu vào đáng kể
cho ngân hàng.Tuy nhiên vì tính không ổn định của nguồn vồn này nên tỷ trọng trong
tổng nguồn vốn của Chi nhánh còn thấp. Còn nguồn vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn
tăng có thể do Eximbank đã đưa ra các mức lãi suất có kì hạn tăng cao,lãi suất hấp dẫn



với những kì hạn dài nhằm nâng cao tỷ lệ vốn trung dài hạn trong cơ cấu nguồn vốn để
đảm bảo khả năng thanh khoản cho mình.
+ Ngoài ra,cổ phiếu Eximbank trên thị trường OTC cũng là một trong những cổ
phiếu ngân hàng được sự quan tâm lớn của nhà đầu tư, vì vậy, chi nhánh cũng huy
động được một lượng vốn đáng kể thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu.
Kết luận: Như vậy, qua số liệu phân tích ở trên chứng tỏ Chi nhánh ngân hàng Nông
Eximbank Long Biên đã thực sự làm tốt công tác huy động vốn của mình, điều này sẽ là một lợi
thế tốt để có thể đáp ứng được một cách đầy đủ nhu cầu về vốn cho khách hàng và tạo thế chủ
động cho phát triển kinh doanh của Chi nhánh, đồng thời góp phần điều hòa chung cho toàn hệ
thống.
2. Tình hình sử dụng vốn.
1. Hoạt động tín dụng.
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, thì ngân hàng Eximbank Long Biên cũng
đăc biệt chú trọng tới công tác sử dụng vốn vì đây là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho
ngân hàng. Mặt khác nếu làm tốt công tác sử dụng vốn có thể tác động trở lại thúc đẩy hoạt động
huy động vốn. Như chúng ta đã biết, hiện nay nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ sinh lời chủ
yếu của các NHTM Việt Nam nói chung và của chi nhánh ngân hàng Eximbank Long Biên nói
riêng. Do đó Eximbank Long Biên đã hướng hoạt động tín dụng trong năm theo mục đích nâng
cao chất lượng tín dụng đi đôi với kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu phát
sinh. Ngân hàng luôn luôn thực hiện cho vay với 3 mục tiêu cơ bản: Hiệu quả, an toàn vốn đầu
tư và phát triển. Dựa vào 3 mục tiêu co bản đó ngân hàng không ngừng đẩy mạnh cho vay đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ ( đây là hoạt động cho vay chủ yếu tại ngân hàng), tài trợ xuất
nhập khẩu, mở rộng hạn mức tín dụng đối với khách hàng có uy tín, tiếp tục tạo sự gắn kết giữa
hoạt động tín dụng và tài trợ thanh toán qua nghiệp vụ xuất nhập khẩu trọn gói.
Tình hình tín dụng của Eximbank Long Biên được thống kê cụ thể qua bảng sau:
Bảng 2.2 Hoạt động tín dụng tại Eximbank Long Biên.
(Đơn vị tính:Tỷ đồng)
Chỉ tiêu


Năm 2008

Năm 2009

Số tiền Tỷ trọng (%)
Tổng dư nợ cho vay

507,86

Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ
Phân loại theo thời
hạn
- Ngắn hạn
- Trung và dài hạn

100

Số tiền

Năm 2010

Tỷ trọng (%)

Số tiền

849,95

100 1.304,91


751,98

1.712,58

3.049,59

479,01

1.422,64

2.553,52

Tỷ trọng (%)
100

393,35

77,45

659.95

77,65

1043,93

80

114,50


22,55

190

22,35

260,98

20


Phân loại theo loại tiền
- VNĐ

382,02

75,22

655,68

77,14

1.046,67

80,21

- Ngoại tệ

125,84


24,78

194,27

22,86

258,24

19,79

(Nguồn: Báo cáo tài chính tổng hợp giai đoạn 2008-2010, Phòng Tín dụng tổng hợp
Eximbank Long Biên)

Qua bảng số liệu trên ta có thể nhận xét về tình hình sử dụng vốn của chi nhánh như sau:

− Về doanh số cho vay: ta thấy doanh số cho vay đều tăng lên qua các năm. Cụ thể, năm
2010 vào thời điểm cuối năm doanh số cho vay là 3.049,59 tỷ đồng, tăng so với năm
2008 là 2.2297,62 tỷ đồng (305,54%) và tăng so với năm 2009 là 1.337,01 tỷ đồng
(78.07%). Như vậy, từ những con số tính toán trên cho ta thấy được sự cố gắng của chi
nhánh trong công tác cho vay. Cụ thể, khi nền kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra
trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó
lường.Thì Eximbank Long Biên dã không ngừng mở rộng qui hoạt động, cho dù nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng tín dụng chậm nhưng chi nhánh vẫn đạt chỉ tiêu do
Hội đồng quản trị giao.Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng doanh số cho vay
trong 3 năm liên tiếp này là nhờ các chính sách kích thích kinh tế hợp lý của Chính Phủ
nhằm khơi thông dòng chảy tiền tệ.
− Về doanh số thu nợ: ta thấy nó tăng liên tục qua các năm. Năm 2010, doanh số thu nợ của
chi nhánh là 2.553,52 tỷ đồng , tăng 2.074,50 tỷ đồng (433,08%) so với năm 2008, và
tăng 1.130,88 tỷ đồng (79,49%) so với năm 2009.Điều này cho thấy, công tác quản lý
cũng như chính sách sử dụng vốn của ngân hàng hết sức hiệu quả và phù hợp với tình

hình hoạt động kinh doanh lúc bấy giờ. Cụ thể, ta nhìn lại năm 2008-2009 là năm kinh
doanh làm ăn vô cùng khó khăn của các doanh nghiệp.Đặc biệt là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.Mà hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu của ngân
hàng. Điều này cho thấy công tác quản lý vốn của chi nhánh là rất tốt.
− Tổng dư nợ cho vay: Năm 2010 là 1.304,91 tỷ đồng, so với năm 2008 tăng lên là 797,06
tỷ đồng (156,95%) , so vói năm 2009 tăng lên là 454,96 tỷ đồn (53,53%). Ta xem xét
thêm kết cấu dư nợ của chi nhánh qua các hình thức sau :
+ Kết cấu dư nợ theo thời hạn:
Qua bảng 2.2 ta thấy dư nợ cho vay ngắn hạn và trung dài hạn. Cụ thể,dư nợ ngắn hạn
năm 2010 là 1.043,93 tỷ đồng, chiếm 80 % trong tổng dư nợ cho vay, và tăng so với năm 2008,
2009 lần lượt là 650,58 tỷ dồng (165,39%); 383,98 tỷ đồng (58,18 %).Tỷ trọng này có xu hướng
tăng nhẹ trong các năm.
Dư nợ trung dài hạn : Năm 2010 là 260,98 tỷ đồng, chiếm 20% trong tổng dư nợ cho vay.So với
năm 2008 tăng lên là 146,48 tỷ đồng (127,93%), so với năm 2009 tăng lên là 70,99 tỷ đồng
(37,36%).


Điều này cho thấy, trong năm ngân hàng đang thực hiện hỗ trợ lãi suất ngắn hạn tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí ,thêm vào đó thời gian này tình hình tài chính
trong nước cũng như trên thế giới đang bất ổn,rủi ro hệ thống cao vì vậy chính sách cho vay ngắn
hạn là biện pháp cần thiết .Từ đó làm cho dư nợ ngắn hạn tăng và dư nợ cũng tập trung chủ yếu
vào cho vay ngắn hạn .Bên cạnh đó ,dư nợ trung và dài hạn tăng là do trong những năm gần đây
Eximbank đặt trọng tâm hàng đầu là tăng hiệu quả tín dụng ,tập chung cho vay những khách
hàng uy tín thông qua cho vay trung và dài hạn.Tuy nhiên, tỷ trọng dư nợ cho vay dài hạn vẫn
giảm nhẹ trong vòng 3 năm.
+ Kết cấu dư nợ theo loại tiền:
Năm 2010 dư nợ tín dụng nội tệ là 1.046,67 tỷ đồng chiếm 80.21% trong tổng dư nợ cho
vay, tăng 664,65 tỷ đồng (173,98%) so với năm 2008, và tăng 390,99 tỷ đồng (59,63%) so với
năm 2009. Dư nợ tín dụng ngoại tệ là 258,21 tỷ đồng , tăng 132,41 tỷ đồng (105,22%) so với
năm 2008, và tăng 63,98 tỷ đồng (32,93%) so với năm 2009.Từ công tác huy động ở trên cho ta

thấy, công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp là hợp lý và có hiệu quả. Huy động ngoại tăng lên
phù hợp với dư nợ nội tệ.
Kết luận: Nhìn chung, ta thấy công tác sử dụng vốn của ngân hàng là rất tốt và có hiệu
quả.Ngoài ra ngân hàng đã không ngừng khai thác mở rộng các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế - xã hội ở nước ta.Và đặc biệt những năm gần
đây Eximbank Long Biên đang đi sâu vào khai thác hoạt động cho vay tiêu dùng, đa dạng hoá
sản phẩm, góp phần làm cho hoạt động tín dụng bán lẻ của ngân hàng phát triển mạnh mẽ...
2. Hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế là thế mạnh truyền thồng của Eximbank từ trước tới
nay.Với đội ngũ cán bộ nhân viên nhiệt tình, có trình độ, chuyên môn sâu, Eximbank Long Biên
luôn sẵn sàng phục vụ, hướng dẫn tư vấn khách hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Không
chỉ vậy, ngân hàng còn không ngừng đa dạng các sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng hơn nữa nhu
cầu của khách hàng với phương châm “Tất cả vì sự thành đạt của khách hàng” và chất lượng
dịch vụ ngày càng cao.
Từ năm 2009 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu có những thách thức mới do môi trường cạnh
tranh ngày càng gay gắt, các quy định rào cản về xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư
và dịch vụ đầu vào tăng làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế.
- Nhập khẩu đạt 46,98 triệu USD, vượt 8% kế hoạch đặt ra cho năm, chủ yếu là các
mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc.
- Xuất khẩu đạt 35,52 triệu USD, vượt 6,9% kế hoạch đặt ra cho năm, chủ yếu là các
sản phẩm nông, lâm sản.
3. Hoạt động thẻ và dịch vụ ngân hàng:
Trong vài năm trở lại đây, thị trường thẻ của Việt Nam có sự cạnh tranh quyết liệt. Tuy nhiên,
với chính sách kinh doanh thích hợp, hoạt động kinh doanh thẻ của Eximbank Long Biên có tốc
độ phát triển cao. Năm 2010, doanh số phát hành thẻ Eximbank Master Card và Visa Card đạt


29,28 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2009; doanh số thanh toán thẻ quốc tế là 1,82 triệu USD. Số
lượng tài khoản cá nhân mở mới đạt: 732 tài khoản, nâng tổng số tài khoản cá nhân mở tại Chi
nhánh là 1.816 tài khoản, đạt 30% kế hoạch năm.Với nỗ lực của các cán bộ, Chi nhánh hiện có

40 đơn vị đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử VCB Money và 450 đơn vị,
3.000 lượt đăng ký truy vấn thông tin qua Internet i-b@nking, sử dụng dịch vụ sms-banking...
Hiện nay, Eximbank Long Biên đang tiếp tục nâng cấp và tăng cường năng lực của hệ
thống, trang bị thêm các máy rút tiền tự động ATM, mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ.
Chi nhánh ngân hàng xuất nhập khẩu Long Biên hiện có 34 máy ATM, 86 đơn vị chấp nhận thẻ.
Với chính sách đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và từng bước đưa các sản
phẩm ngân hàng hiện đại vào tiếp cận cuộc sống. Ban giám đốc Chi nhánh đã tạo điều kiện cho
công tác khuếch trương các tiện ích dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng
nhằm thu hút được đông đảo khách hàng Thủ đô và các tỉnh lân cận đến sử dụng các dịch vụ của
ngân hàng Eximbank. Công tác dịch vụ ngân hàng phát triển là một trong những yếu tố quan
trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của Chi nhánh.
4. Kinh doanh ngoại tệ:
Doanh số mua bán ngoại tệ của Eximbank Long Biên năm 2010 đạt 49,19 triệu USD, tăng 3% so
với năm 2009. Lãi kinh doanh ngoại tệ năm 2010 đạt gần 1.3 tỷ đồng.Ngoại tệ mua được phần
lớn từ nguồn các Tổ chức kinh tế đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nhập khẩu và trả nợ tại Chi
nhánh. Đồng thời, để tránh rủi ro về tỷ giá cũng như xác định rõ nguồn ngoại tệ đảm bảo thanh
toán cho khách hàng, Eximbank Long Biên đã sử dụng công cụ phái sinh là hợp đồng có kỳ hạn
đối với các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa.
3. Tình hình kết quả hoạt động kinh doanh.
Bảng 2.3 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.

(Đơn vị: Triệu
đồng)
Chỉ tiêu

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010


So sánh (%)


Số tiền

Số tiền

Số tiền

2008/2010

2009/2010

* Tổng thu nhập

45.470,15

43.521,02

53.782,57

18,28

23,58

+ Thu lãi cho vay

25.987,77


25.298,87

29.052,81

11,79

14,84

+ Thu lãi tiền gửi, đầu tư

13.653,89

12.497,22

1.4020,26

2,68

12,19

+ Thu phí dịch vụ

14.56,36

2.329,64

4.628,65

217,82


98,69

+ Lãi gộp kinh doanh
ngoại tệ và vàng
+ Thu nhập khác

1.201,94

1.225,45

1.308,25

8,84

6,76

3.170,19

2.169,85

4.772,60

50,55

119,95

36.314,64

30.185,47


3.4085,18

(6,14)

12,92

+ Chi trả lãi tiền gửi

27.175,46

20.610,11

2.2715,08

(16,41)

10,21

+ Chi phí dịch vụ

422,13

492,28

708,81

67,91

43,99


+ Chi quản lý chung

5.692,92

7.892,10

8.469,78

48,78

7,32

+ Chi phí khác

3.024.,13

1.190,98

2.191,51

(27,53)

84,01

* Lợi nhuận trước thuế

9.155,51

13.335,55


19.697,39

115,14

47,71

* Thuế TNDN

2.288,88

3.333,89

4.924,35

115,14

47,71

* Lợi nhuận sau thuế

6.866,63

10.001,66

14.773,04

115,14

47,71


* Tổng chi phí

(Nguồn: Phòng dịch vụ khách hàng – Eximbank Hà Nội)


×