Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

ĐỀ CƯƠNG LỊCH sử TRIẾT học PHƯƠNG tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.43 KB, 43 trang )

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
Câu 1: Phân tích đặc điểm chủ yếu của triết học Hy Lạp cổ đại
1.

Hoàn cảnh ra đời

HL cổ đại khác với HL ngày nay về địa lý, nó bao gồm 1 vùng đất đai
rộng lớn: miền Nam bán đảo Ban Căng thuộc châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgiê,
và ven biển của bán đảo Tiểu Á.
TK X TCN, xã hội CXNT ở Hy Lạp tan rã cùng với nó là sự ra đời của
xã hội CHNL.
+
Sự xuất hiện công cụ kim loại đã làm cho sản xuất pt, tạo ra nhiều của
cải vật chất trong xã hội -> Tư hữu -> xuất hiện giai cấp.
+
Nền kinh tế pt: nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), thủ công nghiệp,
thương nghiệp…-> TK V TCN, xh CHNL đạt đến mức độ hoàn thiện -> nhiều nhà
nước xuất hiện: 360 thành bang (Aten, Spác,…) (Aten chủ yếu pt thương nghiệp ->
là nhà nước chủ nô dân chủ), (Spác chủ yếu pt nông nghiệp -> nhà nước chủ nô quý
tộc).
Triết học hình thành vào khoảng TK VI TCN trên cơ sở kinh tế là
quyền sở hữu của chủ nô đối với TLSX và người nô lệ; xh có sự phân chia giai cấp;
có sự phân công lao động trí óc và lao động chân tay -> hình thành 1 bộ phận các
tri thức triết học và khoa học, phá vỡ ý thức thần thoại và tôn giáo nguyên thủy.
Mặt khác, chính lối tư duy có bài bản của thần thoại HL là 1 trong những yếu tố
quan trọng hình hành triết học nơi đây.
Sự pt của NN, thủ CN, thương nghiệp, hàng hải -> sự pt của toán học,
thiên văn học, khí tượng, vật lý…Do thời kỳ này khoa học chưa phân ngành, cho
nên đều được trình bày trong hệ thống triết học -> Triết học HL gắn liền với thực
tiễn và khoa học.
Do vị trí địa lý thuận lợi, giao lưu mật thiết với các nền văn hóa Ai


Cập, Lưỡng Hà cổ đại nên sự phát triển của triết học HL cổ đại có liên quan chặt
chẽ và chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương Đông cổ đại.

1


2.

Đặc điểm

Triết học HL cổ đại là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nô, bảo
vệ lợi ích của giai cấp chủ nô nhằm duy trì xã hội theo kiểu CHNL.
Khoa học tự nhiên và triết học gắn bó chặt chẽ với nhau, các nhà khoa
học tự nhiên đồng thời là các nhà triết học, các khái quát triết học thường tập trung
hướng về các vấn đề tự nhiên.
Nội dung cơ bản của triết học HL cổ đại là cuộc đấu tranh giữa CNDV
và CNDT, giữa quan điểm vô thần và hữu thần, giữa khoa học và tôn giáo (đây là
sự khác biệt cơ bản so với tư tưởng triết học Ấn Độ, Trung Quốc cổ đại), tiêu biểu
là cuộc đấu tranh giữa “Đường lối Hêmôcrít” và “Đường lối Platon”.
Tầng lớp chủ nô dân chủ đứng trên lập trường của CNDV, vô thần, đấu tranh
thúc đẩy xã hội pt, còn tầng lớp chủ nô quý tộc đứng trên lập trường duy tâm và tôn
giáo, lạc hậu, chống lại tầng lớp chủ nô dân chủ nhằm duy trì trật tự và địa vị xã hội
của mình.
Triết học HL cổ đại đã đặt ra và giải quyết hầu hết các vấn đề triết học
căn bản chứa đậy mầm mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này (quan niệm
thế giới quan, quan niệm con người, quan điểm về sự vận động xã hội, mầm mống
CNDV, CNDT…)
Tính mộc mạc, chất phác và tính sơ khai, tự phát là đặc trưng của triết
học HL cổ đại, đặc điểm khác đối với các hệ thống triết học duy vật và biện chứng.
-


Triết học HL cổ đại chia thành 3 thời kỳ chính:

+
Thời kỳ hình thành chế độ CHNL (Talet, Hêracrít, Pitago,
Xênôphan,..).
+

Thời kỳ phồn vinh của chế độ HL (Đêmôrít, Xôcrát, Platon, Arítxtốt)

+
Thời kỳ tan rã của chế độ HL (Triết học Êpiquya, trường phái Platon
mới, trường phái hoài nghi, chủ nghĩa khắc kỷ).
3.

Đánh giá

Nó không chỉ là cái phân biệt giữa 2 nền triết học Đông – Tây cổ đại
mà còn tác động tới các giai đoạn pt của triết học Tây Âu sau này.
2


Nó còn nói lên vị trí, vai trò của nền triết học HL cổ đại đối với lịch sử
triết học thế giới.
Câu 2: Làm rõ cuộc đấu tranh giữa triết học Đêmôcrít và triết học Platon
trong lĩnh vực Bản thể luận.
1.

Giới thiệu
1.1.


Đêmôcrít

Đêmôcrít (460 – 370 tr.CN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân
chủ ở Hy Lạp. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học,
ngôn ngữ học và âm nhạc... Ông được Mác và Ăngghen coi là bộ óc bách khoa đầu
tiên của người Hy Lạp cổ đại.
Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại. Thuyết
nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra ông còn
có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức. Triết học của ông thể hiện tinh
thần của giới chủ nô dân chủ có tư tưởng cấp tiến trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Hầu hết các tác phẩm của ông đã bị tiêu hủy, các tư tưởng của ông đều
được biết thông qua các nhà tư tưởng khác, chẳng hạn một số tư tưởng trong Luận
văn “Về bản chất con người”, “Bàn về lôgic học”.
1.2.

Platon

Platon (427 – 347 tr.CN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc
ở Aten, là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời cổ đại,
người mà theo Hêghen có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng, tới
văn hóa tinh thần của nhân loại, “Nếu có ai đó là người thầy đầu tiên của nhân loại
thì người đó là Platon và Arítxtốt”.
Ông là học trò của Xôcrát (470-399 tr.CN), 1 trong 7 vị hiền triết HL
cổ đại. Ông để lại nhiều tác phẩm như: 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học
(Teitet, Timei, Parmenit). Đặc biệt tác phẩm “Nước cộng hòa” có vị trí đặc biệt
quan trọng trong triết học của ông. Ông là người tôn sùng toán học.
Khi thầy Xôcrát của Platon bị chết bởi phán quyết của nền dân chủ
Aten, Platon trở nên thù ghét quần chúng. Từ đó ông chủ chương diệt tận gốc chế
độ dân chủ, thay vào đó là 1 chính thể do những nhà quý tộc điều hành.

3


2.

Khái niệm Bản thể luận

Trong triết học, bản thể luận, xuất phát từ tiếng Hy Lạp Οντολογία có nghĩa
bộ môn nghiên cứu về sự tồn tại và hình thành nên cơ sở của bộ môn siêu hình học.
Bản thể luận tìm cách mô tả phạm trù tồn tại và các mối quan hệ của phạm trù tồn
tại để xác định nên thực thể và các kiểu thực thể bên trong khuôn khổ của tồn tại.
Bản thể luận hình thức, là một bộ môn triết học chủ yếu giải quyết vấn đề sử
dụng từ ngữ một cách chuẩn xác để làm tốt vai trò mô tả thực tại hay thực thể. Bản
thể luận luôn phải chỉ rõ những từ ngữ nào dùng để chỉ những thực thể nào, những
từ ngữ nào không, tại sao, và phạm trù kết quả là thế nào. Vì thế bản thể luận còn là
cơ sở nền tảng cho nhiều chuyên ngành triết học khác.
Một luận đề cơ bản của bản thể luận là: "Cái gì tồn tại?" Các nhà triết học
khác nhau có các câu trả lời khác nhau cho cùng một câu hỏi trên.
3. Phân tích
3.1.

Đêmôcrít: Học thuyết nguyên tử

Ông cho rằng, thế giới được tạo thành bởi nguyên tử, chân không. Ông
đã phát triển thuyết nguyên tử của Lơxíp – người thầy của ông – lên trình độ mới.
+ Nguyên tử là hạt vật chất nhỏ nhất, vững chắc nhất, không phân chia được,
không nhìn thấy được, không màu, không mùi, không vị, không âm thanh và tồn tại
vĩnh viễn. Thế giới có vô vàn các nguyên tử.
+ Chân không (theo vật lý) là 1 khoảng không gian nào đó, không chứa bất
kỳ cái gì, kể cả không khí. Đêmôcrít thì quan niệm rằng, chân không là 1 khoảng

không rỗng, trong đó các nguyên tử hoạt động. Các nguyên tử vận động không
ngừng trong chân không. Các nguyên tử tự thân vận động.
+ Các nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về lượng, hình thức (cấu
tạo), về tư thế (xoay trở) và về trật tự (kế tiếp).
+ Sự hình thành, tan rã và sự khác nhau của các sự vật, hiện tượng là do sự
kết hợp hay tách ra của các nguyên tử theo những cách thức khác nhau và phụ
thuộc vào sự khác nhau của các nguyên tử.
Trong quan niệm về vũ trụ của ông cũng không có chỗ cho thần thánh.
Trong đó chỉ có những nguyên tử vận động theo những cơn lốc xoáy. Các nguyên
4


tử cùng loại cố kết với nhau làm thành những vòng lớp nguyên tử, càng nặng càng
ở gần tâm, càng nhẹ càng ở xa tâm. Đất, nước, lửa, không khí là những vòng ở
trung tâm cơn lốc. Từ đó hình thành các hành tinh và trái đất.
Nhìn chung ông có quan điểm duy vật khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học.
3.2.

Platon: Học thuyết ý niệm

Theo Platôn vũ trụ này có hai thế giới là thế giới ý niệm và thế giới
của các sự vật cảm tính (hay cảm biết được bằng giác quan).
+ TG ý niệm: Đứng trên lập trường duy tâm thần bí, Ông khẳng định rằng,
bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, mà ông gọi là “những ý tưởng có
trước”, một thế giới trừu tượng, bất biến, tĩnh tại, đông lạnh, không có sự sống. Chỉ
có chúng mới tồn tại chân thực.
Linh hồn là do thánh tạo ra, có động cơ (“thần tình ái”) và mục đích rõ ràng.
Động cơ và mục đích đã khuyến khích các ý niệm vận động rồi in dấu ấn vào
“không tồn tại”, “hư vô” – cái mà ông gọi là “vật chất” – theo những “tương quan

toán học”, những “hòa điệu” khác nhau mà sinh ra giới tự nhiên – “thế giới các sự
vật cảm tính” muôn hình, muôn vẻ, xấu, đẹp khác nhau.
Ví dụ: từ ý niệm “nhà” sinh ra những cái nhà cụ thể. Từ ý niệm “cây” sinh ra
những cây cụ thể…
+ TG sự vật cảm tính: Thế giới các sự vật cảm tính chỉ là sản phẩm của “thế
giới ý niệm”, chỉ là “cái bóng” của chúng nên nó là “tồn tại không chân thực”. Vì
mọi cái trong nó luôn biến đổi, có sinh ra, có mất đi, nó chỉ là cái bóng của thế giới
ý niệm, do thế giới ý niệm quyết định. Ý niệm của Platôn như là khuôn mẫu để thế
giới các sự vật cảm tính mô phỏng theo.
Như vậy, ông đã có tư tưởng duy tâm khách quan về thế giới, cả hai thế giới
này theo ông đều là sản phẩm của thần.
TG ý niệm được tổ chức theo 1 trật tự đẳng cấp, chặt chẽ. Những ý
niệm đó không tồn tại một cách vô trật tự, hỗn độn.
+ Ý niệm mức thấp nhất: Ý niệm một sự vật cụ thể.
5


+ Ý niệm mức cao nhất: Ý niệm phúc lợi. là ý niệm mọi ý niệm, soi rọi cho
mọi ý niệm, quyết định mọi ý niệm khác.
4.

Đánh giá
-

Trái ngược ntn?

Thông qua cuộc đấu tranh duy vật và duy tâm -> khiến 2 trào lưu luôn
luôn phải nhìn lại mình và tiếp tục phát triển.
Câu 3: Làm rõ cuộc đấu tranh giữa triết học Đêmôcrít và triết học Platon
trong lĩnh vực nhận thức luận.

1.

Giới thiệu

2.

Khái niệm Nhận thức luận

Bộ phận trọng yếu của triết học chuyên nghiên cứu về nguồn gốc và giá trị
về nhận thức của con người đối với thế giới.
3.

Phân tích
3.1.

Đối tượng nhận thức

Đêmôcrít: Đối tượng nhận thức là thế giới khách quan. Mục tiêu của
nhận thức là đạt tới bản chất của sự vật.
Platôn: Đối tượng, mục tiêu của nhận thức là “thế giới ý niệm”, linh
hồn (Khi thể xác mất đi, linh hồn bay ra đến thế giới ý niệm. Ngoài thể xác, linh
hồn có cuộc sống riêng của mình. Khi có thể xác mới, linh hồn bay vào thể xác đó
nhưng không nhớ quá khứ. Linh hồn hồi tưởng, nhớ lại những gì đã có trong quá
khứ).
3.2.

Nhận thức là gì?

Đêmôcrít: nhận thức là quá trình xem xét thế giới khách quan xuất
phát từ cảm giác: từ cảm tính đến lí tính.

Platon: nhận thức là sự hồi tưởng, hồi ức, sự nhớ lại những gì mình đã
có trước đó.
3.3.

Mqh 2 quá trình nhận thức
6


-

Đêmôcrít đề cao cảm tính, quá trình nhận thức là từ cảm tính đến lí

tính.
+ Cảm tính (mờ tối): chỉ đem lại cho con người những thuộc tính riêng lẻ, bề
ngoài, nhưng chưa đi vào bên trong sự vật.
+ Lí tính: sử dụng tư duy -> hiểu được những thuộc tính bên trong của sự
vật, cắt nghĩa được bản chất của sự vật.
Platon: tuyệt đối hóa nhận thức lý tính. Ông cho rằng, nhận thức cảm
tính chỉ là những “tưởng tượng”, những “kiến giải” về “cái bóng của ý niệm” nên
nó không chân thực. Chỉ có lý tính ở trình động “trực giác trí tuệ” mới thấy được “ý
niệm”, đó mới là chân thực. Không cần cảm giác, chỉ cần các thao tác của tư duy,
ngẫm nghĩ xem mình đã có gì.
3.4.

Quá trình nhận thức đạt tới chân lý.

Đêmôcrít: quan tâm lôgic hình thức, Coi lôgic là công cụ của nhận
thức, nhấn mạnh phương pháp quy nạp nhằm vạch ra bản chất của giới tự nhiên ->
chân lý.
-


Platon: phương pháp biện chứng: hỏi + đáp -> linh hồn nhớ lại quá

khứ.
4. Đánh giá

Câu 4: Làm rõ tư tưởng biện chứng chủ yếu của Hêraclit
1.

Giới thiệu

Hêraclit (khoảng 540-475 TCN) xuất thân từ nhà nước thị thành Ephec
thuộc vùng Tiểu Á của Hy Lạp và thuộc hoàng tộc Côdoridop. Ông sống trong thời
kỳ lịch sử căng thẳng của các nhà nước thị thành Hy Lạp, khi mà dân thường đã
dành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh gay gắt với tầng lớp quý tộc dòng dõi.
Ông trưởng thành và sự nghiệp sáng tác của ông rơi vào giai đoạn đầu
của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm trọng đại của lịch sử
Plada cổ đại.

7


Học thuyết của Hêraclit, phép biện chứng của ông nói riêng ở một
chừng mực nào đó là sự xem xét về mặt triết học các sự kiện lịch sử và các chuyển
biến xã hội diễn ra ở thời kỳ đó.
Hêraclit được xem là ông tổ của phép biện chứng. Ông giữ vị trí trung
tâm trong lịch sử phép biện chứng (PBC) Hy Lạp cổ đại. Các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác-Lênin đã dành cho học thuyết của Hêraclit cụ thể là cho PBC của ông sự
đánh giá rất cao. Lênin coi ông là “một trong những người sáng lập ra PBC”. Trong
bảng tóm tắt cuốn “Những bài giảng về lịch sử triết học” của Hêghen, Lênin lưu ý,

chính Hêghen cũng thừa nhận Hêraclit có ảnh hưởng đến ông. Lênin cũng thừa
nhận PBC của Hêraclit có tính chất khách quan. Trong các luận điểm biện chứng cơ
bản của Hêraclit đặc biệt quan trọng là tư tưởng về sự thống nhất (hài hòa) và đấu
tranh giữa các mặt đối lập.
“Không ai tắm 2 lần trên 1 dòng sông”
“Sự vật vừa là nó vừa là cái khác” -> sự vận động, biển đổi liên tục.
2. Tư tưởng biện chứng
2.1. Logos (quy luật) với tư cách là sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh
giữa các mặt đối lập
Lần đầu tiên được Hêraclit sử dụng với tư cách là một trong các khái
niệm triết học cơ bản và trở nên rất phổ biến trong toàn bộ triết học cổ đại, đó là
thuật ngữ “Logos”. Ở người Hy Lạp “Logos” tùy thuộc vào văn cảnh ngôn ngữ đã
có ý nghĩa rất khác nhau. Hêraclit cũng đưa vào “Logos” nội dung không như nhau,
chẳng hạn trong một câu nói của Hêraclit “Logos” có nghĩa là sự thống nhất của
mọi cái hiện hữu.
Sự thống nhất ở đây có nghĩa là sự đồng nhất, hài hòa giữa các mặt đối
lập. Theo Hêraclit, ngày và đêm, thiện và ác… không phải là một – đó là điều mà ai
cũng hiểu. Song có điều ngày và đêm, thiện và ác, cũng như mọi mặt đối lập tạo
thành một chỉnh thể thống nhất thì ít ai hiểu: vì ngày – đêm, mùa hè – mùa đông,
chiến tranh – hòa bình… là nối tiếp nhau tạo thành tính chu kỳ và lặp lại nhất định
nhưng người ta lại không hiểu được rằng bản thân tính chu kỳ và tính lặp lại đó
được quy định bởi sự thống nhất, hòa hợp giữa các mặt đối lập, tức là bởi “logos”
phổ biến.
8


Khi coi lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên tố vật chất đầu tiên của
mọi dạng vật chất, toàn bộ thế giới hay vũ trụ chẳng qua chỉ là sản phẩm biến đổi
của lửa “hết thảy mọi sự vật đều chuyển hóa thành lửa, lửa cũng chuyển hóa thành
hết thảy sự vật”. Hêraclit đã đi đến quan niệm về tính thống nhất của vũ trụ, ông

cho rằng vũ trụ - cái thế giới mà conngười đang sống trong đó thống nhất ở một cái
duy nhất là ngọn lửa vĩnh hằng, bất diệt. Sự thống nhất ấy của vũ trụ được Hêraclit
hình dung như là sự lan tỏa hương vị với nồng độ khác nhau trong khói thuốc từ
một điếu thuốc đang được đốt cháy bởi lửa. Đánh giá quan niệm này của Hêraclit,
Lênin coi đó là “một sự trình bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng”.
Trong quan niệm của Hêraclit “chiến tranh” hay “đấu tranh” là một
trong các hình ảnh – khái niệm quan trọng nhất của ông. Ông gọi chiến tranh là cha
đẻ và hoàng đế của mọi thứ hiện tồn. Chiến tranh có thể biếnbmột số người trở
thành thần thánh, số khác là người; nó biến một sốnbgười thành nô lệ, số khác là
người tự do. “Chiến tranh” vừa là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập vừa là
sựbthống nhất của chúng. Cuộc đấu tranh không những là sự đối lập mà cònblà sự
liên hệ giữa các mặt đối lập. Hêraclit còn cho rằng đấu tranh làbnguồn gốc của mọi
cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là một mặt trong“sự sống” của mọi cái đang
diễn ra. Mặt khác trong “sự sống” ấy là tính hòa hợp, tính có trật tự, tính hài hòa.
Một chỉnh thể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối lập của nó, giống
như cái ác bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối lập của nó là cái thiện, cái chết với
mặt đối lập của nó là cái sống và ngược lại.
Khi nói tới chiến tranh hay đấu tranh với tư cách là nguồn gốc của mọi sự
vận động và biến đổi, Hêraclit cũng nói tới chiến tranh chính nghĩa “chiến tranh là
phổ biến, chính nghĩa tức là chiến tranh”. Đề cao chiến tranh và đấu tranh coi chiến
tranh như ông hoàng, song Hêraclit cũng kêu gọi con người đừng có quá kiêu hãnh
về chiến tranh. Ông cũng luôn cho rằng chiến tranh và đấu tranh một khi vượt quá
“độ”, bất chấp “sự công bằng”, “tính hợp lý” của vũ trụ sẽ bị chính vũ trụ trừng
phạt.
Quan niệm của Hêraclit về chiến tranh chính là quan niệm của ông về sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập với tư cách là nguồn gốc của mọi cái đang diễn ra trong
vũ trụ. Nếu vũ trụ là cái có thật tự, luôn vận động, biến đổi theo logos của nó và
trong vũ trụ ấy “vạn vật ra đời đều dựa vào logos của nó” thì đấu tranh giữa các
mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng phải diễn ra trong khuôn khổ của logos,

9


chứ không phải trong khuôn khổ của các vô trật tự của thói tùy tiện vốn mâu thuẫn
với logos của vũ trụ.
2.2.

Sự thống nhất của Logos khách quan và logos chủ quan.

Hêraclit là người đầu tiên đã đặt vấn đề nhận thức luận về quan hệ
giữa logos chủ quan và logos khách quan của mình tức là khả năng thống nhất của
chúng. Hêraclit cho rằng logos thế giới con người (chủ quan) có đủ khả năng để
phù hợp với logos thế giới (khách quan) mặc dù điều đó diễn ra không phải thường
xuyên và hoàn toàn không phải ở mọi người. Hêraclit phàn nàn rằng dù liên hệ,
giao tiếp trực tiếp và thường xuyên với logos khách quan và chi phối mọi sự vật
nhưng logos đó vẫn xa lạ đối với nhiều người thường xuyên va chạm với nó, xong
nhiều người vẫn không hiểu được nó. Mặc dù vậy, logos khách quan về thực chất là
thống nhất, là giống nhau và ở một chừng mực nào đó là đồng nhất.
Quan niệm của Hêraclit về logos chủ quan một cách vận động chứ
không phải đứng im. Chỉ nhờ tính tích cực này con người mới có thể có lối thoát ra
thế giới sinh vật bên ngoài. Dấu hiệu cơ bản về tính sáng suốt đích thực của con
người theo Hêraclit là ở việc nhận thức được logos của tồn tại, là nhận thức được
sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Hêraclit đã vạch ra một cách rất độc đáo sự
thống nhất mâu thuẫn giữa logos và sự đa dạng của các sinh vật, biện chứng của cái
đơn nhất vàcác số nhiều nói chung. Trên thực tế logos là phổ biến, vốn có ở sinh
vật nhưng đồng thời về một phương diện nào đó lại nằm ở bên ngoài chúng. Đặc
trưng của Hêraclit là ý muốn thể hiện bản chất mâu thuẫn của logos khách quan qua
logos chủ quan của tâm hồn con người.
2.3.


Học thuyết về dòng chảy

Dựa vào việc nghiên cứu tự nhiên bằng quan sát trực tiếp và căn cứ
vào những kinh nghiệm cảm tính, Hêraclit đã khái quát thành một kết luận nổi
tiếng về vật chất vận động: “Mọi sự vật đều trôi đi, chảy đi, không có cái gì tồn tại
mà lại cố định”; rằng “không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông bởi vì nước
mới không ngừng chảy trên sông” ngay cả “mặt trời cũng mỗi ngày một mới”. Với
quan niệm về vận động này, nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã coi Hêraclit là
nhà “triết học vận động”và gọi thuyết của ông là “thuyết về dòng chảy”.
Nếu các nhà triết học thuộc trường phái Mile chú ý nhiều về kết cấu
vật chất thì Hêraclit lại chú ý nhiều về vận động. Hình ảnh về ngọn lửa cũng là hình
10


ảnh sống động. Tán thành quan niệm này của Heraclit, Hêghen đã lý giải “lửa là
thời gian vật lý, nó là sự không yên tĩnh tuyệt đối”. Hêghen còn nhận xét:
“Hêraclit nói: Tất cả đều là sinh thành, sinh thành ấy là nguyên tắc cái đó bao
trong thành ngữ, cái tồn tại không hơn gì cái không tồn tại”. Quan niệm về sự vận
động vĩnh viễn của vật chất hay học thuyết về “dòng chảy” chính là nguyên lý xuất
phát trong quan niệm của Hêraclit về vũ trụ là học thuyết xuyên suốt của ông.
Ở Hêraclit không những dòng sông mà cả mặt trời cũng thường xuyên
và liên tục đổi mới, nhưng mặt khác ông lại cho rằng không có gì ổn định và bất
biến hơn là dòng sông luôn chảy và hơn mặt trời luôn chiếu sáng. Tính biến đổi của
dòng sông không loại trừ sự đứng im, là cái mà nhờ đó dòng sông là xác định, ổn
định và bất biến, cũng như vậy chúng ta có thể nói rằng sự đứng im và tính xác
định của dòng sông không loại trừ sự vận động (chảy) của nó. Hêraclit thừa nhận
sự thống nhất mâu thuẫn của vận động và đứng im, sinh thành và hiện hữu chứ
không phải là ở việc thừa nhận sự vận động là nhờ có sự hy sinh của đứng im.
-> Đóng góp cơ bản của Hêraclit trong lịch sử PBC là cách trình bày đầu tiên
về quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập. Ông đã cố thể hiện bản chất mâu thuẫn

của các sự vật trong logos chủ quan và chỉ ra sự thống nhất biện chứng của nhận
thức và biện chứng của thế giới. Trên con đường đó ông đã vấp phải các trở ngại
mà đến nay vẫn chưa khắc phục hoàn toàn. Đó là vấn đề khả năng phản ánh bản
chất mâu thuẫn của các sự vật, kể cả bản chất mâu thuẫn của vận động vào logic
của các khái niệm.
2.4.

Quan niệm của con người

Trong lịch sử triết học Hy Lạp, Hêraclit không chỉ được coi là người
sáng lập ra PBC mà còn là người có quan niệm độc đáo về con người. Trong quan
niệm về con người theo Hêraclit, con người có 2 mặ tđối lập là lửa và ẩm ướt, lửa
sinh ra linh hồn. Nếu người nào đó có nhiều yếu tố lửa thì người ấy là người tốt vì
linh hồn người ấy khô ráo, sạch sẽ. Còn người nào có nhiều yếu tố ẩm ướt là người
xấu và trong con người luôn có sự đấu tranh và chuyển hóa dưới 2 mặt: bệnh tật và
sức khỏe, cái thiện và cái ác, cái đói và cái no, cái mệt mỏi và cái thú vị “Trong con
người chúng ta, sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, trước và sau đều là một, cái
sau biến hóa thành cái trước, cái trước biến hóa trở lại thành cái sau”, “mọi vật sinh
ra duy nhất, duy nhất sinh ra mọi vật”.

11


Tính tương đối của nhận thức: “Tùy từng điều kiện hoàn cảnh mà
thiện – ác, tốt – xấu,..có thể chuyển hóa cho nhau”
Tính cụ thể của nhận thức: “Bò quý rơm hơn vàng”; “Nước biển là
sạch nhất, là bẩn nhất”; “Con khỉ cho dù đẹp nhất cũng chỉ là xấu nhất so với con
người”.
=> Sự vật vận động không ngừng, “Sự vật vừa là nó, vừa là cái khác”
=> mọi sv trong TG đều bao hàm trong nó các mặt đối lập.

=> Các mặt đối lập của sự vật luôn bổ sung cho nhau: “Bệnh tật làm cho
sức khỏe quý hơn”, “Cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn”, “Mệt mỏi làm cho nghỉ
ngơi sung sướng hơn”, “Cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn”.
=> Các mặt đối lập còn chuyển hóa cho nhau, từ đó làm cho sự vật biến
đổi: cái nóng thì lạnh đi, cái lạnh thì nóng lên.
3.

Đánh giá

Hêraclit – nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người không chỉ nổi tiếng với học
thuyết về “dòng chảy” mà còn trở lên bất hủ với quan niệm độc đáo về sự hài hòa
và đấu tranh của các mặt đối lập, về tính thống nhất của vũ trụ, là học thuyết xuyên
suốt toàn bộ hệ thống triết học của ông. Song cái làm nên nét độc đáo, sự khác biệt
rõ ràng nhất giữa Hêraclit với các nhà triết học trước ông và cùng thời đại với ông
lại không phải là học thuyết về “dòng chảy” hay quan niệm về sự vận động vĩnh
viễn của vật chất mà là quan niệm độc đáo của ông về sự hài hòa, đấu tranh của các
mặt đối lập trong vũ trụ và tính thống nhất của vũ trụ ấy. Quan niệm đó được coi là
phỏng đoán thiên tài của Hêraclit về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập, bới vậy trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại được coi là người sáng lập
PBC.
Câu 5: Làm rõ những nội dung chủ yếu trong học thuyết tồn tại của Aritxtốt
1.

Giới thiệu

Aristotle sinh năm 384 TCN, tại Stagira, cách Thrace 300 km về phía
Bắc, là thuộc địa của xứ Macedon. Ông là một triết gia vừa là nhà khoa học lại vừa
là nhà vật lý Hy Lạp. Cũng như Platon từng là học trò của Socrates, Aristotle cũng
là học trò của Platon. Cha là quan ngự y nổi tiếng của triều đình Macedonia nên từ
12



nhỏ, Aristotle đã được học về thiên nhiên và sinh vật qua quan sát cũng như qua
các tài liệu y học của phụ thân. Niềm say mê sinh vật học và khoa học có thể nảy
nở từ hồi ông còn nhỏ tuổi.
Năm 17 tuổi (367 TCN), Aristotle đến Athens để theo học tại trường
Academy (Hàn Lâm Viện) dưới sự hướng dẫn của Platon trong suốt 20 năm và
nghiên cứu đủ mọi ngành học thuật từ toán học, văn học, sinh vật học cho đến triết
học. Có thể nói Aristotle không chỉ là một sinh viên mà đã trở thành trợ giáo của
Platon tại Học Viện. Aristotle chú trọng đặc biệt đến siêu hình học (metaphysics)môn học nghiên cứu về “ý tưởng”, những gì bên ngoài và ở bên kia thực tại, không
phụ thuộc vào giác quan - cùng thiên văn học và chính trị học. Trong thời gian này,
ông viết nhiều đối thoại được tán dương và rất hùng hồn. Năm 347, ông sang ở
Tiểu Á và Mitilena, Leobos. Năm 342, ông được vua Philip xứ Macedonia mời làm
gia sư cho hoàng tử Alexander, người về sau trở thành Đại đế.
Năm 335, Aristotle quay lại Athens, mở trường Lyceum (Cao Đẳng),
được Alexander Đại đế hỗ trợ, ông lập thảo cầm viên đầu tiên của loài người để
làm cơ sở học hỏi. Tại đây Aristotle và các học trò đi bách bộ dọc con đường
Peripatos rợp bóng cây 2 bên, vừa đi vừa bàn luận triết học, vì thế trường phái của
ông được mệnh danh là trường phái Tiêu dao (Peripatetic). Tại đây ông cũng đã
thành lập thư viện lớn đầu tiên bằng cách sưu tập hàng trăm thủ bản, bản đồ và vật
mẫu, được ông sử dụng trong khi giảng dạy. Aristotle làm hiệu trưởng của trường
Lyceum trong 12 hay 13 năm, thời gian này không chỉ giảng dạy và thuyết trình,
nhưng trên hết là hình thành các ý niệm chính của ông về việc phân loại các ngành
khoa học, mạnh bạo thiết lập một khoa lôgíc mới, và viết ra các ý niệm tiến bộ của
ông về mọi lĩnh vực chính của triết học và khoa học.
Khi hoàng đế Alexander mất năm 323 TCN, một làn sống chống người
Macedonia nổi dậy, Aristotle bị kết tội không sùng bái thần linh (vô đạo), để tránh
cho người Athens khỏi phạm tội lần thứ 2 chống lại triết học, nên ông đã bỏ
Lyceum và trốn đi Chalcis, ông qua đời tại đây năm 322 TCN, do chứng bệnh tiêu
hóa kéo dài, thọ 62 tuổi.

Sự nghiệp sáng tác của Aristotle thật đồ sộ với hơn 150 tác phẩm về
nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài triết học ông còn thâm nhập vào hầu như tất cả
các nghành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, để lại nhiều công trình có giá trị.
Những sáng tác của Aristotle thuộc về ba nhóm khoa học chính:
13


+ Nhóm các khoa học lý thuyết, lấy tri thức làm đối tượng, gồm siêu hình
học (triết học đệ nhất), vật lý học (triết học đệ nhị), toán học, lôgíc học.
+ Nhóm các khoa học thực tiễn, lấy hành động làm đối tượng, gồm đạo đức
học, chính trị học, kinh tế học.
+ Nhóm các khoa học sáng tạo, lấy những gì hữu ích và gây ấn tượng do con
người sáng tạo ra làm đối tượng, gồm nghệ thuật, thi ca, các khoa học ngôn ngữ,
các hoạt động có tính chất kỹ thuật.
Đối với triết học đệ nhất là những gì tồn tại đằng sau tự nhiên hữu
hình. Tự nhiên ở Aristotle không đồng nhất với thực tại. Thực tại rộng hơn tự
nhiên, tự nhiên chỉ là một phần của thực tại. Siêu hình học nghiên cứu những bản
chất, hay của thực thể; ngược lại vật lý học, tức triết học đệ nhị, nghiên cứu những
nguyên nhân vật chất năng động của toàn bộ sự vật hữu hình; còn toán học nghiên
cứu những vật bất động. Triết học đệ nhất được nâng lên cấp độ khoa học về tinh
thần, nhưng rộng hơn cả thần học, vì nó bao quát toàn bộ nguyên nhân và bản chất
của thực tại, với tính cách đó nó cũng lại là khoa học về tồn tại.
=> Có thể hình dung trình tự nghiên cứu của triết học Aristotle như sau: đầu
tiên là logíc học như nhập môn vào các khoa học khác; tiếp theo vật lý học tìm hiểu
tự nhiên vô cơ, hữu cơ và đời sống con người; thứ ba là siêu hình học nghiên cứu
bản chất tồn tại; cuối cùng là đạo đức học và các khoa học ngôn ngữ văn chương…
2. Thuyết tồn tại
2.1.

Phê phán Platon


Aritote phê phán Platon trong vấn đề bản thể luận khi Platon chia thế
giới làm hai, “học thuyết ý niệm”. “Platon là thầy nhưng chân lý vẫn quý hơn”, ông
cho rằng ý niệm của Platon là không có lợi cho nhận thức của con người, vì nó
thuộc về thế giới bên kia – là cái phi thực thể, dựa vào nó con người không thể
nhận thức được thế giới bên ngoài. Thế giới ý niệm của Platon là thế giới đóng kín,
biệt lập, do đó không giải thích được 1 thuộc tính quan trọng của thế giới là sự vận
động.
Ông cho rằng: bản chất của sự vật không thể thuộc về thế giới ý niệm
bên ngoài sự vật. Nó phải nằm trong sự vật, từ đó ông cho rằng những khái niệm,
quy luật, không thể quy định sự tồn tại của sự vật, ngược lại chính sự tồn tại của sự
14


vật được phản ánh thông qua những khái niệm. Đây là tư tưởng duy vật đầu tiên
xuất hiện trong tư duy lí luận của Aritote. Thế nhưng ông không hoàn toàn đồng ý
với quan niệm của các nhà duy vật, khi giải thích về thế giới. Vì thế ông càng đi sâu
vào thuyết nguyên nhân thì ông càng lập lại tư duy, duy tâm của Platon đã đi qua.
->

Ông là 1 nhà nhị nguyên

2.2.

Quan niệm về thế giới

Nguồn gốc thế giới là thực thể vật chất. Các sự vật khác nhau chỉ là
những hình thức khác nhau của thực thể vật chất đó (quan điểm duy vật).
Vận động: là 1 cái gì đó nói chung đang biến đổi. Có 6 dạng vận động:
vận động dịch chuyển vị trí (bên ngoài), số lượng, chất lượng, trạng thái, tính chất

(vđ bên trong),… (MLN: vận động là mọi sự biến đổi nói chung)
-

Lý thuyết hình dạng (học thuyết 4 nguyên nhân)

+ Sự vật ra đời từ 4 nguyên nhân: hình dạng (hình thức), mục đích, vật chất,
tác động (vận động).
+ Sau đó, với quan niệm mục đích và vận động có sẵn trong hình dạng nên
chỉ còn 2 nguyên nhân: hình dạng và vật chất.
-> Ông khẳng định, nguyên nhân hình dạng là nguyên nhân có tính quyết
định sự ra đời của các sự vật. Nguyên nhân vật chất chỉ đóng vai trò thụ động, tồn
tại khả năng, tiềm năng.
-> Hình dạng là nguyên nhân đi trước, có vai trò tích cực.
-> Vật chất là nguyên nhân thụ động.
=> Quan niệm, có những hình dạng có trước sự vật, tồn tại ở đâu đó, mọi sự vật
ra đời trên cơ sở khuôn theo những hình dạng đó.
=> Ông rơi vào quan điểm “mục đích luận” – mọi sự vật ra đời đều phải có mục
đích trước.
=> Duy tâm. Sự vật ra đời do 4 nguyên nhân ông đưa ra chỉ là sự vật nhân tạo
do con người tạo ra, sự vật trong thế giới tự nhiên không như thế -> sai lầm của
Aritxtot.
15


2.3.

Hình thức của linh hồn

-


Linh hồn thực vật: sinh dưỡng, sinh trưởng. VD: cây cối,…

-

Linh hồn động vật: linh hồn của thực vật + biết vui, buồn, bộc lộ cảm

xúc.
Linh hồn lý tính (tồn tại vĩnh viễn): con người, thượng đế. Nó bao
gồm cả 2 linh hồn trên.
3.

Đánh giá

Sau Aritxtot, triết học bước vào triết học hoài nghi nên có giá trị không đáng
kể -> nghiên cứu triết học HL cổ đại kết thúc.
Đây là nền triết học diễn ra hơn nghìn năm, để lại nhiều giá trị. Những tư
tưởng triết học mang tính thời sự cho đến cả hiện tại. Và nó là viên gạch, nền móng
vững chắc cho triết học hiện đại.
Câu 6: Làm rõ những nội dung chủ yếu của triết học Tây Âu thời kỳ phong
kiến.
Triết học thời kỳ phong kiến ở Tây Âu từ khoảng TK IV đến TK XVI.
1.

Hoàn cảnh ra đời

TK IV, chế độ CHNL tan rã (476) -> sự ra đời của xã hội phong kiến
với các giai cấp giai cấp mới – giai cấp phong kiến, giai cấp nông nô,…
-

Kinh tế: xã hội tập trung phát triển nông nghiệp.


->

Xã hội trì trệ, lạc hậu, kém phát triển, diễn ra trong nhiều thế kỷ.

->

Trung tâm văn minh xã hội chuyển về các vùng nông thôn.

->

Xã hội buồn tẻ, lạc hậu.

-

Mỗi vùng lãnh địa có 1 vị lãnh chúa -> quản lý cát cứ.

Tôn giáo: Đạo cơ đốc là 1 tổ chức giáo hội, chiếm 1/3 ruộng đất trong
xã hội. Đầu công nguyên, xã hội HL thoái trào -> cuộc sống của người dân vô cùng
cực khổ, họ đứng lên đấu tranh, nhưng bị đàn áp dã man -> họ cảm thấy mất niềm
16


tin vào cuộc sống -> họ tưởng tượng ra 1 vị chúa, mong chúa cho họ 1 cuộc sống
tốt đẹp -> chúa Jesu ra đời. TK I, đó là tiếng nói của những người dân lao động.
Trước cuộc chiến tranh liên miên, chủ nô cảm thấy bất ổn -> chủ nô xin gia
nhập vào Đạo Cơ đốc, họ hiến đất đai, của cải cho giáo hội -> họ chiếm vị trí quan
trọng trong giáo hội. Họ thay đổi giáo lý của Đạo Cơ đốc -> nô dịch người nghèo.
->
Ở thời kỳ này, kinh thánh được xem như luật pháp. Xã hội bị thống trị

bởi vương quyền và thần quyền. Tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực đời sống của
xã hội, làm cho triết học, chính trị học, luật học biến thành các bộ môn của thần
học.
=> Triết học bị tri phối rất mạnh của thần học nên nó phải có tính kinh viện, đây là
nét đặc trưng tiêu biểu cho triết học thời kỳ này.
Từ TK XII, sản xuất hàng hóa, thương nghiệp, thủ công nghiệp khôi
phục lại -> hình thành đô thị -> chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo: thời kỳ Phục
Hưng.
Bêcơn.
2.

Những nhà triết gia tiểu biểu: Ôguýtxtanh, Tômát Đacanh, Rôgiơ

Những nội dung chủ yếu
2.1.

Triết học Kinh viện

Giữ vai trò chủ đạo. Là 1 triết học thuần túy sách vở, tách rời cuộc
sống, xa rời thực tiễn, xa lạ với mọi thực nghiệm khoa học. Nó diễn ra trong nhà
thờ, trường học của nhà thờ (tu viện). Các triết gia thời kỳ này đều là các triết gia
kinh viện. Gốc của nó là triết học Đạo Cơ đốc.
ND: bảo vệ kinh thánh. Chứng minh cho các tín đố tôn giáo: TG là do
Thượng đế sinh ra và an bài.
->
Tất cả các triết gia đều là các triết gia kinh viện: Ôquýtxtanh, T.
Đacanh, Rôgiê Bêcơn,… -> tin tưởng 1 cách nhiệt thành vào tôn giáo…
“Tôi tin bởi điều đó là phi lí” -> tuyên truyền niềm tin k có cơ sở vào những
điều phi lí.
“Cái đó là chân lý, bởi vì nó vô lí”

17


“Thượng đế tạo ra tất cả thì con người có tự do ý chí không?”. Có 2 câu trả
lời: “Có”, nghĩa là thượng đế không chi phối được con người; “không”, nghĩa là chỉ
làm theo ý chúa, sẽ không làm sai gì, vì vậy sẽ không cần chúa
->

phủ định sự tồn tại của chúa

->

con người có tự do ý chí nhưng phụ thuộc vào chúa.

2.2. Các nhà triết học đều đặt ra và giải quyết các vấn đề giữa cái chung
và các sự vật riêng lẻ
Chủ nghĩa duy danh (khuynh hướng duy vật): trong thực tế chỉ có các
sự vật riêng lẻ là tồn tại., không có cái chung, cái chung chỉ là sự thỏa thuận của
con người.
Chủ nghĩa duy thực (khuynh hướng duy tâm): phủ nhận sự tồn tại của
các sự vật riêng lẻ, chỉ có cái chung mới tồn tại, khi có cái chung, từ cái chung mới
sinh ra sự vật riêng lẻ.
=> Biểu hiện đặc thù của cuộc đấu tranh của CNDV và CNDT ở thời kỳ này là
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc
giải quyết các vấn đề trung tâm của triết học.
2.3. Các nhà triết học đều đặt ra và giải quyết mqh giữa khoa học và tri
thức với tôn giáo và niềm tin.
Trước TK XII, cho rằng tôn giáo và niềm tin cao hơn khoa hoc và tri
thức. KH chỉ nghiên cứu TG tự nhiên nhưng Thượng đế tạo ra tự nhiên -> KH
không bằng Thượng đế. Niềm tin tự thân vận động, không phải chứng minh, tri

thức mới phải chứng minh.
Sau TK XII, KH thực nghiệm. KH và tôn giáo độc lập với nhau. KH
đem lại cho con người 1 chân lý. Tôn giáo cũng đem lại cho con người 1 chân lý ->
hình thành tư tưởng “2 chân lý”.
3.

Đánh giá

Triết học thời kỳ này, chủ yếu phục vụ cho tôn giáo, cho nên giá trị không
nhiều, “triết học là đầy tớ của thần học”.
Tuy nhiên, vẫn có những giá trị:
18


-

Đảm bảo tính liên tục của triết học.

Tư tưởng triết học tuy yếu ớt nhưng từng bước bác bỏ triết học của
giáo hội và tôn giáo.
Làm nhạt đi đáng kể tính mộc mạc, chất phác, ngây thơ của tư tưởng
triết học cổ đại, chuẩn bị cho con người tư duy bước sang thời kỳ mới.

Câu 7: Làm rõ quan điểm của phái duy thực và phái duy danh, cho nhận xét
trên lập trường duy vật biện chứng
1.

Quan điểm

Chủ nghĩa duy danh (khuynh hướng duy vật): trong thực tế chỉ có các

sự vật riêng lẻ là tồn tại., không có cái chung, cái chung chỉ là sự thỏa thuận của
con người (Đơn Xcốt là nhà duy danh lớn TK 18, sinh trưởng tại Anh): cái chung
vừa tồn tại trong các sự vật (như là bản chất của các sự vật), vừa tồn tại sau các sự
vật (như là khái quát, trừu tượng hóa khỏi các sự vật riêng lẻ)
Chủ nghĩa duy thực (khuynh hướng duy tâm): phủ nhận sự tồn tại của
các sự vật riêng lẻ, chỉ có cái chung mới tồn tại, khi có cái chung, từ cái chung mới
sinh ra sự vật riêng lẻ (Tômát Đacanh là nhà thần học đạo Cơ đốc, sinh tại Italia,
nhà triết học kinh viện nổi tiếng: cái chung tồn tại trên 3 mặt: 1 là tồn tại trước sự
vật, trong trí tuệ của thượng đế như là mẫu mực lý tưởng của các sự vật riêng lẻ, 2
là cái chung tồn tại khách quan trong các sự vật riêng lẻ, 3 là cái chung được tạo ra
sau các sự vật ở trong trí tuệ của con người, bằng con đường trừu tượng hóa các sự
vật riêng lẻ).
1.1.

Tômát Đacanh (1225 - 1274)

Là đại biểu của phái Duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của chủ
nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa nhận là triết học chính thức duy
nhất của giáo hội thiên chúa.
Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp
quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Với 18 cuốn sách trong tuyển tập của
ông, hợp thành bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ
hưng thịnh.
19


Tômát Đacanh cho rằng triết học không có mâu thuẫn với thần học
nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn “lý trí của
thần”. Giới tự nhiên do trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn thiện và trật
tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của trời. Trật tự đó được

trời quyết định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn, tiến
qua con người, tới các thần thánh và sau cùng là bản thân chúa trời. Mỗi bậc dưới
đều cố gắng đạt lên tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới chúa trời. Theo
Tômát, con người do chúa trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo
các đẳng cấp khác nhau. Nếu người nào vượt khỏi đẳng cấp của mình là có tội với
chúa trời. Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của trời”. Quyền lực tối cao bao
trùm hết thảy thuộc về giáo hội.
->
Tóm lại, nguyên lý cơ bản của triết học Tômát Đacanh là sự hài hoà
giữa đức tin và lý tính, lý tính có thể chứng minh một cách hợp lý sự tồn tại của
thượng đế và có thể bác bỏ những ý kiến chống lại chân lý của đức tin. Vì thế ông
được coi là nhà duy thực ôn hoà. Bắt đầu từ năm 1879, hệ thống kinh viện của ông
được coi là triết học chân thực của đạo thiên chúa và được các nhà tư tưởng chống
cộng sử dụng để đấu tranh chống lại thế giới quan khoa học mác xít.
1.2.

Đơn Xcốt (1265 - 1308)

-

Được coi là nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII.

Vấn đề chủ yếu mà Đơn Xcốt quan tâm là giải quyết mối quan hệ giữa
thần học và triết học. Ông có ý tưởng muốn giải phóng triết học khỏi áp bức của
giáo hội, cắt đứt mối liên hệ giữa triết học với thần học. Theo ông, thần học nghiên
cứu thượng đế, còn triết học nghiên cứu hiện thực khách quan. Lý trí của con
người, theo Đơn Xcốt, chỉ có thể nhận thức ở tồn tại những gì mà nó không thể
tách rời khỏi các tài liệu cảm tính. Cho nên, con người không có được một khái
niệm nào về bản chất phi vật chất như Chúa trời, Thượng đế. Tuy nhiên, Đơn Xcốt
không hạ thấp lòng tin tôn giáo. Ông cho rằng, Thượng đế là một tồn tại bất tận,

không thể chứng minh được bằng lý trí mà phải dựa vào lòng tin.
Đơn Xcốt đứng trên lập trường của phái duy danh trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Ông cho rằng cái chung không chỉ
là sản phẩm của lý trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật. Điều đó có nghĩa là
cái chung vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất của sự vật, vừa tồn tại
20


với tính cách là những khái niệm được lý trí của con người trừu tượng hoá khỏi bản
chất của sự vật.
Về lý luận nhận thức, Đơn Xcốt cho rằng tinh thần và ý trí là hình thức
của thân thể con người và gắn liền với thân thể con người đang sống do thượng đế
ban cho từ khi con người mới được sinh ra. Tri thức của con người được hình thành
từ thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy có sức mạnh to lớn trong nhận
thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức. Chỉ có những sự vật đơn
nhất và cá biệt là thực tại cao nhất.
=> Biểu hiện đặc thù của cuộc đấu tranh của CNDV và CNDT ở thời kỳ này là
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc
giải quyết các vấn đề trung tâm của triết học.
2.

Nhận xét

DV này bỏ qua cái chung, cũng tức là DT. Nhưng đặt vào bối cảnh thời kỳ
lịch sử, CNDD là xu hướng duy vật vì nó thừa nhận tồn tại khách quan của các sự
vật.

Câu 8: Phân tích những đặc điểm chủ yếu của triết học Tây Âu thời kỳ Phục
Hưng
Triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng từ TK XV đến XVI.

Phục Hưng: khôi phục lại nền văn hóa cổ đại.
1.

Hoàn cảnh lịch sử

TK XV, các yếu tố TBCN bắt đầu xuất hiện, xuất hiện GCTS, với nhu
cầu tìm đến các tri thức khoa học, nên gcts tìm cách khôi phục lại những tri thức
thời cổ đại, song song với phát minh ra những tri thức mới.
-

Phát kiến địa lý:

+ 1492, tìm ra châu Mỹ -> tạo ra địa bàn phát triển của gcts.
+ Tìm đường biển vòng quanh thế giới, là con đường mới để giao thương.

21


-> GCTS ngay lập tức tận dụng những điều kiện thuận lợi đó để phát triển
(lưu thông hàng hóa dễ dàng hơn,…)
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra chống lại phong kiến.
+ Diễn ra theo tích chất đòi cải cách tôn giáo.
+ Tôn giáo phân ra thành: Tân giáo và Cựu giáo, Thiên chúa và Tin lành.
Những phát minh khoa học được đánh giá là cuộc cách mạng khoa học
tự nhiên. “Thuyết nhật tâm” – Nicolan Côpecních -> ông phá trực diện vào tôn giáo
-> Chúa không sáng tạo ra trái đất, bác bỏ quyền năng của chúa.
Sự phát triển của khoa học, tự nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống
thế giới quan duy tâm tôn giáo, đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết
luận có tính chất duy vật từ các tri thức KH cụ thể.
2.


Đặc điểm

tôn giáo.

Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của GCTS chống lại GCPK và

Các nhà triết học tiến bộ đã đấu tranh để khôi phục lại những giá trị
tinh thần của thời kỳ HL cổ đại.
+ Thành tựu: thiên văn học, toán học, vật lý,…khôi phục và phát triển những
tư tưởng của triết học duy vật biến chứng của Đêmôcrít, Hêraclít,…
Tư tưởng triết học duy vật phải tồn tại dưới 1 hình thức mới là “CN
phiếm thần” và “Tự nhiên thần luận”.
+ CN phiếm thần: giới tự nhiên là thượng đế. Giới tự nhiên vận động là quá
trình thượng đế biểu hiện mình ra -> thừa nhận giới TN và sự vận động của giới
TN, nhưng phải thừa nhận thương đế -> vì để có thể chuyền bá trong xã hội.
+ TN thần luận: thượng đế sáng tạo ra giới tự nhiên -> giới tự nhiên vận
động theo quy luật của chính nó, không phụ thuộc vào thượng đế.
-> CNDV phải ẩn nấp dưới hình thức mềm dẻo, do CN Knh viện, tôn giáo
còn mạnh.
Trong triết học chứa đựng những tư tưởng nhân văn, thể hiện nguyện
vọng của quần chúng. Những tư tưởng tiến bộ về xã hội.
22


+ Khuynh hướng của CNXH không tưởng: T. More, Campanela,...
+ Đề cao con người: khẳng định con người là 1 chủ thể đẹp đẽ nhất trong sự
sáng tạo của thượng đế; ca ngợi vẻ đẹp của con người; đề cao quyền tự do của con
người;…VD: qua các tác phẩm hội họa: vẽ người trần truồng,…-> tiếng nói giải
phóng con người.

-

Những tư tưởng đả phá những tư tưởng tôn giáo, phong kiến.

+ XHPK, tôn giáo: con người không được coi trọng, bị coi là những sinh linh
vô cùng yếu ớt trước thượng đế, và sự hùng vĩ của tự nhiên.
+ Nhà triết học phục hưng khẳng định, con người là chủ thể đầy sức mạnh, là
đỉnh cao của sự sáng tạo của thượng đế. Họ thường xuyên tác động vào giới tự
nhiên, họ không phụ thuộc vào tôn giáo -> phản kháng chế độ đương thời
=>

Tư tưởng này gắn vs gcts, bước đệm cho xh pt.

3.

Đánh giá

TK phục hưng là bước đệm mới của triết học để bước vào giai đoạn triết học
TK 17, 18.
Câu 9: Phân tích những đặc điểm chủ yếu của triết học Tây Âu TK XVII,
XVIII
1.

Hoàn cảnh lịch sử

Từ các yếu tố TBCN xuất hiện ở thời Phục Hưng thì đến TK 18 PTSX
TNCN đã xuất hiện ở hầu hết các nước Tây Âu, trpng lòng xh pk -> đòi hỏi KH pt
để phục vụ nó.
+ KH: có sự phân nghành các KH thành các KH riêng biệt
+ Phương pháp phân tích và thực nghiệm. Pp phân tích: chia nhỏ ra -> tìm

hiểu sâu sắc hơn -> hiểu bản chất của sự vật.
+ Cơ học: phần lớn máy móc ra đời: máy hơi nước, máy dệt,…hầu hết dựa
trên những nguyên lý cơ học.
-> Tạo thành phương pháp tư duy siêu hình, chiếm ưu thế.
-

PTSX TBCN pt -> LLSX (TBCN) >< QHSX (PK)
23


=>

->

Sản xuất hàng hóa đòi hỏi thị trường thống nhất.

->

QHSX PK gắn với việc phân chia, cát cứ pk nên không có thị trường.

Giai cấp TS và hệ tư tưởng TS >< GC PK qúy tộc với hệ tư tưởng Cơ đốc.
Ngoài ra còn tồn tại: Nông dân >< địa chủ, quý tộc

=> Bùng nổ các cao trào cách mạng: CMTS Hà Lan (tk 16), CMTS Anh (tk 7)
-> k triệt để, CMTS Pháp (tk 18) -> CM triệt để.
-

KHTN: tiền đề, cước đệm, cơ sở cho CNDV

+ Các nhà khoa học phát hiện ra nhiều loài sinh vật, vi sinh vật mới.

+ Các nhà vật lý đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong nghiên cứu điện,
từ: xác định được vận tốc của ánh sáng (300km/s), khẳng định ánh sáng vừa có tích
chất sóng vừa có tính chất hạt.
Nhà sinh vật học khám phá ra chế độ phản xạ ở động vật. Nhà sinh vật
học Pháp khám phá ra cơ chế tuần hoàn máu trong cơ thể động vật.
2.

Đặc điểm
-

CNDV phát triển rực rỡ:

+ CNDV gắn chặt với KHTN, sử dụng các thành tựu của KHTN để chống
tôn giáo, chống mê tín. Đặc biệt là CNDV Pháp: CNDV triệt để có xu hướng vô
thần.
CNDT bắt buộc phải có những cải cách để phù hợp với điều kiện mới
-> hình thành CNDT chủ quan.
Vấn đề lý luận nhận thức được các nhà triết học đặc biệt quan tâm và
pt sâu sắc, vì GCTS thời kỳ này rất tiến bộ và cách mạng -> muốn cải biến TG TN
để phục vụ cho con người -> nhận thức đúng về tất cả, đặc biệt là giới TN.
Tiếp tục xuất hiện những tư tưởng tiến bộ về xã hội, những tư tưởng
tiến bộ thời kỳ này mang nhiều nét khác thời kỳ Phục Hưng.
-

Hạn chế:

+ Phương pháp tư duy siêu hình chiếm ưu thế.
24



+ CNDV pt nhưng không triệt để: duy vật về tự nhiên, duy tâm về xh -> là
hạn chế lịch sử.
3.

Đánh giá

Câu 10: Làm rõ những nội dung chủ yếu và đặc điểm của CNDT ở Tây Âu TK
XVII, XVIII
1.

Hoàn cảnh lịch sử

2.

Nội dung chủ yếu
2.1.

Gióocgiơ Béccli (1684 - 1753)

Là đại biểu lớn của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Điểm xuất phát của
triết học Béccli là kinh nghiệm cảm tính được giải thích theo nghĩa “những tập hợp
ý niệm” “những phức hợp cảm giác”.
Béccli đưa ra một công thức chung: tồn tại tức là được tri giác. Mọi
vật chỉ tồn tại trong chừng mực người ta cảm giác được, không có chủ thể thì
không có khách thể. Công thức này không tránh khỏi dẫn tới chủ nghĩa duy ngã,
nghĩa là ngoài cái “tôi” ra thì không có gì hết. Tính chất phi lý hiển nhiên của chủ
nghĩa duy ngã được Béccli “giải quyết” bằng cách cho rằng, mọi vật trong vũ trụ,
sở dĩ tồn tại cũng vì chúng được Thượng đế tri giác.
Triết học Béccli chống lại nhận thức luận duy vật, thù địch với học
thuyết về vật chất. Béccli biết rằng phạm trù vật chất trong tất cả các thời đại đều là

nền tảng của các học thuyết triết học vô thần. Vì thế, để chống lại các học thuyết vô
thần, Béccli đã tập trung công kích, bác bỏ phạm trù vật chất, “viên đá tảng” của
toà lâu đài duy vật triết học. Ông ta cố biện bạch rằng chỉ có cái riêng lẻ, cái đơn
nhất là tồn tại, còn tất cả những gì phổ biến - trước hết là thực thể vật chất -đều bị
xem là trừu tượng trống rỗng.
2.2.

Đavít Hium (1711 - 1766)
25


×