Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thuyết trình NHỮNG NGUYÊN lý cơ bản của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN học THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.57 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MAC – LÊNIN
CHUYÊN ĐỀ:

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

GVHD:LƯU THỊ KIM HOA
SVTH: NHÓM 3
1. Nguyễn Thùy Giang
2. Đặng Thị Xuân Hà
3. Hồ Thị Cẩm Hà
4. Phạm Thanh Hà
5. Đoàn Thị Mỹ Hạnh
6. Nguyễn Thị Hạnh
7. Phạm Võ Nguyên Hạnh
8. Đào Thị Kim Hằng

HỒ CHÍ MINH, 2013

- 15
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23




LỜI MỞ ĐẦU
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của học
thuyết kinh tế của C.Mác” và học thuyết kinh tế của C. Máclà “nội dung căn bản
của chủ nghĩa Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua
sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm,
thu về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức
lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị
thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Trước đây các nhà XHCN không tưởng chỉ có thể nói về sự bóc lột của
TBCN, chỉ mở ra được một xã hội mà hầu như mọi cái chưa thực tế, nhưng khi
Mác và Anghen cho ra đời hai phát triển vĩ đại là “Chủ nghĩa duy vật lịch sử” và
học thuyết giá trị thặng dư” mà XHCN từ không tưởng trở thành hiện thực. Chính
nhờ các học thuyết đó mà sau này các nhà thừa kế xuất sắc như Lênin đã tiếp thu
và phát triển them, tiến tới đoàn kết các giai cấp trong xã hội để xây dựng một nhà
nước XHCN đầu tiên, không phải là không tưởng, mà là hiện thực, mở ra một thời
đại mới, một kỷ nguyên mới của xã hội loài người, đó là xã hội XHCN, lật đố chế
độ TBCN, tư bản nửa phong kiến.
Vậy “Học thuyết giá trị thặng dư” có những nội dung gì? Để trả lời cho câu
hỏi trên nhóm chúng tôi đã tìm hiểu, thu thập các kiến thức có liên quan và trình
bày trong bài báo cáo này. Do thời gian có hạn cũng như kiến thức còn hạn chế của
nhóm nên không tránh khỏi sai sót mong cô và các bạn góp ý thêm.
Xin chân thành cảm ơn.
Nhóm thực hiện!


1. Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản
1.1 Công thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình

thức đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số
tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư
bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động
của người khác. Sự vận động của đồng tiền thông thường và đồng tiền là tư bản có
sự khác nhau hết sức cơ bản. Trong lưu thông hàng hoá giản đơn, tiền vận động
theo công thức: H−T−H là sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền và ngược lại sự
chuyển hóa của tiền thành hàng hóa hay nói cách khác là bán để mua. Còn trong
tư bản, tiền vận động theo công thức: T−H−T’ là sự chuyển hóa của tiền thành
hàng hóa và sự chuyển hóa ngược lại của hàng hóa thành tiền tức là mua để bán.
So sánh sự vận động của hai công thức trên ta sẽ thấy một số điểm giống và
khác nhau:
- Giống nhau:
+ Đều có 2 nhân tố là tiền và hàng.
+ Đều là sự kết hợp của hai hành động đối lập, nối tiếp nhau (bán và mua)
- Khác nhau:
+ Trình tự các hành vi khác nhau:
* Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng bán và kết thúc bằng mua,
* Công thức chung của tư bản bắt đầu bằng mua và kết thúc bằng bán.
+ Điểm xuất phát và kết thúc:
* Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hàng và kết thúc bằng hàng,
* Công thức chung của tư bản bắt đầu bằng tiền và kết thúc cũng bằng tiền
+ Mục đích của vận động:
* Lưu thông hàng hóa giản đơn mục đích là giá trị sử dụng: H-T-H (có giới
hạn).


* Còn công thức chung của tư bản mục đích là giá trị và giá trị lớn hơn. Tư
bản vận động theo công thức: T−H−T', trong đó T' = T + ∆t; ∆t là số tiền trội hơn
gọi là giá trị thặng dư và ký hiệu là m. Như vậy giá trị được ứng ra lúc ban đầu
không những được bảo tồn trong lưu thông mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn

cộng thêm vào một giá trị thặng dư, chính sự vận động ấy biến tiền thành tư bản.
Công thức chung của tư bản không có giới hạn. Công thức có thể viết là:
T−H−T'−H−T”… tức là khi chấm dứt sự vận động thì tiền lại xuất hiện, thành khởi
điểm mới của sự vận động ấy và quá trình cứ tiếp diễn không ngừng.
1.2 Mâu thuẫn của công thức chung tư bản
Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’ = T + t. Vậy t được sinh
ra như thế nào? Như vậy chỉ có 2 trường hợp: trong lưu thông và ngoài lưu thông.
a. Trong lưu thông (Trao đổi, mua bán): Dù trao đổi ngang giá hay không
ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng dư.
- Trường hợp trao đổi ngang giá (mua bán đúng giá trị ) chỉ là sự chuyển hoá hình
thái giá trị từ H - T và ngược lại . Do đó, tiền không lớn lên, giá trị không tăng
thêm.
- Trường hợp trao đổi không ngang giá:
+ Mua rẻ (thấp hơn giá trị) thì có lợi trong khi mua. Nhưng khi bán, bán thấp
hơn giá trị thì chịu thiệt thòi.
+ Bán đắt (cao hơn giá trị): cái được lợi khi là người bán thì sẽ chịu thiệt khi
là người mua.
+ Mua rẻ, bán đắt: điều này chỉ giải thích sự làm giàu của những thương
nhân cá biệt chứ không giải thích sự làm giàu của tư bản nói chung.
Như vậy trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm.
b. Ngoài lưu thông (xét hai nhân tố) không có sự tiếp xúc hàng tiền:
- Xét nhân tố (T) tiền: “tiền” tự nó không lớn lên.
- Xét nhân tố (H) hàng: Hàng ngoài lưu thông tức là vào tiêu dùng:


+ Tiêu dùng vào sản xuất, tức là tư liệu sản xuất. Vậy giá trị của nó chuyển
dịch dần vào sản phẩm - không tăng lên.
+ Tư liệu tiêu dùng, tiêu dùng cho cá nhân - cả giá trị và giá trị sử dụng đều
mất đi.
Như vậy cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng

thêm.
Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản
phải tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá (trong lưu thông ) nhưng
nhà tư bản không bán hàng hóa đó, vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản
tiêu dùng hàng hóa đó (ngoài lưu thông) tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản
thân nó - hàng hóa đó là sức lao động.
Vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là tư bản vận động vừa trong lưu
thông nhưng đồng thời vừa không trong lưu thông.
1.3 Hàng hóa sức lao động
“Sức lao động là tổng hợp thể lực, trí lực tồn tại trong con người sống mà con
người có thể vận dụng được trong quá trình lao động”.
Cần phân biệt sức lao động và lao động. Sức lao động là tiền đề của lao động,
khi mang sức lao động sử dụng trong quá trình sản xuất thì nó trở thành lao động.
1.3.1 Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá
trình lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hóa.
Sức lao động chỉ biến thành hàng hóa trong những điều kiện cụ thể sau:
- Một là: người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối
sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là
hàng hóa nếu nó do bản thân người có sức lao động chủ động bán. Những người nô
lệ, nông nô không có quyền tự do về thân thể không thể đem bán sức lao động của
mình. Do đó, muốn biến sức lao động thành hàng hóa phải thủ tiêu chế độ chiếm
hữu nô lệ và chế độ phong kiến.


- Hai là người có sức lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, ngưởi chủ sức lao
động không còn bất cứ hàng hóa nào để bán ngoài sức lao động của mình. Nếu có
tư liệu sản xuất thì người chủ sức lao động có dùng những tư liệu này để sản xuất
hàng hóa đem bán chứ không phải bán sức lao động của mình.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến sức lao động biến

thành hàng hóa. Như theo C. Mác: tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ của
những tư liệu sản xuất tìm thấy được những người lao động tự do, với tư cách là
người bán sức lao động của mình ở trên thị trường.
1.3.2 Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động
- Giá trị của hàng hóa sức lao động
+ Giá trị hàng hóa sức lao động được quyết định một cách gián tiếp thông qua
giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động
+ Các bộ phận hợp thành của giá trị sức lao động bao gồm:
* Giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức lao động và tái sản
xuất sức lao động của người lao động.
* Giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người lao động
* Những chi phí cho việc đào tạo nghề, nâng cao trình độ của người lao động
- Tổng khối lượng giá trị sức lao động được quyết định bởi hai nhân tố là nhân tố
thể chất và nhân tố lịch sử xã hội. Giới hạn tối thiểu do nhân tố thể chất quy định
còn giới hạn tối đa do nhân tố lịch sử xã hội quy định. Trong chủ nghĩa tư bản hiện
đại ngày nay, do sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, đòi hỏi sử dụng lao
động phức tạp với năng lực trí tuệ tinh thần ngày càng cao đã dẫn đến những biến
đổi lớn trong giá trị sức lao động ở những bộ phận lao động lành nghề trong một số
ngành công nghiệp.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động


+ Giá trị hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình người công nhân lao động sản xuất
+ Khác với các hàng hóa khác, khi tiêu dùng hàng hóa sức lao động nó tạo ra
một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động, đó chính là giá trị
thặng dư. Như vậy hàng hóa sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị.
Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hóa sức lao động so với hàng hóa
khác và là chìa khóa giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
1.3.3 Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề

Việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường và
Nghị quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh phải tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố
thị trường, thị trường lao động từ chỗ không tồn tại đã bắt đầu hình thành và phát
triển.
Thị trường sức lao động là thị trường mà trong đó các dịch vụ lao động được
mua bán thông qua một quá trình để xác định số lượng lao động được sử dụng
cũng như mức tiền công và tiền lương. Thị trường lao động là một trong những
loại thị trường cơ bản và có một vị trí đặc biệt trong hệ thống các thị trường của
nền kinh tế. Quá trình hình thành và phát triển cũng như sự vận động của thị
trường lao động có những đặc điểm hết sức riêng biệt. Thị trường lao động cũng
như các loại thị trường khác tuân thủ theo những quy luật của thị trường như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Điểm khác biệt lớn nhất ở
đây là do tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các
chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phầ,
tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát
triển, tạo nhiều việc làm đáp ứng yêu cầu việc làm và đời sống của người lao động,
do đó cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở rộng. Đại


hội VIII của Đảng nêu rõ: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân,
mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc cho người lao động. Mọi công
dân đều được tự do hành nghề, thuê nướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch
vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân
cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng
kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
và thiếu việc làm ở nông thôn” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
trang 114-115), vì vậy người lao động từ chỗ thụ đọng, trông chờ vào sự bố trí

công việc của Nhà nước (trong thời kỳ bao cấp), người lao động đã trở nên năng
động hơn, chủ động tự tìm việc làm trong các thành phần kinh tế. Các quan hệ lao
động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng lực của
mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao
động trên thị trường. Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp
pháp, nên đẩy mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận
và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn giải quyết việc làm tạo ra nhiều
cơ hội cho người lao động bán sức lao động của mình.
Ngày nay, vai trò của Nhà nước trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản.
Thay vì bao cấp trong việc giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra
cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xóa bỏ hàng rào về hành
chính và tạo điều kiện vất chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển
sản xuất, tạo thêm việc làm, tự do hành nghệ, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ
hội việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bở các nguyên tắc hành chính và ý
chí chủ quan của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo
các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao
động…
Theo Luật lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế quản lý hành chính về
lao động sang cơ chế thị trường. Việc triển khai bộ luật này đã góp phần quan
trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội trong thời gian qua. Nhà


nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu tư nước ngoài,
Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, nên đã
thúc đẩy các yếu tố của các thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành,
mở ra tiềm năng mới giải phóng các tiềm năng lao đọng và tạo mở việc làm. Đồng
thời với các cải tiến trong quản lý hành chính, hộ khẩu, hoàn thiện chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền tệ hóa tiền lương, tách chính sách tiền lương, thu
nhập khỏi chính sách xã hội đã góp phần làm tăng tính cơ động của lao động.
1.3.4 Vận dụng lý luận hàng hóa vào phát triển thị trường sức lao động ở

Việt Nam
Như ta đã phân tích ở trên, sức lao động được xem là hàng hóa xuất hiện
trong chế độ tư bản và việc sử dụng hàng hóa sức lao động đã giúp các nhà tư bản
bóc lột giá trị thặng dư của công nhân.Tại Việt Nam, Đảng và nhà nước đã công
nhận sự tồn tại và phát triển của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động
là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên việc vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động
vào đất nước ta – một đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo
nguồn nhân lực lao động trong thời kỳ hội nhập quốc tế phải đáp ứng một số yêu
cầu cụ thể như sau:
- Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: lợi ích của
người sử dụng lao động và người lao động phải có sự hài hòa. Quan hệ lao động
cần phải được pháp luật điều chỉnh, theo đó quan hệ giữa người sử dụng lao động
và người lao động không phải là đối kháng, lợi ích của cả hai đối tượng này phải
hòa hợp, thống nhất vì sự phát triển của xã hội.
- Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập
quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức, do đó đòi hỏi phải chủ
động xây dựng và phát triển nguồn nhân lực về cả số lượng và chất lượng nhất là
về trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng lực, phẩm chất.


- Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ
lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực với những con người biết nắm bắt và sử dụng các phương tiện kỹ thuật
hiện đại, có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, quản lý đồng thời phải
ứng xử có văn hóa và đạc đức nghề nghiệp. Đi đôi với đào tạo chuyên môn, nghiệp
vụ cần quan tâm giáo dục đến phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
- Cần thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng các hình thức như: phát

triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý nhà nước, phát
triển hệ thống thông tin, thống kê lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động,
nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức đại diện cho người lao động.
2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
2.1 Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình
sản xuất ra giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất ra giá trị thặng dư. Vì vậy,
quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản có các đặc điểm:
- Người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản;
- Sản phẩm mà công nhân làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản;
- Quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử
dụng với việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Để hiểu rõ hơn ta xét ví dụ trong ngành kéo sợi: Để sản xuất sợi, nhà tư bản
đã mua (giả định theo đúng giá trị):
- 1 kg bông trị giá 5 USD,
- Khấu hao máy móc là 2 USD,
- Mua sức lao động (10 giờ) là 3 USD.
Trong mỗi giờ lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới tương
đương 0,6 USD. Và, cứ 5 giờ thì kéo được 1 kg bông thành sợi…Nếu quá trình lao


động chỉ dừng ở đó (công nhân làm việc 5 giờ) thì không có giá trị thặng dư.
Nhưng thực tế quá trình lao động luôn kéo dài hơn 5 giờ vì tiền lương nhà tư bản
thuê công nhân là 10 giờ chứ không phải 5 giờ. Bởi vậy, trong 5 giờ tiếp theo nhà
tư bản vẫn chi tiền mua bông 5 USD, khấu hao máy móc 2 USD và vẫn có 1 kg
sợi. Xét cả ngày, nhà tư bản có 2 kg sợi.
Thu được: 2 kg x 10 USD = 20 USD.
Xét về mặt chi, tổng số tiền nhà tư bản chi ra để sản xuất 2 kg sợi là:
+ Tiền mua bông:


10 USD

+ Khấu hao máy móc:

4 USD

+ Tiền công:

3 USD

Tổng cộng: 10 USD +4 USD +3 USD = 17 USD
Lấy thu trừ đi chi, nhà tư bản đã có: 20 USD - 17 USD = 3 USD.
Nhà tư bản bán 2 kg sợi với giá 20 USD, và thu được lượng giá trị thặng dư
bằng: 3USD.
Như vậy, nếu quá trình lao động dừng lại ở điểm mà giá trị mới được tạo ra
chỉ đủ bù đắp giá trị sức lao động thì chỉ có sản xuất giá trị giản đơn, khi quá trình
lao động vượt quá điểm đó mới có sản xuất giá trị thặng dư.
Như vậy, Giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, là lao động không công
của công nhân.
2.2 Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Bản
chất của tư bản
a. Tư bản bất biến: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái TLSX mà giá trị
được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong
quá trình sản xuất
+ Gồm: * máy móc, nhà xưởng
* nguyên, nhiên, vật liệu
+ Tư bản bất biến ký hiệu là C.(Constant).



b. Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến
đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
Tư bản khả biến ký hiệu là V (Variable).
c. Bản chất của tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không
công của công nhân làm thuê, tư bản thể hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản, tư bản là phạm trù lịch sử.
Bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp
tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
2.3 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư:
a. Tỷ suất giá trị thặng dư: là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư
và tư bản khả biến, tức là tỷ lệ khi đó tư bản khả biến tăng lên giá trị.
Tỷ suất giá trị thặng dư ký hiệu là m’

Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với công
nhân.
Ta có công thức
b. Khối lượng giá trị thặng dư: là tích số giữa giá trị thặng dư với tổng tư
bản khả biến (V) được sử dụng.
Khối lượng giá trị thặng dư ký hiệu M

V: tổng khối lượng tư bản khả biến được sử dụng.
2.4 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu
ngạch
a. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư


*Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày
lao động, hoặc tăng cường độ lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị

sức lao động và năng suất lao động không thay đổi.
Giả sử ngày lao động 10h trong đó 5h thời gian lao động tất yếu, 5h thời gian
lao động thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng dư:
Giả sử ngày lao động kéo dài thêm 3h nữa, thời gian lao động tất yếu không
đổi (5h), thời gian lao động thặng dư tăng lên 8h:

- Để tăng giá trị thặng dư tuyệt đối, nhà tư bản tìm mọi cách để:
+ Tăng thời gian làm việc trong 1 ngày, tháng, năm…
+ Tăng cường độ lao động.
- Giới hạn ngày lao động: về thể chất và tinh thần của người công nhân: co
dãn trong khoảng: Thời gian lao động cần thiết < ngày lao động < 24 h.
- Giới hạn ngày lao động phụ thuộc:
+ Trình độ LLSX;
+ Tính chất QHSX;
+ So sánh lực lượng giữa công nhân và tư bản.
*Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động tất yếu, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị
sức lao động và làm tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện
dài ngày lao động và thời gian lao động không đổi.
(ví dụ trên)


Nếu thời gian lao động tất yếu rút ngắn còn 3h, thời gian lao động thặng dư
tăng lên 2h:
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì: hạ thấp giá trị sức lao động,
bằng cách giảm giá trị TLSH của công nhân. Do đó phải tăng năng suất lao động
xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, các ngành sản xuất TLSX để sản
xuất các TLSH. Nghĩa là tăng năng suất lao động xã hội.

*Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu thu được do giá trị cá
biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội
- Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải tăng năng suất lao động trong
các xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hóa so với giá trị xã hội.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời đối với mỗi nhà tư bản,
nhưng đối với xã hội nó là phổ biến, giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.
*So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối:
GTTD tương đối
- Do tăng NSLĐ XH;

GTTD siêu ngạch
- Do tăng NSLĐ cá biệt;

- Toàn bộ các nhà TB thu;

- Từng nhà TB thu;

- Biểu hiện quan hệ giữa công

- Biểu hiện quan hệ giữa công

nhân và tư bản
nhân với tư bản, tư bản với tư bản.
2.5 Sản xuất giá trị thặng dư- quy lật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản
ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất ấy. Tạo ra giá trị
thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy luật kinh tế tuyệt đối được C. Mác
xác định là quy luật sản xuất giá trị thặng dư.


Nội dung quy luật: Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là
mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản cũng như của toàn bộ
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2.6 Ứng dụng học thuyết giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn là học thuyết kinh tế quan trọng khi
nguyên cứu về chủ nghĩa tư bản. Nó có một ý nghĩa thời đại sâu sắc mà chúng ta
cần biết khai thác, vận dụng để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Nếu chúng ta gạt bỏ đi tính chất bóc lột của hai phương pháp sản xuất giá trị
thăng dư tuyệt đối và tương đối thì những người xã hội chủ nghĩa của chúng ta
hoàn toàn có quyền ứng dụng nó trong điều kiện đất nước hiện nay. Ví dụ đối với
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối thì trong hoàn cảnh nhất định
chúng ta vẫn có thể tăng cường lao động, kéo dài ngày lao động để tạo ra nhiều sản
phẩm thặng dư cho xã hội. Hay là phương pháp sản xuất giá trị thăng dư tương đối
tức là phương pháp phải ứng dụng tiến bộ khoa học nâng cao năng suất, để rút
ngắn thời gian tất yếu, do đó thời gian thặng dư sẽ kéo dài ra và sản phẩm thặng dư
sẽ nhiều hơn. Trong tất cả những điều đó, gạt đi tính chất bóc lột chúng ta hoàn
toàn có thể ứng dụng vào tình hình đất nước ta hiện nay.
3. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Lý luận về tiền công đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu bắt đầu là
W.Petty. Tiếp theo sự phát triển lý luận về tiền công của các nhà kinh tế cổ điển
trước đó, lý luận về tiền công của C. Mác đã ra đời.
Lý luận tiền công của C. Mác đã vạch rõ bản chất của tiền công dưới CNTB
đã bị che đậy - tiền công là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà
kinh tế tư bản trước đó. Những luận điểm của C. Mác về tiền công vẫn còn giá trị
đến ngày nay.

Do đó, việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền công của C. Mác
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất to lớn.


3.1 Một số học thuyết lí luận về tiền công (tiền lương)
William Petty là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế
trường phái cổ điển ở Anh. Lý thuyết về tiền lương của ông được xây dựng trên cơ
sở lý thuyết giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hóa, tiền lương là giá cả tự
nhiên của lao động. Theo ông, giới hạn cao nhất của tiền lương là mức tư liệu sinh
hoạt tối thiểu để nuôi sống người công nhân. Nếu lương cao thì công nhân thích
uống rượu, lười lao động; còn lương thấp thì công nhân tích cực lao động và gắn
với nhà tư bản hơn. Nói một cách khác, muốn công nhân làm việc thì biện pháp là
hạ thấp tiền lương xuống mức tối thiểu. W. Petty là người đầu tiên đặt nền móng
cho lý thuyết “qui luật sắt về tiền lương”
Ủng hộ quan điểm “qui luật sắt về tiền lương”, A.R.J. Turgot – bộ trưởng tài
chính Pháp, cho rằng tiền lương của công nhân phải thu hẹp ở mức tư liệu sinh
hoạt tối thiểu. Nguyên nhân là do cung lao động luôn lớn hơn cầu về lao động. Vì
vậy công nhân cạnh tranh với nhau để có việc làm, nhà tư bản có điều kiện để trả
lương ở mức tối thiểu. Vì trả lương ở mức tối thiểu nên sản phẩm lao động của
công nhân nông nghiệp bằng tổng của tiền lương và sản phẩm thuần túy. Ở đây,
tiền lương công nhân là thu nhập theo lao động, còn sản phẩm thuần túy là thu
nhập của nhà tư bản, gọi là lợi nhuận.
Adam Smith – nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh – cho rằng cơ sở
tiền lương là giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và con
cái anh ta để được tiếp tục đưa ra thay thế trên thị trường lao động. Ông nghiên cứu
mức bình thường của tiền lương và chỉ ra giới hạn tối thiểu của nó. Theo ông, nếu
tiền lương thấp hơn mức tối thiểu này, là thảm họa cho sự tồn tại của dân tộc. A.
Smith là người ủng hộ trả lương cao. Theo ông, tiền lương cao sẽ tạo khả năng
tăng trưởng kinh tế và mức tiền lương cao tương đối là nhân tố kích thích công
nhân tăng năng suất lao động.

David Ricardo lại coi lao động là hàng hóa. Tiền lương hay giá cả thị trường
của lao động được xác định trên cơ sở giá cả tự nhiên và xoay quanh nó. Giá cả tự


nhiên của hàng hóa lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt nuôi sống người
công nhân và gia đình anh ta. Ông đã chỉ ra cấu thành tư liệu sinh hoạt cho người
công nhân phụ thuộc yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc, song ông lại chủ trương
những tư liệu sinh hoạt đó chỉ ở mức tối thiểu. Nói một cách khác ông ủng hộ lý
thuyết “qui luật sắt về tiền lương”.
3.2 Tư tưởng của C. Mác về tiền công - Bản chất của tiền công
Tiền công là biểu biện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả
của hàng hóa sức lao động.
Theo C. Mác thì sức lao động của mỗi người gồm cả thể lực và trí lực lao
động là sự vận động của sức lao động đó. Nhưng trong quá trình lao động, sức lao
động đã tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần dôi ra này bị nhà
tư bản chiếm không. Nhưng xã hội lại cho rằng nhà tư bản không bóc lột công
nhân vì nhà tư bản trả tiền cho công nhân sau khi công nhân đã hao phí sức lao
động để sản xuất ra hàng hóa. Mặt khác, tiền công được trả theo thời gian lao động
(ngày, giờ, tuần, tháng) hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Như vậy
tiền lương đã che dấu mất thực chất bóc lột của CNTB. Nhưng bề ngoài thì dường
như toàn bộ lao động mà công nhân đã hao phí đều được nhà tư bản trả đầy đủ.
Thực ra, tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân không phải là trả công lao
động. Nếu lao động bán được thì lao động phải là hàng hóa và phải có giá trị,
nhưng lao động không phải là hàng hóa, chỉ có sức lao động mới là hàng hóa, vì
lao động chỉ xuất hiện trong quá trình sản xuất sau khi đã mua bán giữa công nhân
là người bán với nhà tư bản là người mua. Khi công nhân lao động thì lao động của
công nhân được thực hiện trong xí nghiệp của nhà tư bản. Do đó kết quả lao động
thuộc về nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân bởi vì công nhân không thể bán
cái mà anh ta không có. Công nhân chỉ có sức lao động nên chỉ bán sức lao động.
Hay nói cách khác, chỉ có sức lao động mới là hàng hóa. Vậy bản chất của tiền

công hay tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của sức lao động
nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động.


Tiền công trong chủ nghĩa tư bản đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia
ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư,
thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền công
che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
3.3 Các hình thức cơ bản của tiền công
Tiền công có 2 hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công
tính theo sản phẩm.
a. Tiền công tính theo thời gian
Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay
nhiều tùy theo thời gian lao động của công nhân như giờ, ngày, tuần, tháng (có tính
đến trình độ và cường độ của lao động).
Cần phân biệt lương giờ, lương ngày, lương tháng. Giá cả của một giờ lao
động là thước đo chính xác mức tiền lương tính theo thời gian. Tiền lương ngày và
tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó thấp hay cao, vì còn tùy thuộc theo ngày
lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá đúng mức tiền lương không chỉ căn
cứ vào lượng tiền, mà còn căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao
đông.
Thực hiện chế độ tiền lương theo thời gian, nhà tư bản có thể không thay đổi
lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao động do kéo dài ngày lao
động hoặc tăng cường độ lao động. Trả lương kéo dài thời gian còn có lợi cho nhà
tư bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hóa tiêu thụ dễ dàng, thực hiện lối
làm việc thêm giờ, tức là làm việc ngoài số giờ quy định của ngày lao động. Còn
khi thị trường không thuận lợi buộc phải thu hẹp sản xuất, nhà tư bản rút ngắn
ngày lao động và thực hiện lối trả công theo giờ, do đó hạ thấp tiền lương xuống
rất nhiều. Như vậy, công nhân không những bị thiệt thòi khi ngày lao động thì kéo
dài quá độ, mà còn bị thiệt cả khi phải làm việc bớt giờ.

b. Tiền công tính theo sản phẩm


Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ
thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng và chất lượng
công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định gọi là đơn giá tiền
công. Khi quy định đơn giá, người ta lấy tiền lương trung bình của công nhân trong
ngày chia cho số lượng sản phẩm mà công nhân sản xuất ra trong 1 ngày bình
thường. Do đó, về thực chất, đơn giá tiền lương là tiền lương trả cho một thời gian
cần thiết nhất định để sản xuất một sản phẩm. Vì thế, tiền lương tính theo sản phẩm
chỉ là hình thức chuyển hóa của tiền lương tính theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo sản phẩm càng che giấu và xuyên tạc bản chất của
tiền lương hơn so với hình thức tiền lương tính theo thời gian. Việc thực hiện hình
thức tiền lương theo sản phẩm một mặt làm cho nhà tư bản dễ dàng kiểm soát công
nhân, mặt khác đẻ ra sự cạnh tranh giữa công nhân, kích thích công nhân phải lao
động tích cực nâng cao cường độ lao động, tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được
tiền công cao hơn.
Vì vậy, chế độ tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản thường dẫn đến tình trạng
lao động khẩn trương quá mức, làm kiệt sức người lao động. Về mặt lịch sử, tiền
lương tính theo thời gian được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu phát triển của
chủ nghĩa tư bản, còn ở giai đoạn sau thì tiền lương tính theo sản phẩm được áp
dụng rộng rãi hơn. Hiện này, hình thức tiền lương tính theo thời gian ngày càng
được mở rộng.
3.4 Tiền công danh nghĩa, tiền công thực tế và các nhân tố ảnh hưởng đến
tiền công
a. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số lượng tiền tệ mà người công nhân nhận được do
bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Nó là giá cả sức lao động. Nó tăng
giảm theo sự biến động trong quan hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao động trên thị

trường. Đối với người công nhân, điều quan trọng không chỉ ở tổng số tiền nhận


được dưới hình thức tiền lương mà còn ở chỗ có thể mua được gì bằng tiền lương
đó, điều đó phụ thuộc vào giá cả vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ.
Tiền công thực thế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tư liệu
tiêu dùng mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Rõ
ràng, nếu điều kiện khác không thay đổi, tiền lương thực tế phụ thuộc theo tỷ lệ
thuận vào đại lượng tiền lương danh nghĩa và phụ thuộc theo tỷ lệ nghịch với mức
giả cả vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ.
b. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến đổi của tiền công
6 nhân tố ảnh hưởng đến sự biến đổi tiền công, đó là: sự biến đổi của giá trị
sức lao động, sự biến đổi nhu cầu của người lao động, tình trạng thất nghiệp, lạm
phát, sự phân biệt khi trả công lao động và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.
Ngày nay, việc trả công trong các xí nghiệp tư bản dựa trên khía cạnh tâm lý
của hoạt động, nhằm xoa dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Các công ty, tập
đoàn tư bản lớn đã tìm cách để xây dựng trong tổ chức của mình một “bầu không
khí tin cậy lẫn nhâu”, xây dựng cho mỗi người lao động “ý thức làm chủ xí
nghiệp”. Tất nhiên, tất cả những thủ đoạn ấy vẫn không thể che đậy được mẫu
thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê.
3.5 Thực trạng vấn đề tiền lương ở Việt Nam
Quan điểm của Đảng tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7
(khóa VIII) cho rằng “tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, trả lương đúng cho người lao đông chính là thực hiện đầu tư cho phát triển,
góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần
trách nhiệm và hiệu suất công tác”.
Đại hội lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định “Cải cách cơ bản chế độ tiền
lương cán bộ, công chức theo hướng tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương; điều chỉnh tiền
lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội; hệ thống thang bậc lương
bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi”.



Trong nhiều năm qua, nhà nước luôn cố gắng cải cách các chính sách tiền
lương nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù hợp với nền kinh tế đang
phát triển nhanh. Tuy nhiên, ngoài những thành công đã đạt được vẫn còn những
hạn chế và bất cập.
Theo số liệu từ Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung
cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ
210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày
1/7/2013, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.150.000 nghìn
đồng/tháng. Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến
trong Đề án tiền lương giai đoạn 2003 - 2007 và 2008 - 2012, có điều chỉnh theo
mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của NSNN. Tuy nhiên
căn cứ thực tế mức sống hiện nay, mức lương tối thiểu này hoàn toàn là không đủ
để người lao động có thể sống được trong một tháng, nhất là ở những thành phố
lớn như Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh. Khi lạm phát ngày càng đẩy giá cả tiêu
dùng leo thang chóng mặt. Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng chỉ ra
rằng “Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ, công chức,
người lao động gắn bó, tận tâm với công việc”
Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều công ty đã trả mức lương
trung bình từ hơn 2 triệu đồng một tháng thì mức này ở phương án tối thiểu của Bộ
Lao động và thương binh xã hội chỉ là 1.65 triệu đồng, điều này cũng gây ra nhiều
thiệt thòi cho các lao động tại các công ty nước ngoài, khi mà phía nước ngoài sẽ
không chấp nhận trả quá cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định.
Các doanh nghiệp đều cho rằng mức lương này là quá thấp, gây khó khăn cho
doanh nghiệp khi muốn tuyển dụng lao động. Mức lương tối thiểu cũng khiến cho
nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi khách hàng tính giá thành cũng dựa vào nó.
Hiện tại lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng đang áp dụng chung cho cả
doanh nghiệp lẫn cả khối hành chính sự nghiệp, cho nên nếu muốn tăng thì sẽ ảnh



hưởng tới ngân sách nhà nước, điều này khiến mức lương tối thiểu của doanh
nghiệp cũng tăng rất chậm, không phù hợp thực tế.
Những vấn đề trên cho thấy được một phần những điểm bất cập của hệ
thống tiền lương tại Việt Nam hiện nay. Những năm tới, hy vọng với mong muốn
chủ trương cải cách và đổi mới vấn đề tiền lương của Đảng và Nhà nước, những
bất cập và hạn chế trên sẽ được giảm bớt, người lao động sẽ có được mức lương
cao hơn ổn định hơn để có thể đảm bảo được cuộc sống của mình.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu học tập Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; NXB ĐH
quốc gia TPHCM – 2012
2. Văn kiện Đại hội Đảng
3. Các website: Tusach.thuvienkhoahoc.com; luanvan.co, doko.vn/luan-van
4. />5.

Q==.html
/>


×