Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Nghiên cứu thực trạng và định hướng phát triển hệ thống điểm dân cư huyện chí linh tỉnh hài dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.24 KB, 81 trang )

1. MỞ ĐẦU
nông thôn mới, bố trí các điếm dân cư, kết cấu hạ tầng kiến trúc nông thôn. Tố
chức cuộc sống, bảo vệ và cải tạo môi trường sống”.
1.1.Trong
Tính cấp
thiết
củaphát
đề tài
chiến
lược
triển kinh tế xã hội của cả nước thời kỳ 2001 -2010
cũng đã đề cập tới việc quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả quỹ đất, nguồn
Với rùng
mục gắn
tiêu,với
phấn
2020quy
nước
ta cơcácbản
trởdân
thành
nước, vốn
bảođấu
vệ đến
môinăm
trường,
hoạch
khu
cư, nước
phát công
triến


nghiệp.
Chủ
trương
của
Đảng

nhà
nước
ta

đấy
nhanh
quá
trình
CNH
các thị trấn thị tứ, các điểm làng xã văn hoá, nâng cao đời sổng vật chất văn
hoáHĐH
đất
nước,
hội
nhập
kinh
tế
toàn
cầu,
áp
dụng
khoa
học
kỹ

thuật
vào
sản
tinh thần của người dân.
xuất. Điều đó đã tác động mạnh tới các hoạt động kinh tế xã hội của người dân
đô thị và nông thôn, đặc biệt đối với người dân nông thôn là đời sống được cải
Nhưsởvậy
thống
điếmtrang,
dân cuộc
cư, tốsống
chứcđược
khôngtổ gian
thiện, cơ
hạ việc
tầng quy
đượchoạch
xây hệ
dựng
khang
chứckiến
tốt
hơn...
trúc cảnh quan xây dựng các công trình phúc lợi công cộng là điều kiện cần thiết
nước
ta trong những năm qua đã xảy ra một sổ vấn đề trong
cho phátTuy
triếnnhiên,
vùng ở
nông

thôn.
việc đầu tư phát triến, đó là tập trung xây dựng các khu trung tâm phát triến, các
thành phố
lớn,Chí
các Linh
vùng- kinh
trọng
điếm,làbên
cạnhnằm
đó việc
tư tam
cho phát
Huyện
TỉnhtếHải
Dương
huyện
trongđầu
vùng
giác
triển

vùng
nông
thôn
lại
rất
thấp

ít
được

trú
trọng.

vậy
muốn
thực
hiện
kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, ở nút giao thông quan trọng của tỉnh,
được mục
tiêutrọng
phát điểm
triển kinh
đất tế
nước
hướng
hoátrong
thì phải
thuộc
địa bàn
phíatheo
bắc. xu
Huyện
có công
vị trí nghiệp
thuận lợi
việc
hướng
sự
phát
triến

về
vùng
nông
thôn,
nhằm
khai
thác
họp



hiệu
giao lưu tiếp cận với thị trường trong vùng và cả nước. Trên địa bàn huyện đãquả

các nguồn
nguyên
sự phát
triến.mạnh
Tạo nên
triếnđộng
cân đối,
hài chuyển
hoà và
đang
diễn tài
ra quá
trìnhchoCNH
- HĐH
mẽ, sự
nó phát

đã tác
và làm
thu hẹp
cách giữa
và gây
thànhápthị.
dịch
quỹkhoảng
đất không
theo nông
quy thôn
hoạch,
lực lớn đối với đất đai của huyện nói
chung và đất khu dân cư nói riêng. Thực tế cho thấy hầu hết các điểm dân cư
Đế phát
vùng
nôngđều
thônở trước
hết phải
tư cho
dân
nông thôn
trên triển
địa bàn
huyện
mức chưa
hoànđầu
chỉnh,
hệ phát
thốngtriển

giaokhu
thông,
cư,
khu
ở,
bố
trí
các
công
trình
phúc
lợi
công
cộng
nhằm
đáp
ứng
tốt
nhất
cho
cấp nước, cấp điện, còn hạn chế nhất là đối với các xã miền núi, các công trình
cuộc sống
dânhọc,
vì “có
cư hoá,
mới lạc
Từ thực
hiện chưa
nay cho
công

cộng của
như:người
trường
nhàanvăn
sân nghiệp”.
thể thao...còn
nhỏtế hẹp,
đủ
thấy
nhiều
khu
dân

đang
phải
chịu
những
áp
lực
lớn
về
trật
tự
xây
dựng,
diện tích, tiêu chuẩn, chất lượng còn thấp, đất ở nông thôn chưa đáp ứng đầy mặt
đủ.
bằng địa
sản bàn
xuấthuyện

cơ sở có
hạ 3tầng,
ô nhiễm
môiSao
trường,
các khu
bố Tắm
trí không
lý,
Trên
thị trấn
(thị trấn
Đỏ, Phả
Lại, ởBen
) đâyhợp
là các
manh
mún
nên
rất
khó
cho
việc
đầu

phát
triển.
Chính

vậy

việc
quy
hoạch
trung tâm chính trị, văn hoá thương mại du lịch và công nghiệp của huyện. Tuy
bố trí hệ
dânhạcưtầng
một trong
cách khoa
hợpvẫn
lý là
rất cần
thiết.
nhiên
hệthống
thốngđiểm
cơ sở
khu học,
đô thị
chưa
hoàn
thiện, mức độ phục
vụ chưa cao..vv. Đe góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của
người dân
phải chấp
có quy
triến
hệ thống
điểmViệt
dânNam
cư,

Hội địa
nghịphương,
lần thứcần
V ban
hànhhoạch
trungphát
ương
Đảng
cộng sản
thiết kế, tố chức cảnh quan, xây dựng và hoàn thiện các công trình công cộng
khoá VII
đã chủ
tục đối
triểncủakinh
tế xã
hội những
nông
nhằm
tạo tiền
đề, trương:
nền tảng“Tiếp
cho phát
triểnmới
kinhvàtếphát
xã hội
huyện
trong
giai
đoạn tiếp
theo.

thôn”[24]
và chỉ
đạo: “Nghiên cứu giải quyết các vấn đề quy hoạch xây dựng

2


Xuất phát tù’ những thực trạng trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ Nghiên cứu thực trạng và định hướng phát triển hệ thống điểm dân cư
huyện Chí Linh - tỉnh Hài Dương ”
1.2. Mục đích - yêu cầu
1.2.1.

Mục đích

+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc tổ chức sử dụng đất, xây dựng và
phát triển hệ thống điểm dân cư đô thị và nông thôn trên địa bàn huyện Chí Linh
- tỉnh Hải Dương.
+ Định hướng phát triến mạng lưới điểm dân cư theo hướng đô thị hoá và
xây dựng một số mô hình quy hoạch chi tiết khu trung tâm phù họp với sự phát
triển theo yêu cầu CNH - HĐH, góp phần cải thiện môi trường dân sinh.
1.2.2.

Yêu cầu

+ Các số liệu, tài liệu điều tra phải đảm bảo tính trung thực, chính xác,
phản ánh đúng hiện trạng.
+ Phải tiến hành tố chức điều tra, khảo sát, và đề xuất những định hướng.
+ Định hướng quy hoạch phải dựa trên các cơ sở khoa học: tiềm năng về
đất đai, nguồn vốn đầu tư, lao động..., dựa trên các chính sách, chỉ tiêu phát

triển kinh tế xã hội của địa phương nhằm đem lại tính khả thi cao nhất.

3


2. TÓNG QUAN VÁN ĐÈ NGHIÊN cứu

2.1. Thực trạng và xu thế phát triến mạng lưới dân cư một số nưóc trên thế
giói
Thực tế cho thấy, tù’ trước đến nay trên thế giới có rất nhiều lý luận khoa
học, nhiều tài liệu nghiên cứu về phát triển mạng lưới dân cư (đô thị và nông
thôn) của các tổ chức như: tố chức Nông - Lương thế giới (FAO), Ngân hàng
phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế Giới (WB)...Các Chính Phủ các
nước, của các tổ chức khoa học ...tuy nhiên, nó vẫn ở mức độ riêng biệt chưa có
một lý luận chung áp dụng cho tất cả các nước đế phát triển dân cư, mỗi nước có
những hướng đi, cách phát triến dân cư riêng tuỳ thuộc vào điều kiện tự’ nhiên
kinh tế xã hội của nước mình.
Có thế khái quát một số đặc điếm chủ yếu về phát triến điếm dân cư của
một số nước như sau:
2.1.1.

Các nước Tây Âu

Các nước Tây Ầu có đặc điểm chung là công nghiệp đã phát triển nông
nghiệp được cơ giới hoá, năng suất lao động trong nông nghiệp nâng cao. Do đó
số lượng lao động nông nghiệp chỉ chiếm phần nhở so với lao động trong công
nghiệp và các loại ngành nghề khác. Cuộc sống ở nông thôn nhiều khi lại là sự
ao ước của người dân đô thị. Vương Quốc Anh là một ví dụ [12].
I/ Vương Quốc Anh
Khác với phần lớn các nước ở lục địa Châu Âu, nông thôn nước Anh hầu

như không bị chiến tranh tàn phá, các điếm dân cư nông thôn truyền thống có sức
hấp dẫn mạnh mẽ với nhũng người dân sống trong các thành phố lớn và các khu
công nghiệp tập trung. Mức độ “ôtô hoá” và mạng lưới giao thông rất phát triển,
rút ngắn khoảng cách về thời gian tù’ chồ ở đến nơi làm việc.
Quy mô làng xóm của nước Anh thường từ 300 - 400 người, khoảng 100150 hộ sinh sống. Tuy dân số ít nhưng đầy đủ các công trình văn hoá, xã hội.

4


Trong các khu dân cư có đường giao thông dẫn đến từng nhà, không khí trong
lành, phong cảnh đẹp và yên tĩnh. Chính vì vậy mà nhiều người dân muốn bỏ
chỗ ở không thoải mái trong các căn hộ khép kín nơi đô thị đi tìm chồ ở lý tưởng
nơi miền quê. Do sự di chuyển một bộ phận dân cư ở các thành phố về sổng ở
nông thôn mà cơ sở dịch vụ văn hoá, xã hội của làng quê truyền thống được cải
thiện, nó trở thành các khu ngoại ô của đô thị lớn hay khu công nghiệp. Đây là
xu hướng khác hẳn so với các nước khác trên thế giới.
Quy hoạch xây dựng phát triến mạng lưới đô thị và nông thôn của nức
Anh được công nhận là thành công nhất thế giới, từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế
kỷ 19 đã có nhiều nhà kiến trúc sư người Anh nghiên cứu về lĩnh vục này:
William Morris là một kiến trúc sư, nhà nghệ sỹ đã có quan điểm xây
dựng đô thị đó là xây dựng phân tán trên toàn bộ đất nước các điến dân cư nhỏ.
Ong xác minh cho phương án của mình rằng điện là nguồn động lực cơ bản cho
mọi hoạt động, sẽ đi đến tất cả các điểm dân cư trong toàn quốc và đến tận mọi
nhà cho nên ở đó sẽ là chỗ ở vô cùng lý tưởng và là nơi làm việc của mọi người.
Ngoài ra lý luận về xây dựng các điểm dân cư mang tính chất đô thị - nông thôn
được đề cao như Thành Phố Vườn, thành phố vệ tinh của kiến trúc sư Eberezen
Howard là một cống hiến lớn cho lý luận phát triển đô thị thế giới.
Thành phố vườn của Eberezen Howard đề sướng năm 1896 trong đó đề
cập tới vấn đề thay đổi cơ cấu tố chức và phương hướng giải quyết về không
gian của thành phố.

Lý luận thành phố vườn và thành phố vệ tinh của Eberezen Howard đã có
ảnh hưởng lớn trên thế giới, đặt nền tảng phát triến cho lý luận quy hoạch đô thị
hiện đại.
2/ Cộng Ho à Liên Bang Đức
Tại Cộng hoà Liến Bang Đức do yếu cầu lao động nông nghiệp ngày càng
giảm, nhu cầu lao động công nghiệp và xây dựng tại các thành phố lớn lại tăng,
việc di chuyến một số lượng khá lớn dân cư từ các vùng nông thôn vào thành

5


thị. Đe tránh sự tập trung dân quá lớn vào các cụm công nghiệp và các thành
phổ, gây khó khăn mọi mặt cho đời sống dân cư đô thị, người ta lập ra một
mạng lưới các “ điểm dân cư trung tâm” đó là hệ thống làng xóm hay các khu
nhà ở được sắp xếp theo dải hay hình nan quạt ở ngoại vi các thành phố. Đế các
điếm dân cư này có sức hút mạnh mẽ, nhà ở được xây dựng với tiêu chuân cao
hơn và đẹp hơn ở thành phố, cây xanh cũng nhiều hơn và nhiều chủng loại
phong phú, các khu này được nối với các thành phổ mẹ bằng các tuyến đường
ngắn nhất, chất lượng cao. Đây là mô hình hấp dẫn đối với số dân cư mới của đô
thị, giảm nhẹ áp lực dân số cho thành phổ. Đó là giải pháp độc đáo của các nhà
quy hoạch Đức, người Đức đã rất thành công trong việc khống chế sự phát triển
quá mức của các thành phố lớn đế phát triển các đô thị vừa và nhỏ trên khắp
lãnh thổ. Hệ thống điểm dân cư này đã góp phần tích cực vào việc điều hoà sự
phát triển giữa hai khu vực thành thị và nông thôn. Những điếm dân cư nông
thôn gắn bó với sản xuất nông nghiệp vẫn giữ được hình thức làng quê truyền
thống nhưng được nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, với hệ thong đường ô tô
bằng bê tông hoặc trải nhựa đến tùng nhà [12].
3/ Vương quốc Hà Lan
Vương quốc Hà Lan không được thiên nhiên ưu đãi, sau thiên tai nặng nề
trong thế kỷ XIV. Nhân dân Hà Lan đã tiến hành từng bước việc khoanh vùng

rút nước để làm khô một diện tích rất lớn đất trũng nhằm mở mang diện tích đất
đai sinh sống. Trên các vùng đất trũng đó được chia thành từng khu để lập các
điếm dân cư nông nghiệp. Trung tâm của vùng xây dựng một thành phố cỡ
12000 dân với các công trình công cộng đạt trình độ cao, xung quanh thành phố
là các làng cách nhau tù' 5 - 7Km với quy mô mỗi làng (village) khoảng 1500 2500 dân. Trong mồi làng được xây dựng đầy đủ các công trình văn hoá xã hội
và nhà ở cho nông dân, công nhân nông nghiệp, mỗi làng có các xóm (hamlet)
với quy mô khoảng 500 người. Sản xuất nông nghiệp được tố chức theo kiểu các
điền chủ thuê đất của nhà nước, tập hợp nhân công canh tác. số người này trở
thành công nhân nông nghiệp và sống trong các làng nói trên.

6


Mạng lưới giao thông được tố chức rất tốt, đường ô tô nối liền các điếm
dân cư đảm bảo liên hệ thuận tiện và nhanh chóng từ nơi ở đến các cánh đồng và
khu vực tiêu thụ chế biến [12].
2.1.2.

Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu

Khác với các nước Tây Âu, Liên Xô và các nước Đông Âu xây dựng nông
thôn theo mô hình phát triển nông thôn XHCN.
//Liên Xô cũ
Mục tiêu của nhà nước Xô Viết là xây dựng nông thôn tiến lên sản xuất
nông nghiệp theo quy mô lớn, hiện đại xoá bỏ sự khác biệt giữa nông thôn và
thành thị. Đặc trung của các điểm dân cư nông thôn ở toàn liên bang là hợp nhất
từng bước các nông trang tập thế thành một đơn vị sản xuất lớn hơn, các điếm
dân cư rải rác cũng được tập trung lại tạo điều kiện xây dựng các nông trang tập
thế, năng suất lao động được nâng lên, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm
xuống [12].

Từ sau năm 1960 các điểm dân cư nông thôn được quy hoạch khu ở theo
dạng bàn cờ nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình. Giải pháp mặt bằng
được chú ý đế bảo vệ địa hình và phong cảnh. Nhà ở được tập trung trong các
nhà cao 3-4 tầng, các công trình hạ tầng kỹ thuật được xây dựng tập trung. Các
khu vực nông thôn truyền thống được giữ lại và nâng cấp dần theo sự phát triển
sản xuất của mỗi khu vục.
2/ Ba Lan
Trước năm 1960 việc xây dựng nông thôn ở Ba Lan chịu ảnh hưởng cách
làm của Liên Xô rõ rêt như: Đất xây dựng, diện tích xây dựng quá rộng, nhà ở
một, hai tầng thường bố trí dọc theo đường ô tô.
Giai đoạn sau 1960, Ba Lan đã tiến hành phân loại điểm dân cư gắn với
việc phân bố sản xuất lớn của nông nghiệp, được chia thành 3 nhóm dân cư:
+ Trang ấp (khu ở).
+ Hợp tác xã.

7


+ Các điếm dân cư thị trấn ( huyện).
Đen năm 1963 lại phân nhỏ ra thành nhiều ấp hơn bao gồm:
+ Điền trại và khu ở tại chồ.
+ Trang ấp và khu ở.
+ Hợp tác xã với khu ở tập trung.
+ Hợp tác xã với điểm dân cư tập trung hoặc thị trấn huyện.
Các điếm dân cư trung tâm có ít nhất 2000 người tham gia sản xuất nông
nghiệp. Theo kinh nghiệm của Ba Lan, những điểm dân cư dưới 1400 người
muốn thoả mãn yêu cầu nâng cao mức sống của nông dân thì đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng sẽ tổn kém không đạt hiệu quả kinh tế.
Trong phương án quy hoạch không gian toàn quốc của Ba Lan, người ta
cũng đã xác định hướng phát triển tương lai của đô thị theo hệ thống dải và cụm

dựa trên các đô thị hiện có và dọc các trục giao thông chính trong toàn quốc
[12].
3/CộngHoàSEC
Nét đặc trưng của các điểm dân cư nông thôn Cộng Hoà SEC là đã sẵn có
một mạng lưới rất dày các điểm dân cư nhỏ bé manh mún. Năm 1939, theo
thống kê có 14234 đơn vị hành chính xã. Diện tích trung bình mỗi xã là 8,9 km 2,
mỗi xã trung bình có 4 làng thì tống số điếm dân cư có tới 55000 - 60000 điếm.
Trong đó có khoảng 35% là các điếm dân cư có quy mô dân số dưới 500 người,
dân cư sống ở các vùng nông thôn, làm việc trong các xí nghiệp ở thành phổ
phần lớn không di chuyển chỗ ở. Nguyên nhân là họ đã có nhà ở nông thôn, họ
vẫn tận dụng được những hoa màu trên mảnh đất vườn, nhờ có hệ thống giao
thông phát triển nên việc đi lại thuận tiện, cự li giữa khu làm việc với khu nhà ở
trong phạm vi 60 km người ta vẫn đi về hàng ngày, vấn đề xây dựng mạng lưới
giao thông nông thôn hợp lý với chất lượng cao và đều khắp rất được chú ý [12].
2.1.3.

Các nước Châu A


1/Án Độ
Ân Độ là một quốc gia đất rộng người đông, đứng thứ 2 ở Châu Á (sau
Trung Quốc). Theo các chuyên gia phát triến nông thôn ấn Độ cho rằng muốn
cải thiện điều kiện sống ở các làng xóm cần phát triển các trung tâm nông thôn,
các điểm trung tâm này là những điểm cung cấp tối ưu hạ tầng kỹ thuật cần
thiết, hỗ trợ các hoạt động kinh tế, dịch vụ xã hội cho khu vực và là một trong
những mục tiêu điều hoà cần phải đạt được khi xây dựng nông thôn mới. Có 3
hệ thống trung tâm nông thôn được phân cấp và hoạch định như sau:
- Hệ thống trung tâm thứ nhất được gọi là làng trung tâm, có chức năng
đảm bảo các dịch vụ cơ bản cho dân cư trong làng cũng như các khu vục xung
quanh.

- Hệ thống trung tâm thứ hai được gọi là trung tâm dịch vụ có nhiệm vụ
cung cấp các hoạt động dịch vụ ở mức trung bình.
- Hệ thống trung tâm thứ ba - trung tâm phát triến - đáp ứng các nhu cầu
dịch vụ ở mức cao.
Các trung tâm trên không chỉ đơn thuần là nơi có hạ tầng kỹ thuật thích đáng
mà còn là các điếm nút để tổ chức toàn bộ hoạt động phát triển cho từng vùng địa
phương. Đây là xu hướng thịnh hành trong nhũng năm 1960, 1970 [12].
2/ Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa
Trung Quốc là một nước nông nghiệp lâu đời, đất rộng, người đông. Dân
số trên 1,3 tỷ người. Đơn vị cơ sở ở nông thôn của Trung Quốc là làng hành
chính (adminis trations village), làng truyền thống chia thành hai hay nhiều làng
hành chính. Toàn quốc có trên 800.000 làng hành chính, mồi làng có từ 800 900 dân.
Trung Quốc cũng là một nước có điều kiện kinh tế chính trị và địa lý ở các
vùng nông thôn tương tự’ ở Việt Nam như hệ thống làng mạc, mạng lưới dân cư,
hệ thống hành chính nông thôn. Trong nhiều năm cùng chịu ảnh hưởng của chế
độ kinh tế bao cấp, với phong trào hợp tác xã cấp thấp rồi lên cấp cao và sau nữa

9


là nông trang tập thế. Vào những năm cuối của thập kỷ 70, nông thôn Trung Quốc
đã chuyển mình theo con đường đổi mới kinh tế nông thôn với chính sách khoán
hộ, nhiều thị trấn nhỏ đã mọc lên trên các tụ điểm giao lưu kinh tế, tại các đầu
mối giao thông hỗ trợ cho mọi mặt của kinh tế xã hội nông thôn phát triển. Ví dụ:
tỉnh Quảng Đông, Ôn Châu là một tiêu biếu - ở đây thị trấn là các thị trường mới
với các doanh nghiệp mới (theo “mô hình phát triến Ôn Châu và việc hiện đại hoá
Trung Quốc” - Alan P.Lliu. trang 309) [1] thị trấn nhỏ trong vùng nông thôn phát
triển bao bọc xung quanh huyện lỵ.
Ớ Trung Quốc hướng xây dựng và phát triển đô thị nhỏ (thị trấn nhỏ)
mang chức năng thị trường và tại chỗ trong các vùng nông thôn, ngoài ra các đô

thị lớn của Trung Quốc có quá trình lịch sử lâu đời, chúng được gắn kết với các
điểm dân cư nông thôn bằng hệ thống giao thông rất thuận lợi chúng được phân
bố tưong đối tập trung theo các dải hoặc lan toả đồng tâm cho phù hợp với đặc
điểm địa lý tự nhiên nhiều dạng địa hình và rộng lớn của Trung Quốc.
2.1.4.

Khu vực Đông Nam Ả

Theo Colins Free stone, trong công trình nghiên cún các yếu tố về kinh tế
chính trị làng xóm vùng Đông Nam Á [8] đã tống kết những vấn đề chung nhất
trong việc quy hoạch xây dựng làng của một số nước thuộc vùng này theo xu
hướng:
- Dân cư bố trí dọc theo kênh rạch hoặc theo đường giao thông và đó cũng
là đường giao thông chính liên hệ giữa các điếm dân cư.
- Nhà ở bố trí phân tán, không có định hướng từ ban đầu khi mới hình
thành điểm dân cư.
- Khu ở của điếm dân cư thường rất gần với khu sản xuất.
- Các công trình hạ tầng kỹ thuật, các công trình phục vụ công cộng ít
được quan tâm trong từng điếm dân cư mà chỉ được bố trí cho tùng cụm gồm
nhiều điển dân cư, làng nào cũng có một trung tâm công cộng nhỏ, gồm các
công trình sinh hoạt văn hoá, hành chính hoặc tín ngưỡng chung như đình chùa,

10


chợ...
- Quy mô làng xóm thường nhỏ, nằm rải rác trong hệ thống đồng ruộng
canh tác.
Trong thời gian gần đây các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Thái Lan đã
có nhiều cố gắng đưa ra các chương trình phát triển nông thôn đế phát triển kinh

tế và ốn định xã hội. Họ đã đầu tư nhiều trong việc xây dựng hệ thống giao
thông nông thôn phục vụ sản xuất mạng lưới đường nối liền khu sản xuất với thị
trường chế biến, tiêu thụ, quy hoạch lại làng bản theo mô hình và nguyên lý
mới hiện đại. Tuy vậy, vấn đề phân hoá giàu nghèo ở mức độ cao tại Thái Lan
cũng như một sổ nước trong khu vục là bài học cho chúng ta rút kinh nghiệm đế
đề ra các mô hình phát trển và xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
2.1.5.
Nhận xét chung về thực trạng và xu thế phát triên mạng lưới
dân

các nước trên thế giới
Qua nghiên cứu tình hình phát triển khu dân cư trên thế giới từ Âu sang
Á, tù’ các nước phát triến cao đến các nước đang phát triến và các nước có chế
độ chính trị khác nhau ta thấy muốn phát triển nông thôn nhất định phải xây
dựng cơ sở hạ tầng và trên hết phải có một mạng lưới đường giao thông phát
triển hợp lý, nhất định phải quy hoạch hệ thống làng xã một cách hợp lý cùng
với việc xây dựng trung tâm làng xã trở thành hạt nhân phát triển kinh tế - xã hội
- văn hoá và là môi trường thuận lợi cho việc tiếp thu văn minh đô thị vào nông
thôn, mặt khác muốn quản lý sự di dân hàng loạt tù' vùng nông thôn vào đô thị,
ngăn cản sự phình to quá cỡ của các thành phố lớn nhất thiết phải “công nghiệp
hoá nông thôn”. Công nghiệp hoá nông thôn còn mang lại sự thay đối lối sống
nông thôn truyền thống sang lối sống văn minh đô thị - thành thị hoá nông thôn.
Đế đạt được điều đó, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật luôn luôn giữ vai trò hàng
đầu, hệ thông giao thông luôn giữ vai trò trọng yêu trong việc phát triên kinh tê xã hội nông thôn.
Trong thời gian gần đây, các nước Đông Nam Á có rất nhiều cố gắng đưa

11


ra các chương trình phát triến nông thôn đế phát triến kinh tế và ổn định xã hội.

Các vùng nông thôn được đầu tư cơ sở hạ tầng, mạng lưới đường giao thông
phát triến, dịch vụ công cộng được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện,
tuy vậy, chưa có nước nào đạt được mục tiêu cuối cùng là xoá bỏ đói nghèo,
nâng chất lượng sống ở vùng nông thôn ngang với đô thị. Do vậy mỗi nước cần
phải tìm ra một mô hình phát triến nông thôn phù họp với điều kiện cụ thế của
mình.

12


2.2. Tổng quan về phát triển khu dân cư ở Việt Nam
2.2.1.

Một số khái niệm cơ bản về khu dân cư và xu hướng phát

triến
2.2.1.1. Cơ cấu cư dân
Cơ cấu cư dân là toàn bộ các điếm dân cư một nước, một tỉnh trong một
vùng kinh tế, phân bố trong không gian có phân công liên kết chức năng và hài
hoà cân đối trong mỗi điểm và giữa các điểm dân cư trong một đơn vị lãnh thổ
[3].
Cơ cấu dân cư là một cấu trúc tổng hợp và tương đối bền vững, là một
hình thái tố chức của cơ cấu lãnh thố, cơ cấu vùng. Trong cơ cấu dân cư, các
mặt cơ bản của các cơ cấu thành phần cũng được biếu hiện.
2.2.1.2. Mục tiêu và xu hướng phát triên cơ cấu cư dân
*

Mục tiêu
Mục tiêu phát triến cơ cấu cư dân trên toàn bộ lãnh thổ hay vùng là hình


thành một mạng lưới các điểm dân cư hài hoà thống nhất với nhau, tương xứng
tỷ lệ trong quy mô và cân bằng trong phát triển, nhằm giải quyết các vấn đề sau
đây:
+ Đáp ứng yêu cầu tổ chức và phát triển sản xuất các ngành nghề kinh tế.
+ Thoả mãn tốt nhu cầu của nhân dân về việc làm, nhà ở, giao tiếp cũng
như các nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần và nghỉ ngơi giải trí...
+ Đáp ứng những yêu cầu tạo lập hài hoà và phong phú, đa dạng cảnh
quan và bảo vệ môi trường.
+ Đáp ứng yêu cầu về phòng hộ, an toàn và an ninh xã hội.
+ Tiết kiệm đất đai xây dựng, hạn chế sử dụng đất nông nghiệp.
*

Xu hướng phát triển cơ cấu dân cư
Nhìn chung có hai xu hướng chính trong phát triến cơ cấu cư dân là tập
13


triến sản xuất, tố chức mạng lưới cơ sở hạ tầng và có điều kiện nâng cao điều
kiện sống và lao động của nhân dân.
- Trung tâm hoả cơ cấu cư dân là hình thành và phát triến một mạng lưới
trung tâm cụm dân cư. Đó là mạng lưới các đô thị: đô thị lớn, trung bình trên các
vùng lớn, các đô thị vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn. Phân bổ và phát triển
mạng lưới các trung tâm cụm dân cư (trung tâm vùng và tiểu vùng, trung tâm
cụm xã) sẽ góp phần xoá bỏ dần những khác bệt cơ bản về điều kiện sống và lao
động của nhân dân giữa nông thôn và đô thị, giữa các vùng lãnh thổ khác nhau
của đất nước thông qua một mạng lưới giao thông thuận lợi nổi liền các trung
tâm này với nhau và vùng ngoại thành với trung tâm.
Mạng lưới các điểm dân cư của các vùng, các đô thị và nông thôn hiện
nay tuy có khác nhau song trong giai đoạn tương lai cần phải được bố cục và
phát triến theo hướng sau:

+ Các đô thị lớn và trung bình đều có ý nghiã nổi trội trong mạng lưới dân
cư của trung tâm quốc gia hay vùng. Vùng ảnh hưởng của các đô thị này khá
rộng lớn chúng cần phải đảm bảo cho nhân dân trong vùng có điều kiện sống tốt.
Trong tương lai cần phải phát triển mở rộng sản xuất công nghiệp trong phạm vi
có thế tăng dần về lao động.
+ Các đô thị vừa và nhở trong tương lai cần được phát triến cả về chất
lượng và sổ lượng. Các đô thị này cần được tăng cường phát triển sản xuất công
nghiệp - dịch vụ, hoàn thiện và mở rộng hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triến dân
số và lao động thu hút tù' nông thôn đế chúng không những là các trung tâm
chính trị mà còn là các trung tâm kinh tế - xã hội, văn hoá, tinh thần cuộc sống
cộng đồng của dân cư. Các đô thị này sẽ góp phần giảm bớt sự tăng dân số quá
tải của các đô thị lớn đồng thời kích thích sự phát triển của công nghiệp hoá và
đô thị hoá.
+ Các làng lớn sẽ phát triến thành các điếm sản xuất công nông nghiệp
(thị tú') chúng là các trung tâm của xã hoặc liên xã và là các điếm tập trung các
giải pháp và đầu tư và nâng cao điều kiện sống và lao động của người dân nông

14


thôn, giảm bớt sự cách biệt còn tồn tại giữa nông thôn và thành thị.
+ Các làng nhỏ trong tương vẫn còn là nơi ở, nơi sản xuất, nghỉ ngơi của
người dân nông thôn và là một thành viên của cơ cấu dân cư. Việc quy hoạch và
nâng cao hiệu quả các điều kiện sống và lao động cho nhân nhân trong các làng
nhỏ này chỉ có thế thực hiện được và đảm bảo trong phạm vi của các đơn vị lãnh
thố lớn hơn như cụm điểm dân cư (xã, liên xã).
+ Các xóm, ấp...là các điểm dân cư có quy mô quá nhỏ. Điều kiện sống và
lao động thấp kém, không đáp ứng được nhu cầu của người dân, phân bố tản
mạn, manh mún và không có cơ hội phát triển. Các điểm dân cư này trong quá
trình công nghiệp hoá và đô thị hoá cần phải xoá bở, sát nhập vào các điếm dân

cư lớn hơn.
2.2.1.3. Phân loại hệ thông điêm dân cư
Để có cơ sở thống nhất cho việc quy hoạch phát triển cơ cấu dân cư trong
cả nước và các vùng, hệ thống điểm dân cư cần phải được phân loại, đó là phương
tiện trợ giúp quan trọng cho mọi cấp quy hoạch, đặc biệt là cấp tỉnh.
*

Những căn cứ phân loại điểm dân cư
Khi phân loại điếm dân cư cần căn cứ vào nhũng đặc điếm cơ bản sau đây:
+ Điều kiện sống và lao động của dân cư.
+ Chức năng của điếm dân cư.
+ Quy mô dân sổ, quy mô đất đai trong điếm dân cư.
+ Vị trí điểm dân cư trong cơ cấu cư dân.
+ Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế....

*

Ket quả phân loại
Trên cơ sở các tiêu trí phân loại trên, hệ thống mạng lưới dân cư nước ta

được phân ra thành các loại sau:
1/ Đô thị rất lớn: là thủ đô của 15
các nước hay liên bang, thủ phủ của một


xã hội, khoa học kỹ thuật, dịch vụ du lịch, giao thông, giao dịch quôc tê...của
quốc gia, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả nước.
2/ Đô thị lớn: Là loại trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, sản
xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch, giao thông, giao dịch quốc tế...của nhiều tỉnh
hay một tỉnh, có vai trò thúc đấy sự phát triển của một vùng lãnh thố.

3/ Đô thị trung bình: là các trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá,
sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch của một tỉnh hay nhiều huyện, có vai trò
thúc đấy sự phát triến của tỉnh hay một vùng lãnh thố của tỉnh.
4/ Đô thị nhỏ: là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, sản
xuất...của một huyện hay liên xã, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một huyện
hay một vùng trong huyện.
5/ Làng lớn: là trung tâm hành chính - chính trị, văn hoá, xã hội, dịch vụ
kinh tế của một xã, có vai trò thúc đấy sự phát triến của một xã hay nhiều điếm
dân cư.
6/ Làng nhỏ: là noi ở, noi sản xuất tiếu thủ công nghiệp, nông lâm
nghiệp... của nhân dân trong một xã.
7/ Các xóm, ấp, trại: là các điếm dân cư nhỏ nhất, vói các điều kiện sống
rất thấp kém. Trong tương lai các điếm dân cư này cần xoá bỏ, xát nhập thành
các điểm dân cư lớn hơn.
2.2.2.

Thực trạng kiến trúc cảnh quan khu dân CU' nông thôn

Hầu hết các công trình kiến trúc có giá trị tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt
Nam đều nằm ở các làng xã. Đó là những ngôi đình làng, ngôi chùa và gần đây
là những nhà thờ nằm sau luỹ tre làng, là trung tâm chứa đựng mọi sinh hoạt văn
hoá của cộng đồng dân cư sống trong làng xã [7]
Các công trình công cộng ở làng không chỉ là cống làng, đường làng,
giêng làng mà còn là nhà văn hoá, nhà Uỷ ban, nhà trẻ, trường học, trạm
xá...ngoài ra là các không gian, các quỹ vật thể khác như: làng, chợ làng và cây
đa, bến nước...
Nhìn chung, các công trình kiến trúc công cộng trong làng xã thường
16



không to lớn trừ một số công trình đặc bịêt (nhà thờ và một số đình chùa của
những làng có điều kiện đặc biệt).
Ngày nay cùng với sự chuyến dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và sự
tăng truởng dân số tuyệt đối tại khu vực nông thôn, kiến trúc nông thôn đã được
phát triến với 4 nội dung chính:
+ Ngói hoá và kiên cố hoá nhà ở nông thôn bằng nguồn lực tự có của
nhân dân thay thế dần dần nhà tranh vách đất.
+ Phát triển các công trình dịch vụ công cộng như trường học, nhà trẻ,
đường làng ngõ xóm và các công trình tiện ích công cộng.
+ Cải tạo, trùng tu, nâng cấp các công trình di sản văn hoá, tôn giáo,
tưởng niệm...
+ Xây dựng phát triển các thị tứ mới ở các vùng nông thôn giữ vai trò là
trung tâm xã, tiểu vùng hoặc cụm xã, là đầu mối thúc đấy quá trình công nghiệp
hoá, đô thị hoá ở khu vực nông thôn theo hướng: “rời ruộng không rời quê
hương” đã tạo ra một bộ mặt kiến trúc mới cho khu vực nông thôn.
Vào những năm cuối của thập kỷ 70, hưởng ứng nghị quyết IV và sau này
là nghị quyết V của ban chấp hành Trung Ương Đảng, cùng với việc quy hoạch
đồng bộ xây dựng địa bàn cấp huyện theo các lĩnh vục khác nhau như bố trí lại
sản xuất, xây dựng công trình hạ tầng, các công trình phục vụ công cộng, nhà ở
cũng được nghiên cứu theo hướng “ cải tạo mạng lưới dân cư trên địa bàn
huyện, tổ chức đời sống ở nông thôn” [10] công việc nghiên cứu về nhà ở lúc
này chia làm hai loại:
+ Nhà ở tại huyện lỵ, thị trấn đưa ra một số mẫu “ thiết kế giống các thành
phổ”.
+ Nhà ở tại các làng xã nông thôn thì chỉ chú trọng đến nhà ở nông thôn
đơn thuần nông nghiệp.
Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về nhà ở nông thôn cho nhiều vùng khác
nhau nhưng trong đó có đồ án nhà ở cho vùng cói Thái Bình của nhóm tác giả
Trần Trọng Chi: “Đồ án đã nghiên cứu giải quyết đồng bộ, có hệ thống việc tố


17


chức cuộc sổng cộng đồng ở nông thôn vùng cói bắt đầu từ ngôi nhà ở, với
giếng nước, nhà vệ sinh, sân vườn, chuồng chăn nuôi rồi đến các công trình văn
hoá...” [11].
Sau nghị quyết 10, nông dân được nhận khoán ruộng và hoàn toàn tụ' chủ
trong sản xuất kinh doanh. Tất cả những cơ sở vật chất phục vụ cho việc sản
xuất theo hộ gia đình cho đến nay được phát huy hết tác dụng, nhà ở nông thôn
lại phải nâng cấp cải tạo mở rộng đế phù hợp với hướng sản xuất, nhà ở không
gian kiếu mới - kiếu phi nông nghịêp.
Thực tiễn trong vài năm gần đây, nhà ở nông thôn đã được xây dựng và
phát triến mạnh mẽ kế cả về sổ lượng và chất lượng, nhiều làng xã phát triến
kinh tế nhiều thành phần, thu nhập cao đã xây dựng nhiều nhà ở 2 - 3 tầng.
Nhiều nhà kiểu biệt thự đầy đủ tiện nghi, không gian sinh hoạt ngăn nắp hợp lý
trên toàn bộ khuôn viên đất ở đã tạo những nét mới làm thay đôi bộ mặt kiến
trúc làng quê truyền thống.
2.2.3.

Mối quan hệ giữa đô thị hocí với phát triến khu dân cư nông

thôn
nước ta trong giai đoạn hiện nay
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã có nhiều thay đổi
lớn đặc biệt là sự phát triển mạnh về kinh tế, việc gia nhập các tổ chức quốc tế:
WTO, ASEAN...đã và đang tạo tiền đề sức mạnh cho phát triển nền kinh tế
nước nhà. Nhờ chính sách mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới Việt Nam
đã và đang tiếp thu những khoa học kỹ thuật hiện đại, ngoài ra với một nền
chính trị ốn định Việt Nam đang là địa bàn thích hợp cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Chính vì những lý do đó mà quá trình CNH - HĐH trên lãnh thô Việt

Nam đang diễn ra rất mạnh mẽ đã tác động và làm cho quá trình đô thị hoá nông
thôn diễn ra rất nhanh.
Quá trình đô thị hoá đã và đang tác động mạnh mẽ làm chuyến dịch cơ
cấu kinh tế và ảnh hưởng tới việc sắp xếp lại mạng lưới các điểm dân cư trên cả
nước, điều đó được thế hiện trên các mặt:

18


+ Phát triến mở rộng, nâng cấp các thành phố thị xã, thị trấn theo quy
hoạch nhằm phát huy tiềm năng của mạng lưới đô thị hiện có, khống chế dân sổ
các thành phố lớn, tạo yếu tố tích cực thúc đấy sự phát triến của các đô thị vừa
và nhỏ (các thị xã, thị trấn, thị tứ).
+ Tạo điều kiện đấy nhanh sự phát triển của các thị trấn huyện lỵ và các
thị tứ. Đây là đầu mối quan trọng nối tiếp giữa đô thị và nông thôn.
+ Cải tạo từng bước hệ thống điểm dân cư nông thôn. Ngay từ những năm
70, Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn Bộ xây dựng đã có những đề án quy
hoạch cải tạo và phát triển các điếm dân cư trên địa bàn vùng huyện theo xu
hướng này (huyện Đông Hưng - Thái Bình là một ví dụ).
+ Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, có thế đô thị hoá ngay
trong từng làng xã trên cả hai mặt cơ bản chuyển lao động nông nghiệp sang sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng từng bước cơ sở hạ tầng, xây
dựng phát triển và hoàn thiện khu dân cư, cải thiện đời sống nông thôn tiến tới

19


Loại đất

Diện tích

(m2/ngư

Tỷ lệ
(%)

Diện tích
(m2/ngườ

Tỷ lệ
(%)

ời số 5763/BTNMT -i ĐKTK ngày 25/12/2006 của Bộ Tài
Theo2.2.4.
công văn
Những (quy
quán
lý,(5quy
xây dựng và phát
(2)
) địnhdẫnvề(4định
)
)sử hoạch
Nguyên Môi Trường
về dân
việc 3hướng
mức
dụng đất áp dụng trong
triến khu
công tác lập, điều7chỉnh
Tổng số

4 - 9 7 quy hoạch,
100,00 kế9 hoạch
1 - 1 1 7sử dụng
100,0đất đã hướng dẫn áp dụng
CU'
định
mức cho 10 loại đất: Đất ytế, đất văn hoá, đất giáo dục, đất thể thao, đất
- Đất ở
5 5vụ,
- 7 0đất 6giao
4 - 8 2thông vận
7 0 -tải,
9 0 đất
6 7 -thuỷ
8 7 lợi, đất công nghiệp, đất
thưong nghiệp dịch
Trong
trình
phát
triển, các điểm dân cư (đô thị và nông thôn) ở nước
thị, đất
khu quá
dân cư
nông
thôn.
- Đất xây dựng các côngđô
2-3
2-4phát triến2-3
tatrình
phầncông

lớn được hình
thành và
một cách2-3
tự phát. Vì vậy mà tình trạng

(1)

xây dựng
xộn,mức
manh
mún, đất
không
nhất,
không
bộ, sau:
sử dụng đất
Đối lộn
với định
sử dụng
trongthống
khu dân
cư được
quyđồng
định như
không hiệu quả, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước đối với đất khu
- Đất làm đường giao thông
6-9 gây khó
7 - 1khăn
1
9 - việc

1 0 tu 9sửa
- cải tạo và xây dựng mới.
dân cư đồng thời cũng
cho
Chính vì vậy, hiện nay Nhà nước ta đã ban hành các một số văn bản về quy định
- Đất cây xanh
3-4
4-6
2-3
2-3
và quản lý trong quy hoạch và phát triển khu dân cư.
Bảng
2.1.
Định9mức
dụng
- Đất tiếu thủ công nghiệp
8 -11
13 sửsửdụng
8- đất
11đất trong
8 - 1khu
1 dân cư
2.2.4.1. Những quy
định
về định
mức
cộng

đồngnước
Khulậpvực

Định mức sử dụng đất là cơ sở quanKhu
trọngvực
để nhà
quy miên
hoạch, núi
kế
ven biến
du cư nói
hoạch sử dụng đất nói chung và quy hoạchbằng
kế hoạch
sử dụng đất trung
khu dân
riêng.
Theo điều 6 nghị định 04/CP ngày 11/02/2000 thì hạn mức giao đất cho
hộ gia đình cá nhân tại khu dân cư nông thôn do UBND cấp tỉnh quyết định theo
quy định sau:
+ Các xã đồng bằng không quá 300 m2.
+ Các xã trung du miền núi, hải đảo không quá 400 m2.
Điều 86 luật đất đai năm 2003 “Đất sử dụng để chỉnh trang, phát triển đô
thị và khu dân cư nông thôn” đã quy định:
+ Việc sử dụng đất đế chỉnh trang, phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn
phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết,
quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được
xét duyệt và các quy chuấn, tiêu chuấn xây dựng do cơ quan nhà nước có thấm
quyền ban hành.
Thông tư số 30/2004/ BTNMT ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn lập,
điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
20



hộ gia đình và có thế có một số đất nông nghiệp khác nằm xen kẽ trong dân cư,
do ƯBND xã quản lý sử dụng); đất lâm nghiệp (nếu có); đất chuyên dùng; đất
phi nông nghiệp; đất chua sử dụng (nếu có).
Theo quy định của Luật Đất đai, Nhà nước thống nhất quản lý các loại đất
và giao cho hộ gia đình, cá nhân và các tố chức sử dụng theo đúng mục đích và
có hiệu quả.
- Đất ở của mỗi hộ gia đình được quy định hạn mức cụ thế tuỳ theo từng
địa phương dựa trên căn cứ điều 83, 84 của Luật Đất đai năm 2003.
- Các loại đất chuyên dùng phục vụ yêu cầu xây dựng các công trình hạ
tầng cơ sở và phục vụ lợi ích công cộng phải được sử dụng theo đúng mục đích
trên cơ sở phương án quy hoạch thiết kế đã được phê duyệt.
* Quản lý quy hoạch xây dựng điếm dân cư nông thôn
Quy hoạch xây dựng cho khu vục nông thôn là công việc được trien khai
thực hiện đối với từng điếm dân cư nông thôn kế cả điểm dân cư nông thôn là
trung tâm xã, thị tứ, trung tâm cụm liên xã. Công tác quy hoạch xây dựng điểm
DCNT bao gồm quy hoạch xây dựng các điểm DCNT mới và quy hoạch cải tạo
xây dựng phát trien các điếm DCNT hiện có.
Phương án quy hoạch xây dựng và phát triến một điếm DCNT mới, hoặc
quy hoạch cải tạo xây dựng một điếm DCNT hiện có, sau khi đã được phê duyệt
sẽ trở thành căn cứ để triển khai công tác xây dựng. Đồng thời nó cũng là cơ sở
pháp lý cùng với hệ thống pháp luật và chính sách của nhà nước làm căn cứ đế
quản lý công tác cải tạo, xây dựng và kiếm soát quá trình thay đối làm cho điếm
dân cư được phát triển theo đúng ý đồ đâ được xác định.
Việc quản lý quy hoạch trước hết là đối với việc sử dụng đất đai cho thiết
kế đường xá, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới các công trình hạ tầng kỹ thuật
và môi trường nông thôn, cần phải quản lý tốt và triển khai cải tạo hoặc xây
dựng từng bước các phần đất này theo đúng mục đích mới có thể thực hiện được
mục tiêu phát triển lâu dài các điểm dân cư.
(Nguồn: công văn sổ 5763/BTNMT- ĐKTKngày 25/12/2006 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường)


2.2.4.2. Những quy định về quản lý đất đai và quản lý quy hoạch xây dựng
*

Quản lý đất đai

Quán lý đất đai theo quy hoạch đã được ghi cụ thể trong Luật Đất đai hiện
hành. Trong phạm vi điếm DCNT bao gồm các loại đất phân theo các mục đích
sử dụng như: đất ở; đất nông nghiệp (đất vườn, ao thả cá trong khuôn viên của

21
22


Đối với đất ở của tùng hộ gia đình trong điếm dân cư hiện có, khi tiến
hành quy hoạch cải tạo nếu có những kiến nghị về điều chỉnh đất đai cần có
phương án đền bù thoả đáng khi trưng dụng đất phục vụ lợi ích công cộng hoặc
dồn đổi giữa các chủ sử dụng đất với nhau. Đe thực thi các giải pháp này cần có
sự phân tích vận động đối với chủ sử dụng đất thông qua hoạt động của cơ quan
chính quyền và các tố chức xã hội khác.
2.2.4.3.
*

Những quy định về hướng phát triến hệ thong đỉêm dân cư

Định hướng phát trỉến nhà ở

Theo quyết định số 76/2004/QĐ-TTg ngày 06-5-2004 của Thủ Tướng
Chính Phủ đã phê duyệt định hướng phát triển nhà ở đến năm 2020 như sau:
- Nhà ở đô thị:

Khuyến khích phát triến nhà ở căn hộ chung cư cao tầng một cách họp lý
phù họp với điều kện cụ thế của tùng đô thị đế góp phần tăng nhanh quỹ nhà ở,
tiết kiệm đất đai, tạo diện mạo và cuộc sống văn minh đô thị theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhà ở đô thị phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, quy chuẩn,
chuấn và các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng nhà ở do cơ quan
nước có thấm quyền ban hành; hình thành các tiếu khu nhà ở, khu dân cư
trung vừa và nhỏ, phân bố họp lý, không tập trung dân cư quá đông vào
thành phố lớn.

tiêu
nhà
tập
các

Phấn đấu đạt chỉ tiêu bình quân 15 m2 sàn/người vào năm 2010 và 20 m2
sàn/ người vào năm 2020 [18].
- Nhà ở nông thôn
Phấn đấu đế từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng chỗ ở của các hộ
dân cư nông thôn. Phát triến nhà ở nông thôn gắn với việc phát triến và nâng cấp
hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
Phát triển nhà ở nông thôn phải đảm bảo phù hợp với điều kiện sản xuất,
đặc điếm tự’ nhiên và tập quán sinh hoạt của tùng vùng, sử dụng có hiệu quả quỹ
23


đất sẵn có và khuyến khích phát triến nhà nhiều tầng đế tiết kiệm đất, hạn chế
việc chuyển đất nông nghiệp sang đất ở.
Khuyến khích huy động nội lực của hộ gia đình, cá nhân khu vực nông
thôn tự cải thiện chỗ ở kết hợp với sự giúp đỡ hỗ trợ của cộng đồng, dòng họ,

các thành phần kinh tế.
Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành chương trình hồ trợ cải thiện nhà ở đối
với các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiếu số và các hộ thuộc diện chính sách.
Phấn đấu hoàn thành việc xoá bỏ nhà ở tạm (tranh, tre, nứa. lá) tại các khu
vục nông thôn vào năm 2020. Diện tích nhà ở bình quân tính theo đầu người đạt
14 m2 sàn/người, nhà ở nông thôn có công trình phục vụ sinh hoạt và sản xuất
dịch vụ phù họp với điều kiện cụ thế của tùng địa phương, đạt tiêu chuấn vệ sinh
môi trường.
Dự kiến đến năm 2020, diện tích nhà ở bình quân đạt 18m 2/gười, tất cả các
điểm DCNT đều có hệ thống cấp, thoát nước đảm bảo tiêu chuẩn quy định [18].
*ĐỊnh hướng phát triển kiến trúc cảnh quan
Chủ trương của Đảng và nhà nước ta trong những năm trước mắt là tiếp
tục ưu tiên đầu tư phát triến nông thôn. Đen năm 2010 đế 100% số xã có trường
cấp 1, 2 và trạm y tế. Phấn đấu đế 100% xã có đường ô tô đến được trung tâm
xã, tố chức lại các khu dân cư nông thôn, hầu hết các hộ đều có điện, nước đế
dùng...đế đời sống xã hội ở nông thôn trở nên an ninh, văn minh và ổn định [2].
Theo định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2020:
- Phát triển kiến trúc tại các làng, xã có liên quan trực tiếp với cơ cấu quy
hoạch chung của các đô thị phải được dựa trên quy hoạch chi tiết xây dựng, có
sự tham gia của dân cư và cộng đồng; cần lưu ý giữ lại di sản kiến trúc, thiên
nhiên của làng, xã; bố sung những chức năng còn thiếu, kết hợp hiện đại hoá kết
cấu hạ tầng. Công trình mới được tạo lập phải tuân thủ các quy định về quản lý
kiến trúc và quy hoạch đô thị.
- Hình thành tống thể kiến trúc tại các thị tứ, trung tâm xã, cụm xã trên cơ

24


sở tuân thủ các quy định của quy hoạch xây dựng; khuyến khích phát triển các
công trình xây dựng ít tầng, mái dốc, kế thừa hình thức kiến trúc truyền thống,

gắn bó hài hoà với khung cảnh thiên nhiên, phù hợp với điều kiện khí hậu của
địa phương [20].
- Kiến trúc làng mạc cần được thực hiện theo quy hoạch từ tổng thể đến
khuôn viên ngôi nhà của từng gia đình. Xây dựng nông thôn đồng bộ về kiến
trúc lẫn hạ tầng kỹ thuật đảm bảo môi trường sinh thái và phát triển bền vững.
Phát triến không gian kiến trúc nông thôn cần phù hợp với sự phát triến kinh tế
nông - lâm - ngư nghiệp, chăn nuôi, phát triển nghề truyền thống, kinh tế du
lịch, văn hoá.
Trong những năm tới kiến trúc nông thôn được hình thành và phát triển
theo 3 hướng sau:
- Hướng ho à nhập vào không gian đô thị: xu hướng này diễn ra cùng với
quá trình phát triển và mở rộng không gian đô thị ra các vùng ngoại ô, làm cho
một số khu dân cư bị mất đi, một số khác được sắp xếp lại, số còn lại được bảo
tồn trong cơ cấu quy hoạch đô thị đế trở thành một bộ phận cấu thành đô thị.
- Hướng phát triển kiến trúc gắn với việc hình thành các thị trấn, thị tú' giũ'
vai trò là trung tâm xã, cụm xã: Các thị trấn, thị tú’ gắn với vùng nông nghiệp
trước khi xây dựng đều phải lập quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết.
- Hướng cải tạo, chỉnh trang và phát triến kiến trúc tại các làng xã: Việc
phát triến kiến trúc tại các làng, xã thuộc các vùng nôngnghiệp cần lun ý bảo tồn
được các truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán riêng bệt của từng địa
phương.
2.2.5.
Một số công trình nghiên cứu về quy hoạch xây dựng khu
dân CU’
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển khu dân cư và những quy định
của Nhà nước về quản lý, quy hoạch xây dựng phát triến hệ thống điếm dân cư,
nhiều nhà khoa học đã có những nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực này.
25



vùng huyện theo xu huớng cải tạo từng bước các điếm DCNT, các chòm xóm
nhỏ được gộp lại tạo thành các điếm dân cư tương đối lớn, tập trung, thuận tiện
cho việc xây dựng các công trình công cộng phúc lợi [khoảng 600 dân (200
hộ)].
Mô hình “nhà ở và lô đất gia đình vùng nội đồng” đã triển khai ở xã Đại
áng - huyện Thanh Trì - Hà Nội, mô hình giải quyết 2 vấn đề:
+ Tiết kiệm và tận dụng đất đai có hiệu quả.
+ Cải thiện điều kiện vệ sinh ở gia đình và thôn xóm.
Bên cạnh đó còn có một số dự án về quy hoạch dân cư nông thôn nước ta
đó là:
* Quy hoạch huyện Đông Hưng - Thái Bình
Trong phương án quy hoạch này, từ 1400 điểm dân cư trên toàn địa bàn
huyện được tổ chức lại còn khoảng 100 điếm, tổ chức thành 7 cụm xã, ở đó xây
dựng trạm trại kho tàng, xây dựng các công trình hạ tầng...kiến trúc không gian
khu ở được xây dựng hợp lý phù họp tạo điều kiện cho phát triển dân cư trên địa
bàn [14].
* Quy hoạch sản xuất và xây dựng huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An (1977)
Theo đồ án này, toàn bộ 360 điểm dân cư sẽ được bố trí gọn lại còn 54
điểm có quy mô từ 1000 - 5000 người, cứ 2 đến 3 điểm dân cư đủ dân số đế xây
dựng một trung tâm có các công trình văn hoá phục vụ công cộng như: nhà trẻ,
trường học, thư viện, nhà văn hoá... nhằm phục vụ tốt nhất cho đời sống nhân
dân [13].
Dựa trên các tiêu chí phân loại điếm DCNT của Tổng cục Địa chính (nay
là Bộ Tài nguyên Môi trường) năm 2000 nhiều nhà khoa học đã đánh giá thực
trạng, phân loại và định hướng phát triển hệ thống điểm DCNT như: công trình
nghiên cứu cứu của Đoàn Công Quỳ trên điạ bàn huyện Kinh Môn - Hải Dương,
Nguyễn Thị Hồng Hạnh trên địa bàn huyện Thường Tín - Hà Tây, Nguyễn Danh
Hùng trên địa bàn huyện Từ Sơn - Bắc Ninh, Cù Ngọc Thọ trên địa bàn huyện

26



Gia Lâm - Hà Nội, Nguyễn Thị Hải Yến trên địa bàn huyện Mê Linh - Tỉnh
Vĩnh Phúc...vv.
Nhìn chung những nghiên cứu ứng dụng này đã có ý nghĩa rất lớn trong
quy hoạch mạng luới dân cu của mỗi địa phương. Tuy nhiên tính khả thi của các
đồ án này còn chưa cao, quy hoạch vẫn ở tầm khái quát, phần lớn chưa có quy
hoạch chi tiết cho từng điểm dân cư. Do vậy các điểm dân cư được bố trí vẫn
manh mún, phân tán, chưa hợp lý, chưa đồng bộ, công tác xây dựng kiến trúc
cảnh quan khu dân cư phát triến một cách tự’ phát có thế theo quy hoạch hoặc
không theo quy hoạch gây khó khăn cho việc bố trí các công trình công cộng
phục vụ cho các khu dân cư.

27


×