Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chế độ phong kiến ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.79 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Quá trình xác lập chế độ phong kiến ở Việt Nam được manh nha từ
những nhà nước sơ khai thời cổ đại, tuy nhiên nó vẫn mang màu sắc ít nhiều
của chế độ chiếm hữu nô lệ. Quá trình này thực sự được ghi nhận bắt đầu từ
thế kỷ X – thế kỷ XV. Đây là thời kỳ độc lập lâu dài và phát triển phồn vinh
của đất nước. Trong hơn 5 thế kỷ này, nền độc lập dân tộc được giữ vững qua
rất nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm oanh liệt và công cuộc xây dựng
đất nước đạt được nhiều thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lịch sử và đặc điểm của chế độ phong kiến ở Việt Nam
1.1. Khái niệm phong kiến và chế độ phong kiến
Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ
gốc Hán-Việt, xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc.
Vào thời này, vua Chu ra chế độ đem đất đai phong cho bà con để kiến lập
các nước chư hầu gọi là "phong kiến thân thích". Do chế độ này giống chế độ
phong đất cho bồi thần ở Châu Âu nên người ta đã dùng chữ "phong kiến" để
dịch chữ féodalité từ tiếng Pháp. Tuy vậy cả hai chữ này chỉ mới phản ánh
hình thức phân phong đất đai chứ chưa phản ánh bản chất của chế độ đó.
Trong các ngôn ngữ châu Âu, féodalité bắt nguồn từ chữ feod trong tiếng
Latinh nghĩa là "lãnh địa cha truyền con nối".
1.2. Đặc điểm của chế độ phong kiến
Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất
(gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới
nhiều hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết
hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và
mức độ lệ thuộc khác nhau).
Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau.

1



Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính
thể quân chủ.
Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân.
Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất đai của chế
độ quân chủ thời xưa, trong thời quân chủ chuyên chế. Trong nhiều trường
hợp, những thời kỳ quân chủ trước kia cũng được gọi là thời kỳ phong kiến.
Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể chế về chế độ quân chủ thời nay là chế độ
quân chủ lập hiến, cho nên phong kiến chỉ phản ánh một giai đoạn, một thời
kỳ của chế độ quân chủ.
1.3. Sự khác nhau giữa chế độ phong kiến châu Á và châu Âu
Trong từng nước và từng khu vực, chế độ phong kiến mang những đặc
điểm riêng của những loại hình khác nhau. Do đó trong vài thập kỷ gần đây,
các nhà sử học và các nhà nghiên cứu có những quan niệm rất khác nhau về
chế độ phong kiến. Chính vì vậy, đã có những cuộc tranh luận về những đặc
điểm cũng như sự tồn tại của chế độ phong kiến ở nhiều nước, nhất là ở
phương Đông.


Tại phương Tây (châu Âu), đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến là

kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên
quan hệ lãnh chúa - chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài. Việc phân phong đất
đai cũng gắn liền với phương thức bóc lột dựa trên địa tô của chủ đất: những
người được phong đất sẽ trở thành những chủ đất, những vùng đất được
phong sẽ trở thành lãnh địa của riêng người đó (lãnh chúa). Nông dân trồng
trọt, chăn nuôi trên mảnh đất phải đóng thuế đất (địa tô) cho lãnh chúa


Tại phương Đông, kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô


không phát triển, chế độ quân chủ tập quyền ra đời sớm và tồn tại lâu dài, bên
cạnh sở hữu tư nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế địa chủ với
quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế. Vua chúa hiếm khi phong đất cho các
quan lại mà chỉ phong chức tước, thưởng bổng lộc, nếu có phong đất thường
phong trong một đời hoặc với diện tích nhỏ. Việc làm này nhằm giúp vua
2


luôn "giữ chân" các quan lại bên mình và duy trì được sự kiểm soát đối với
các quan, hạn chế sự hình thành các ông "vua con" trong lãnh địa được phân
phong.
Sự khác biệt giữa phương Tây và phương Đông nhiều đến mức độ làm
cho một số nhà sử học tỏ ý nghi ngờ hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ
phong kiến ở phương Đông.
1.4. Đặc điểm của chế độ phong kiến ở Việt Nam
Ngoài mang những đặc điểm chế độ phong kiến giống như các nước
trên thế giới thì ở phương Đông đặc biệt là chế độ phong kiến ở Việt Nam còn
mang những đặc điểm riêng:
Chế độ công hữu về ruộng đất tồn tại lâu dài song song với chế độ tư
hữu về ruộng đất trên phạm vi toàn quốc. Đây là một điều dễ nhận thấy ở Việt
Nam. Ta thấy Việt Nam là một đất nước có nhiều giai cấp, tầng lớp. Trong
quá trình công hữu về tư liệu sản xuất mà đặc trưng của Việt Nam là công
hữu ruộng đất (Việt Nam chủ yếu làm nông nghiệp) của nhà nước phong kiến
thì đồng hành cùng với nó là sự tư hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến và
bản thân những quý tộc của nhà vua. Họ có tiền và đầy đủ điều kiện vật chất
để có thể chiếm hữu phần ruộng đất đó về tay mình nhờ những chính sách bán
đất, khai hoang ruộng đất của nhà vua. Điều này đã hình thành nên quá trình
song hành giữa tư hữu ruộng đất cùng với công hữu ruộng đất ở Việt Nam.
Một đặc trưng của chế độ phong kiến Việt Nam là quyền lực của nhà

vua tồn tại đồng hành cùng tính tự trị văn hóa làng. Văn hóa làng là văn
hóa của tinh thần cộng đồng, sự đúc kết những giá trị truyền thống với sự
quy chặt trong những quy ước luật lề cộng đồng mà thành viên trong làng
đặt ra. Một làng là tập hợp một số lượng thành viên nhỏ, họ sống với nhau
bằng tình nghĩa và theo “hương ước”, những nguyên tắc chung. “ Phép vua
thua lệ làng”. Tính tự trị của làng xã khá cao. Do vậy việc quyền lực của
nhà vua, chính quyền trung ương với tay xuống tận làng xã là một điều
không hề đơn giản. Thay vì nhà nước tìm cách xóa bỏ nó thì phải học cách

3


chung sống với văn hóa làng. Đó là một đặc điểm khá riêng biệt của chế độ
phong kiến Việt Nam.
Chế độ tư hữu ruộng đất phát triển chậm chạp vì nhà nước ra sức bảo
vệ chế độ công hữu để bóc lột nhân dân và giữ vững địa vị mình đang có. Nhà
nước phong kiến luôn muốn bảo vệ quyền lợi cho giai cấp của mình nên luôn
muốn bảo vệ những của cải vật chất của đất nước đều thuộc quyền sở hữu của
nhà nước từ ruộng đất, hoa màu… điều đó đã làm cho sự tư hữu ruộng đất trở
nên chậm chạp do nhà nước luôn kìm hãm, không cho nó phát triển, ngưng trệ
sự tư hữu về ruộng đất đồng nghĩa với việc quá trình phong kiến hóa trở nên
khó khăn. Đây là một nguyên nhân lí giải sự xác lập của chế độ phong kiến
Việt Nam diễn ra một cách chậm chạp.
Kinh tế hàng hóa kém phát triển do chính sách ức thương, không chú
trọng thương nghiệp, điều đó dẫn tới chế độ phong kiến ngày càng tồn tại lâu
dài và mang đặc điểm là bảo thủ và trì trệ. Trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh
giữ vững nền độc lập của dân tộc. Những nhà vua nhận ra nguyên nhân chính
là do sự mật thám của nước ngoài thông qua những nhà truyền đạo, thương
nhân. Điều đó làm cho trong một thời gian dài nước ta ức thương, không cho
sự buôn bán trao đổi sản phẩm với nước ngoài mặc dù nước ta rất thuận lợi về

đường biển. Kinh tế hàng hóa kém phát triển. Điều đó gói gọn Việt Nam
trong sự bảo thủ, trì trệ, không đổi mới, những chính sách phát triển kinh tếxã hội của đất nước còn mang tính chủ quan, phiến diện.
2. Quá trình hình thành và xác lập của chế độ phong kiến ở Việt Nam
2.1. Các quan điểm
Về các giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ phong kiến trong
lịch sử Việt Nam đã có rất nhiều quan điểm khác nhau. Việc phân định này
xuất hiện những quan điểm khác nhau
* Vào những năm 60, 70: Các nhà nghiên cứu đã phân các giai đoạn
hình thành và phát triển của chế độ phong kiến như sau:
- Từ năm 179 TCN – 938 (Thời kỳ Bắc thuộc): Là giai đoạn hình thành.

4


- Từ năm 938 – 1428 (Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ): Giai đoạn
phát triển bước đầu.
- Từ 1428 – 1527 (Lê Sơ): Giai đoạn phát triển đỉnh cao
- Từ 1527 – 1858 (Mạc, Lê Trung Hưng, Nguyễn): Giai đoạn khủng
hoảng, trong đó thế kỷ XVI – XVII là giai đoạn suy vong, thế kỷ XVIII –
XIX là giai đoạn suy vong trầm trọng.
Quan điểm này có phần chưa có nhận thức đúng đắn vì phần nào phủ
nhận nhà Mạc, Lê – Trịnh và nhà Nguyễn.
* Bước sang cuối những năm 70, vấn đề này được xem xét lại. Nhưng
đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm:
- Quan điểm thứ 1: Cho rằng giai đoạn sơ kỳ kéo dài từ thế kỷ VI – thế
kỷ X; giai đoạn trung kỳ từ thế kỷ X đến hết nhà Tây Sơn (cuối thế kỷ
XVIII); giai đoạn hậu kỳ phong kiến: được xác định ở nửa đầu thế kỷ XIX.
- Quan điểm thứ 2: Cho rằng giai đoạn xác lập được tính từ thế kỷ X
đến thế kỷ XIV; giai đoạn phát triển tính từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII; giai
đoạn suy vong: từ đầu thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX.

- Quan điểm thứ 3: Là quan điểm đúng đắn nhất khi cho rằng: Giai
đoạn xác lập kéo dài từ thế kỷ X – thế kỷ XV; giai đoạn phát triển từ thế kỷ
XVI – đầu thế kỷ XVIII; giai đoạn suy vong: được tính từ thế kỷ XVIII đến
thế kỷ XIX.
2.2. Quá trình xác lập (từ thế kỷ X – thế kỷ XV)
Đây là thời kì tiếp tục đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của quá trình
phong kiến hóa với những đặc điểm nổi bật đáng được ghi nhận. Dần dần
trong quá trình phát triển, những dấu hiệu manh nha của thời kì trước đã phát
triển nên thành những dấu hiệu đặc trưng để khẳng định sự xác lập của chế độ
phong kiến Việt Nam dần dần từ thời Ngô – Đinh Tiền Lê đến nhà Hồ.
2.2.1. Quá trình phong kiến hóa làng xã
Đến đầu thế kỷ X, một mặt chính quyền tự chủ của họ Khúc bước đầu
xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của Nhà nước đối với ruộng đất công
xã, mặt khác, tích cực thi hành chính sách cải cách hành chính, biến làng
thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước, gọi là “xã”. Khái niệm

5


”làng xã” như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt
văn hoá cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở như ta hằng quan niệm xưa
nay được hình thành trong thời điểm lịch sử này. Đây cũng chính là bước
chuyển biến rất quan trọng của nông thôn Việt Nam truyền thống.
Tuy nhiên suốt trong thế kỷ X và thậm chí sang cả thế kỷ XI, XII công
xã nông thôn vẫn còn tồn tại phổ biến và giữ vai trò hạ tầng cơ sở bền vững
của xã hội với quyền sở hữu trên thực tế đại bộ phận ruộng đất và quyền tự trị
khá lớn. Nhà nước trung ương tập quyền với tư cách là người chủ sở hữu tối
cao về ruộng đất bóc lột tô thuế và lao dịch đối với làng xã. Lúc này chế độ tư
hữu ruộng đất mới phôi thai và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, tuy nhiên nó càng
ngày càng phát triển nhanh.

Vào đầu đời Trần, năm 1242 Trần Thái Tông tiến hành phân chia ra các
xã lớn, xã nhỏ mà đặt các chức đại tư xã, tiểu tư xã là các xã quan thay mặt
Nhà nước trực tiếp quản lý từ 1 đến 2, 3, 4 xã.
Ngay sau khi chiến thắng quân Minh, vào tháng 11 năm 1428, Lê Lợi
tiến hành tổ chức lại làng xã. Ông phân ra làm 3 loại xã theo số đinh: loại nhỏ
từ 10 đến 49 đinh, loại trung bình từ 50 đến 99 đinh và loại lớn từ 100 đinh
trở lên. Theo cách phân loại này, những xã loại vừa và nhỏ trong thực tế chỉ là
thôn. Thôn cũng được chia ra thành nhiều loại, trong đó có những thôn phụ
thuộc xã và những thôn độc lập. Trên cơ sở phân loại như vậy, ông lại đặt các
xã quan tuỳ theo từng loại xã: Xã nhỏ chỉ đặt 1 viên, xã trung bình đặt 2 viên
và xã lớn đặt 3 viên xã quan. Các xã quan trên nguyên tắc vẫn là các viên
chức của Nhà nước, do Nhà nước cử ra để quản lý làng xã, nhưng thực tế vào
đầu thời Lê sơ họ đã là người quản lý trực tiếp từng làng xã, thậm chí là từng
thôn xóm nhỏ. Với cách tổ chức này, việc quản lý xã thôn được quy định cụ
thể hơn trên cơ sở quản lý dân đinh chứ không phải là quản lý hộ như dưới
thời Minh thuộc.
Đến năm 1466 Lê Thánh Tông tiến hành cải cách lại bộ máy quản lý
hành chính, đổi chức xã quan thành xã trưởng, quy định việc bầu xã trưởng
6


cũng như tư cách, đạo đức, năng lực của xã trưởng rất chặt chẽ. Về số lượng
xã trưởng, luật quy định các xã cứ trên 500 hộ thì bầu 5 xã trưởng, từ 300 đến
500 hộ thì bầu 4 xã trưởng, từ 100 đến 300 hộ thì bầu 2 xã trưởng và không
đến 60 hộ thì bầu 1 xã trưởng. Như vậy rõ ràng Lê Thánh Tông đã khéo biết
khai thác và lợi dụng tục bầu cử người đứng đầu trong các công xã nông thôn
trước đây để tuyển chọn người đứng đầu làng xã, bảo đảm họ vừa là đại diện
của dân làng, vừa phục vụ một cách có hiệu quả cho yêu cầu quản lý làng xã
của Nhà nước trung ương. Xã dưới thời Lê Thánh Tông được tổ chức theo hộ
(chứ không theo số đinh như dưới thời Lê Thái Tổ). Gia đình là tế bào của xã

hội, là đơn vị sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tiểu nông. Tổ chức và
quản lý làng xã theo đơn vị hộ gia đình, Lê Thánh Tông đã đưa làng quê trở
về với truyền thống, đạo lý, lối sống lâu đời.
V

ào giữa năm 1490 Lê Thánh Tông lại ban hành thể lệ tách xã cũ, lập

xã mới: nếu tiểu xã dân số tăng lên trên 500 hộ thì gọi là đại xã, nếu đại xã mà
dân số tăng lên trên 600 hộ thì tách số hộ này ra lập thành tiểu xã mới và chia
tài sản công cộng (chủ yếu là ruộng đất công) dựa theo tỷ lệ số hộ. Lúc này
trong xã hội tồn tại phổ biến loại hình một xã có nhiều thôn phụ thuộc và bên
cạnh chức danh xã trưởng cũng đã thấy xuất hiện chức danh thôn trưởng.
N

hư vậy, quá trình hành chính hóa làng xã đã được hình thành, làng xã

từ thiết chế chính trị - xã hội tự quản trở thành đơn vị hành chính trong hệ
thống quản lý hành chính nhà nước, chịu sự chi phối sâu sắc của nhà nước.
2.2.2. Sự phát triển của chế độ tư hữu hóa ruộng đất
- Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê ruộng đất công nhiều, nhà nước muốn
chiếm hữu ruộng đất công để có thể dễ dàng bóc lột sức lao động của nông
dân, phong ruộng đất cho những họ hàng thân thích.
- Nhà nước quan tâm nhiều đến nông nghiệp, khuyến khích người nông
dân sản xuất.

7


- Ruộng đất trong nước cũng một phần được sở hữu giành cho làng xã.
Nhân dân trong làng được chia ruộng đất cùng nhau sử dụng tư liệu sản xuất

là ruộng đất để nộp thuế cho nhà nước.
- Tuy nhiên, rải rác ở quanh làng xã đã bắt đầu xuất hiện dấu hiệu của
sự tư hữu ruộng đất làm một đặc điểm nổi bật để tiếp tục phát triển quá trình
phong kiến hóa của Việt Nam.
2.2.3. Xác lập quan hệ địa chủ - tá điền
Đồng thời với việc cải tổ bộ máy quản lý hành chính là việc thi hành
chính sách mới về ruộng đất, thâu tóm toàn bộ ruộng đất của các làng xã
trong tay Nhà nước và tiến hành phân chia theo thể lệ, thời gian cũng như quy
định mức tô thuế chung cho cả nước, biến làng xã thành người quản lý ruộng
đất công cho nhà vua và nông dân cày ruộng đất công làng xã thành tá điền
của Nhà nước. Những làng xã tương đối tự trị trước đây bây giờ trở thành một
đơn vị kinh tế phụ thuộc Nhà nước, vừa cung cấp lương thực, thực phẩm, lao
dịch, binh dịch cho Nhà nước, vừa cung cấp đất đai để Nhà nước ban cho
những viên chức của mình.
Vào thời Lê Sơ, đòn tấn công quyết định vào sở hữu ruộng đất công
làng xã là việc ban hành chính sách quân điền:
Chính sách "quân điền" bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ. Sau khi
kháng chiến thắng lợi, tình hình ruộng đất xáo trộn, nhà vua đã có ý định
chia ruộng công cho nhân dân, qua lời phủ dụ : "chiến sĩ thì nghèo, du sĩ thì
giàu, người chiến sĩ phải chiến đấu thì không có tấc đất để ở, kẻ du thực
vô ích cho nước thì lại có ruộng đất quá nhiều... Do đó, không có nhười tận
tâm với nước mà chỉ lo việc phú quý. Phép quân điền được thực hiện
hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông.
Theo đó, ruộng đất công làng xã cứ 6 nam một lần được phân phối
lại, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể
điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng được chia ruộng kể từ các
quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được chia 11 phần tới các
8



loại cô nhi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà
nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn). Loại công điền quân phân này
trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu Nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ
gia đình sử dụng.
Chính sách quân điền" thời Lê sơ là một bớc trong quá trình phong kiến
hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu
nông. Qua đó, Nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu
nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). mặt khác, phát triển được sản
xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong
chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn
chấp chiếm ruộng đất.
Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê sơ cũng đã phát triển, một số
là của địa chủ quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Ruộng
tư không phải nộp tô cho Nhà nước. Nhà nước thừa nhận nhưng không
khuyến khích loại ruộng này. Bộ luật nhà Lê, nhất là chương Điền sản đã nói
đến các thủ tục làm văn tự khế ước trong vấn đề bán nhượng, tranh chấp kiện
tụng hoặc thừa kế về ruộng đất.
Sự phát triển của ruộng tư thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển
khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, xác lập quan hệ sản xuất
phong kiến phổ biến địa chủ - tá điền trong xã hội.
2.2.4. Về tổ chức chính trị - xã hội
Bộ máy nhà nước trung ương được kiện toàn dưới cải cách của Khúc
Hạo. Các hương được thay đổi tổ chức lại gọi là “giáp”. Lãnh thổ thuộc quyền
cai quản của chính quyền được mở rộng hơn trước. Bộ máy nhà nước tuy còn
sơ giản nhưng bước đầu đã đặt nền móng cho những bộ máy nhà nước tiếp
theo được kiện toàn. Chính quyền họ Khúc là một chính quyền độc lập, tự chủ
còn mang tính phôi thai.
Đến thời chiến thắng Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng đã ghi dấu mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Sau chiến thắng vẻ


9


vang đó Ngô Quyền tiếp tục đưa đất nước đi lên bằng những chính sách tiến
bộ. Về cơ bản bộ máy chính quyền vẫn được tiếp tục củng cố và giữ nguyên
so với thời kì trước thể hiện sự tiếp tục phát triển những đặc trưng cơ bản để
dẫn tới hình thành chế độ phong kiến Việt Nam.
Nhà Đinh - Tiền Lê: thời Lê dưới vua là các quan văn, quan võ. Lê
Hoàn đặt thêm các chức quan đô hộ phủ sĩ sư, chi-hậu… đặc biệt ở thời Đinh
– Tiền Lê còn có một bộ phận tăng quan với các chức năng tăng thống, tăng
lục… Lê Hoàn đã dùng một vị đại sư làm quốc sư. Điều đó khẳng định sự
linh hoạt trong bộ máy nhà nước, sự sáng tạo và tập quyền trong tay vua.
Chính quyền vì thế mà ngày càng được củng cố, mở rộng.
Cho đến thời Lý- Trần: Bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn với
sự xác lập của chế độ chuyên chế trung ương tập quyền thân dân.
Ở Trung ương:

Vua

Quan đại thần

Quan thành khiển

Cơ quan giúp việc

Sơ đồ bộ máy nhà nước trung ương nhà Lý

10



Ở địa phương:
Lộ

Châu

Phủ

Huyện

Hương
Huyện

Sơ đồ bộ máy địa phương nhà Lý
Từ trong sơ đồ trên ta có thể thấy bộ máy nhà nước thời Lý đã có bước
tiến phát triển vượt bậc hơn so với những thời kì trước. Nếu như thời kì trước
hệ thống bộ máy nhà nước còn sơ sài, tính tập quyền của nhà vua chưa được
thể hiện thì bây giờ, nhà Lý đã khẳng định hơn nữa tính tập quyền. Dưới vua
là sự giúp sức của những quan đại thần, quyền lực tập trung cao độ vào trong
tay vua. Thời Lý hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương dần dần
được kiện toàn, nó thể hiện sự bao quát dường như tất cả mọi mặt trong đời
sống, ở cấp địa phương bộ máy nhà nước quản lí chặt chẽ hơn, tính tập trung
hóa cao độ hơn. Bộ máy chính quyền đã vươn tay dần dần đến cấp hương.
Điều này khẳng định sự tập trung quyền lực và sự lớn mạnh dần của bộ máy
nhà nước thời phong kiến đã dần dần đi xuống đơn vị hành chính cấp nhỏ hơn
của nhà nước. Tuy nhiên, một số nơi làng quê vẫn do một số dòng họ lớn
quản lí. Điều này khẳng định tính tự trị của làng xã vẫn còn nhiều.
Dưới thời Trần còn xuất hiện chế độ Thái Thượng Hoàng. Đây là một
chế độ bảo vệ quyền lực của nhà nước. Sự tồn tại của Thái Thượng Hoàng là
sự đảm bảo vững chắc cho ngôi báu của nhà vua. Điều này cũng chứng tỏ bộ


11


máy nhà nước ngày càng chuyên chế theo kiểu đảm bảo lợi ích quyền lực tối
cao cho nhà vua.
Ở trung ương:
Thái Thượng Hoàng

Vua

Quan đại thần

Tam
thái

Tam
thiếu

Tư đồ

Môn hạ sảnh

Hành khiển ty

Phụ quốc
thái úy

Nội mật
viện


thư nhà Trần
Sơ đồ bộ máy nhà nước cấpThượng
trung ương
sảnh

Ngự sử đại

Hàn lâm
viện

Quốc tử
giám

Quốc sử
viện

12

Nội thị
sảnh

Mười hòa
thư già


Ở địa phương:

Lộ, phủ

Huyện


Hương

Xã lớn



Xã nhỏ
Sơ đồ bộ máy nhà nước cấp địa phương nhà Trần
Có thể thấy ở nhà Trần bộ máy nhà nước đã được kiện toàn hơn với
một đặc điểm mới mà chỉ ở nhà Trần mới có đó là sự xuất hiện của chế độ
Thái Thượng Hoàng. Một chế độ tiếp tục khẳng định sự chuyên chế tập trung
quyền lực vào giai cấp thống trị. Quá trình này làm cho nhà nước ngày càng
khẳng định vai trò của mình trong việc lãnh đạo đất nước. Trong đó nhà nước
có một bộ máy quan lại giúp việc khá nhiều và hoạt động khá hiệu quả. Điều
này ta có thể nhìn thấy rõ ràng trên sơ đồ bộ máy nhà nước trung ương vẽ ở
trên. Với chế độ Thái Thượng Hoàng nhà Trần đã và đang bảo vệ quyền lực
thống trị mà mình đang có, củng cố chính quyền, bộ máy quan lại, tăng quyền
lực cho nhà vua đồng thời cũng làm giảm tính độc đoán của nhà vua. Mọi
chính sách đưa ra đều được xem xét và có Thái Thượng Hoàng ngồi trên làm
cho tính anh minh, khả thi thực hiện được thực hiện rõ ràng.
Ở địa phương, là một sự phát triển thêm của bộ máy nhà nước. Nếu như
ở các thời kì trước mà điển hình là so với nhà Lý, nhà Trần đã phát triển hơn
so vối bộ máy nhà nước ở cấp địa phương. Điều đó thể hiện ở việc nhà Trần
không những thể hiện sự với tay của mình đến tận cấp hương, xã mà còn chia

13


nhỏ các xã thành xã lớn, xã nhỏ để dễ cai trị hơn. Việc phân chia thãnh xã

lớn, xã nhỏ giúp cho quá trình cai quản đất nước, những đơn vị hành chính
cấp nhỏ nhất là làng, xã được diễn ra một cách chặt chẽ. Tức là bộ máy và
quyền lực của nhà nước được đẩy mạnh đến mức chuyên chế, người dân dần
dần phụ thuộc vào nhà nước. Đây là một đặc điểm chính để khẳng định chính
quyền nhà Trần là một sự phát triển một bước trong quá trình xác lập chế độ
phong kiến. Tính tự trị của làng xã đã giảm dần khi nhà nước chia nhỏ những
xã ra để cai quản. Bộ máy nhà nước nhà Trần là một bộ máy nhà nước khá
kiện toàn và thông minh.
2.2.5. Luật pháp
Nếu như thời trước luật pháp thành văn chưa được ra đời thì ở thời này,
luật pháp đã được ra đời như một công cụ phục vụ sự thống trị của giai cấp
phong kiến.
Dưới nhà Lý, nhà vua ban hành biên những điều khoản làm sách hình thư.
Bộ luật Hình thư là bộ luật bảo vệ quyền lực cho chế độ nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền. Bộ luật này có những điều luật khắt khe. Vua Lý dùng
những cực hình tàn khốc để giết lại những người chống đối lại nhà vua. Có thể
nói, pháp luật nhà Lý còn mang nặng tính pháp trị với những hình luật khắt khe.
Tuy nhiên, nó khẳng định một sự phát triển tiếp theo của đặc điểm của chế độ
phong kiến đó là chính quyền trung ương ngày càng được củng cố với một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh bảo vệ chính quyền phong kiến trung ương tâp quyền.
Nhà Trần cũng là một sự phát triển tiếp theo của hệ thống luật pháp.
Với bộ “ Quốc triều hình luật” quy định những với những nội dung cụ thể và
những hình phạt nghiêm minh trong đó khẳng định về và củng cố về chế độ
phân chia đẳng cấp điều này đã khẳng định quyền lực tối cao của nhà vua và
tính tập quyền chuyên chế của nhà nước. Tiếp đó là xác nhận và bảo vệ quyền
sở hữu tài sản, đặc biệt là ruộng đất. Điều này đã đây mạnh quá trình tư hữu
ruộng đất ở nước ta thiết lập quá trình xác lập chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Ngoài ra bộ luật này còn thể hiện sự chú trọng bảo vệ sản xuất nông nghiệp
làm cho nền kinh tế nông nghiệp nước ta tiếp tục phát triển.
14



2.2.6. Quá trình đẳng cấp hóa xã hội
Với chế độ thực ấp, thực phong dưới thời Lý, Trần và hệ thông những
qui định pháp luật bảo vệ cho lợi ích của đẳng cấp quý tộc làm cho đẳng cấp
phong kiến ngày càng tách biệt với bình dân.
Cho đến thời Lê sơ, các quan hệ giai cấp (địa chủ phong kiến và nông
dân) đã đan chen vào các quan hệ đẳng cấp.
Quan liêu là đẳng cấp cầm quyền, cai trị, đồng thời cũng được coi
là tầng lớp ưu tú của xã hội, yêu nuôi và giáo hóa dân chúng. Đội ngũ
quan chức thời Lê sơ là những tri thức Nho sĩ được tuyển lựa kỹ lưỡng (chủ
yếu qua khoa cử), được rèn luyện và kiểm soát chặt chẽ (bởi nhà vua, các
quy chế, bộ Lại và chế độ khảo khóa). Đó cũng là đẳng cấp có nhiều đặc
quyền, ưu đãi trong các tiêu chuẩn sinh hoạt (nhà cửa, quần áo, võng lọng),
được ban cấp đất ở, ruộng lộc điền, lương bổng.
Đầu thời Lê sơ, các công thần chủ yếu là quan võ (tham gia từ đầu cuộc
khởi nghĩa), sau dần dần chuyển sang các quan văn (những người đỗ đại
khoa). Với việc mở rộng khoa cử, các Nho sĩ trí thức bình dân đã có điều kiện
tham gia chính quyền, tạo nên sự bình đẳng tiến thân, thoáng rộng hơn so với
thời Lý - Trần. Tuy nhiên, quan lại lúc này cũng bị kiểm soát ràng buộc
nghiêm ngặt bởi các lễ thức, quy phạm Nho giáo, do vậy, đã mang nhiều tính
chuyên chế và quan liêu hơn.
Đẳng cấp thứ dân (bách tính) là giai tầng xã hội bì cai trị, bao gồm
4 tầng lớp chính : sĩ, nông, công, thương. Nho sĩ thời Lê sơ là cầu nối
giữa bình dân và quan liêu. Nông dân là tầng lớp xã hội đông đảo nhất, đã
phân hóa thành nhiều bộ phận: địa chủ bình dân, nông dân tự canh, tá điền.
Một số cường hào có thể đã xuất hiện trong làng xã. Địa chủ bình dân cùng
với địa chủ quan liêu đã hợp thành giai cấp phong kiến. Thợ thủ công gồm
một số công tượng và chủ yếu là thợ thủ công trong làng xã. Do quan điểm
"ức thương", thương nhân là tầng lớp xã hội bị coi rẻ hơn cả, bị gán cho

những tính cách "phi nghĩa", "bất nhân".
15


KẾT LUẬN
Thế kỷ X – XV được các học giả nhận định là thời kỳ hình thành và
xác lập chế độ phong kiến ở Việt Nam. Nhưng đây là một loại hình chế độ
phong kiến khác với phương Tây và có nét gần gũi với chế độ phong kiến của
nhiều nước ở phương Đông. Quá trình xác lập chế độ phong kiến trong thời
gian này gắn liền với quá trình phong kiến hóa làng xã, sự xác lập quan hệ địa
chủ - tá điền, sự phát triển chế độ tư hữu ruộng đất, sự phát triển về chính trị
xã hội và pháp luật.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phong Nam (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều
Nguyễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Phan Huy Lê (1999), Tìm về cội nguồn tập 2, Nxb Thế giới, Hà Nội.
3. Vũ Thị Phụng (2007), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Quang Ngọc (2005), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục.
5. Phan Huy Lê (1959), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 2, Nxb
Giáo dục
6. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam tập 1, Nxb Giáo dục.
7. Đào Duy Anh (1957), Lịch sử cổ đại Việt Nam – giai đoạn quá độ sang
chế độ phong kiến.
8. Viện sử học (1981), Sử học Việt Nam trên đường phát triển, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

17


V
N



×