Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kiên Giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.78 KB, 97 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta có 54 dân tộc anh em, các dân tộc đã đoàn kết gắn bó với
nhau trong suốt trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước. Chính vì vậy,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn xác định: "Giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất
chiến lược của cách mạng Việt Nam".
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta càng có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả cộng đồng các dân tộc ở nước ta, cũng như tiềm năng thế mạnh của
từng dân tộc trên nguyên tắc "Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau" góp
phần xây dựng đất nước, thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chỉ thị, nghị quyết và những chính sách cụ thể nhằm nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng, các miền
trong nước, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Đương
nhiên, quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở
từng nơi, từng lúc còn có nhiều vấn đề đặt ra cần phải được tiếp tục
nghiên cứu một cách có hệ thống và đề xuất những giải pháp kịp thời.
Cũng như đồng bào các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam,
đồng bào các dân tộc thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở
Kiên Giang nói riêng có truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước, cách
mạng kiên cường đã góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc trước đây và trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay. Mặc dù ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống
hiện nay đã có đổi mới và tiến bộ hơn trước, nhưng nhìn chung đời sống



2

của đồng bào vẫn còn nhiều khó khăn và sự chênh lệch về đời sống kinh tế
- xã hội, văn hóa, trình độ dân trí giữa đồng bào các dân tộc thiểu số so với
đồng bào Kinh, giữa đồng bào dân tộc thiểu số này so với đồng bào dân tộc
thiểu số khác, ở cùng một địa bàn dân cư hay từng địa phương như ở tỉnh
Kiên Giang hiện nay còn khá rõ rệt. Đặc biệt là tình trạng phân hóa giàu
nghèo - do tác động của nền kinh tế thị trường - đang tiếp tục diễn ra trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, xu thế hội nhập nền kinh tế
quốc tế và khu vực tăng lên và các mặt tích cực và tiêu cực của chúng luôn
diễn ra đan xen và tác động nhiều mặt, nhiều chiều. Vấn đề dân tộc và tôn
giáo trên thế giới còn đang diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tìm
mọi cách thực hiện âm mưu "Diễn biến hòa bình" hòng lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Kiên Giang ở vào một địa bàn rất "nhạy cảm" của đất
nước, trong khu vực, cho nên những diễn biến tình hình nói trên tác động
không ít đến tình hình trong tỉnh.
Do đó, việc thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước,
nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính
trị để Kiên Giang tránh tụt hậu, hội nhập với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và xu thế phát triển của khu vực là một yêu cầu cấp
thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc đối với đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kiên Giang hiện nay"
có ý nghĩa quan trọng và thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn, không
những đáp ứng yêu cầu cấp bách mà còn có ý nghĩa lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc luôn luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện bằng các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, gần đây có một số công trình

nghiên cứu, bài viết liên quan đến nội dung của đề tài ở nhiều khía cạnh


3

khác nhau, chẳng hạn như: "Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân tộc Việt Nam", Ủy ban Dân tộc và miền núi, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Trịnh Quốc Tuấn:
"Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta trong chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1989; Bùi
Xuân Trường: "Một số vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận,
số 2/1996; Cư Hòa Vần: "Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 1/1998; Đặng Vũ Liêm: "Thực hiện chính sách dân tộc
trong sự nghiệp đổi mới trên các vùng biên giới", Tạp chí Dân tộc và thời
đại, số 32/1996; Hoàng Đức Nghi: "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ở các
vùng dân tộc và miền núi, cải thiện đời sống nhân dân", Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 2/1999; Nguyễn Khắc Mai: "Những vấn đề đặt ra đối
với chính sách dân tộc trong tình hình hiện nay", Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 2/1998; Lâm Chí Việt: "Các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang góp
phần dựng nước và giữ nước", các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Trong những năm qua có nhiều tác giả đề cập đến việc thực hiện chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có luận văn thạc sĩ triết học chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về đề tài:
"Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số Kiên Giang hiện nay".
Kế thừa kết quả của những công trình khoa học, những bài viết trước

đây, luận văn tiếp tục nghiên cứu để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang, chủ yếu là đồng
bào dân tộc Khơ-me chiếm 12,19% và đồng bào dân tộc Hoa chiếm 2,16%


4

so với tỷ lệ dân số trong toàn tỉnh, còn đồng bào các dân tộc thiểu số khác
chiếm tỷ lệ không đáng kể. Do đó, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
luận văn là tìm hiểu việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước đối với đồng bào dân tộc Khơ-me (có ít nhiều so sánh với đồng bào
dân tộc Hoa) cư trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Thời gian khảo sát chủ yếu từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi
mới cho đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là góp phần xây dựng cơ sở khoa học và thực
tiễn, đề xuất phương hướng giải pháp nhằm đổi mới việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang
hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Phân tích thực trạng tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục và
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu
số ở tỉnh Kiên Giang.
- Xác định những nhu cầu bức thiết về đổi mới việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang.
- Xác định phương hướng và giải pháp chủ yếu đổi mới việc thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở
tỉnh Kiên Giang.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và chính
sách dân tộc.


5

- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng đời sống kinh tế - xã hội
và văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và việc triển khai thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Kiên Giang.
- Để giải quyết các vấn đề đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận
văn vận dụng tổng hợp phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp, so sánh, hệ thống, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho việc xác định những
yêu cầu khách quan và nội dung của sự đổi mới việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang. Từ
thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Kiên Giang luận văn đề
xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng cho phù hợp với tình hình thực tế ở tỉnh
Kiên Giang.
- Kết quả đạt được trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề liên quan đến dân tộc và thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, đồng thời làm tài liệu tham
khảo cho công tác giảng dạy các môn dân tộc học, văn hóa học, chủ nghĩa
xã hội khoa học, triết học...
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày trong 3 chương, 7 tiết.


6

Chương 1
ĐẶC ĐIỂM CƯ TRÚ, TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA
VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH KIÊN GIANG

1.1. ĐẶC ĐIỂM CƯ TRÚ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA CỘNG
ĐỒNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở KIÊN GIANG

Kiên Giang là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam đất nước với bờ biển
dài 200 km, đường biên giới 56,8 km giáp Vương quốc Campuchia, phía
đông và đông nam giáp tỉnh An Giang và tỉnh Cần Thơ, phía nam giáp tỉnh
Cà Mau, phía tây giáp Vịnh Thái Lan.
Kiên Giang là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Diện
tích tự nhiên là 6.245 km 2 trong đó đất nông nghiệp 388.000 ha, đất lâm
nghiệp 220.000 ha; dân số 1.517.000 người, mật độ bình quân 243 người/km2.
Kiên Giang là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, dân tộc kinh chiếm 84,6%,
dân tộc Khơ-me chiếm 12,98%, dân tộc Hoa chiếm 2,16%, ngoài ra còn
các dân tộc Tày, Nùng...
Kiên Giang chia thành bốn vùng kinh tế: Vùng tứ giác Hà Tiên, vùng
sông Hậu, vùng bán đảo Cà Mau, vùng biển Hải Đảo. Có thể nói rằng, cách
đây vài ba thế kỷ, cha ông ta đã dày công khai phá vùng đất hoang vu xưa
kia, xây đắp nên vùng đất Nam Bộ trù phú tươi đẹp ngày nay, trong đó tỉnh
Kiên Giang là một tỉnh thuộc vùng đất cực Tây Nam Bộ. Tỉnh Kiên Giang
gồm một nửa đất liền, một nửa còn lại là đảo, phần đất liền là lưu vực của
các kênh, rạch, sông Cái Lớn, sông Cái Bé. Vốn là một nửa của dải đất

sông Hậu và biển tạo thành đồng bằng của các sông thuộc các huyện như:
huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện Châu Thành là vùng đất phù sa
mầu mỡ.


7

Trước kia vốn được nói tới là vùng đất "làm chơi ăn thật", phía Nam
tỉnh Kiên Giang từ sông Cái Lớn trở xuống bán đảo Cà Mau là những cánh
rừng tràm bát ngát với các "sân chim", "vườn chim, máng chim" nổi tiếng.
Về phần đảo, có trên 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo
Phú Quốc ở vùng biển phía Tây Nam tỉnh Kiên Giang. Cách bờ biển Hà
Tiên 45 km, cách thị xã Rạch Giá 115 km; phần đảo và các núi đá xung quanh
thị xã Hà Tiên chủ yếu là núi đá vôi, đá hoa cương và nhiều loại đá quý.
Nhìn trên bản đồ hành chính, tỉnh Kiên Giang có hình dáng như
chiếc thước thợ (chữ L). Về địa lý là một tỉnh có nhiều nét khá độc đáo; bởi
lẽ có rừng, đảo, biển, đồng bằng, núi; các sông, kênh, rạch đều chảy theo
hướng Tây, vì biển Kiên Giang ở phía Tây; khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều
mang tính chất "nửa Đại Tây Dương, nửa xích đạo".
Đồng bào dân tộc thiểu số ở Kiên Giang thường sống xen kẽ với
đồng bào dân tộc Kinh. Trong quá trình lịch sử lâu dài, phần nhiều đồng
bào các dân tộc thiểu số sinh sống vùng sâu, vùng xa trục lộ giao thông,
chủ yếu sống bằng nghề nông, trồng lúa nước. Do đó, từ xưa đến nay
đồng bào các dân tộc thiểu số luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, thậm
chí hiện nay nhiều nơi vẫn chưa thoát khỏi cảnh đói nghèo do thiếu vốn
sản xuất, đông con, chưa biết tính toán làm ăn nên mức sống rất thấp so
với đồng bào dân tộc Kinh.
Đồng bào các dân tộc thiểu số Kiên Giang định cư chủ yếu ở vùng
sâu, vùng xa vùng đất phèn mặn, vùng kháng chiến cũ, căn cứ địa cách
mạng, xa trục lộ giao thông, thiếu nước ngọt cho sản xuất, cũng như cho

đời sống hàng ngày. Có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số sống xen kẽ
với các dân tộc Kinh ở thị trấn, thị xã... nhưng họ ít tham gia buôn bán.
Ngoài ra, còn một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số sống theo trục lộ giao
thông như ở huyện Hòn Đất, Châu Thành, Hà Tiên, Gò Quao... Nhiều tài


8

liệu cho thấy trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng
đất Kiên Giang nói riêng, đến lập nghiệp sinh sống sớm nhất là người Khơme. Vì vậy, từ lâu họ đã quen với vùng đất ngập nước, lụt lội, trên rừng có
cọp, dưới sông thì cá sấu, họ vẫn luôn bám đất để sinh sống bằng nghề
trồng trọt, chăn nuôi gia súc. Họ đã sớm cải tạo vùng đất trũng, đầm lầy bao
quanh để trồng cây lúa nước ngay khi chưa xuất hiện người Kinh và người
Hoa.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang đã sớm tìm được giống
lúa và kỹ thuật canh tác thích hợp, họ biết lợi dụng thủy triều lên đưa nước
vào ruộng, đắp đập giữ nước, rồi phá đập khai nước ra để rửa phèn cho đất
ruộng. Cứ như vậy họ tạo ra đồng ruộng chứa đầy phù sa. Mặt khác, đối
với một số ruộng ở xa kênh rạch thì họ đắp bờ thành từng ô vuông giữ
nước mưa, khi cần họ tát nước vào ruộng bằng gầu vai, gầu sòng. Có thể
xem đó là một phát minh độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số trong thời
kỳ đầu làm thủy lợi, cải tạo tự nhiên và kỹ thuật canh tác.
Để phù hợp với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở Kiên Giang thường định cư trên giồng đất để khai thác vùng đất
trũng, ngập nước phèn mặn xung quanh mình. Những điểm tụ cư đó dần
dần thu hút một số tộc người khác đến cùng sinh sống, tạo thành những
phum và sóc. Phum, sóc là đơn vị cư trú của đồng bào dân tộc Khơ-me ở
Kiên Giang nói riêng, đồng bào dân tộc Khơ-me đồng bằng Nam Bộ nói
chung và đồng bào các dân tộc thiểu số khác ở khu vực này. Hiện nay
phum và sóc của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang tuy không

phải là đơn vị hành chính chính thức, nhưng đó là một thực thể tồn tại qua
nhiều thế kỷ nay. Trong từng phum, sóc đồng bào sống hòa thuận, đùm bọc
lẫn nhau, đồng thời họ sống trung thực, hòa hợp với tất cả các dân tộc anh
em ở xung quanh cùng nhau hướng về hạnh phúc bình dị. Trong từng sóc


9

có ngôi chùa phật là trung tâm sinh hoạt tôn giáo đồng thời cũng là trung
tâm sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Tóm lại, tỉnh Kiên Giang là vùng đất nằm ở cực Tây Nam Bộ của
Việt Nam, có những nét đặc thù về vị trí, địa lý, điều kiện tự nhiên có núi,
rừng, bờ biển, một phần đất liền - đồng bằng, một phần là biển đảo. Đã
nhiều thế kỷ qua, đất ở vùng duyên hải Kiên Giang vẫn không ngừng vươn
ra biển. Tỉnh Kiên Giang không chỉ nổi bật ở sự sinh động về cảnh quan
thiên nhiên mà còn nổi bật ở vị trí thuận lợi cho quá trình tiếp xúc, giao lưu
kinh tế văn hóa với những miền quê khác. Vị trí mở cửa đó là một trong
những tiềm năng phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của tỉnh Kiên Giang,
đồng thời cũng đặt ra những nhiệm vụ nặng nề trong lĩnh vực an ninh vùng
biên giới của tỉnh.
Trong thực tế, lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Kiên Giang có
quan hệ mật thiết với lịch sử hình thành phát triển các cộng đồng dân tộc ở
đồng bằng Nam Bộ. Tiến trình lịch sử phát triển Kiên Giang thể hiện nét
đặc thù riêng trên một ý nghĩa tương đối, nhưng đó là nét đặc thù trong sự
thống nhất của cả cộng đồng các dân tộc cùng một lãnh thổ quốc gia Việt Nam.
- Vào thế kỷ XIV, XV ở Campuchia, đế chế Ăng-co, Nhà nước quân
chủ chuyên chế trung ương tập quyền, cai trị hà khắc bắt dân chịu sưu cao
thuế nặng, để thỏa mãn sự xa hoa lãng phí cung đình. Sự phản kháng của
nhân dân và giới quý tộc ly khai bị triều đình dùng quân đội nhà nghề và
hình phạt dã man để đàn áp. Cùng lúc đó giặc ngoại xâm (quân Xiêm) vào

giày xéo, gây bao cảnh tang tóc cho nhân dân. Trong hoàn cảnh đó một số
khá đông đồng bào dân tộc Campuchia chạy loạn về đồng bằng sông Cửu
Long (trong đó có Kiên Giang) tạo thành tộc người Khơ-me Nam Bộ, tách
khỏi khối đồng tộc của mình ở Campuchia và trở thành một dân tộc trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.


10

Vào thế kỷ XVII, ở nước ta chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa
Nguyễn diễn ra liên miên, nhân dân đói khổ vì sưu cao, thuế nặng, lại bị
bọn tham quan ô lại áp bức bóc lột dã man, bị bắt đi lính để phục vụ cho
chiến tranh... cùng với nhiều lý do khác nữa, một bộ phận khá đông trong
số họ phải rời bỏ quê hương để tìm đến đồng bằng sông Cửu Long. Đối với
những người dân tha phương cầu thực thì đây là nơi dung thân lý tưởng.
Họ dựng lều lập xóm để nương tựa nhau làm ăn, sinh sống. Đặc biệt là vào
khoảng thời gian 1658-1669, để gấp rút xây dựng lực lượng chống đàng
ngoài (chúa Trịnh), chúa Nguyễn bằng nhiều chính sách - từ khuyến khích
đến cưỡng bức - đã tạo ra làn sóng di dân ồ ạt đến vùng này.
Đến cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ XVIII đã hình thành khu dân
cư đồng bào dân tộc Việt và chính thức được đặt thành trấn Hà Tiên (năm
1714) do Mạc Cửu làm tổng binh. Trấn Hà Tiên đã xuất hiện trên bản đồ
nước Đại Việt từ đó.
Như vậy ở Kiên Giang, đầu thế kỷ XVIII đã hình thành cộng đồng
dân cư và được xác nhận trong bản đồ hành chính của nước ta. Cộng đồng
dân cư đó gồm nhiều dân tộc, trong đó nhiều nhất là dân tộc Kinh (đa số),
sau đó là dân tộc Khơ-me và sau nữa là dân tộc Hoa. Các dân tộc thiểu số
Khơ-me, Hoa là một bộ phận của cộng đồng dân cư ở Kiên Giang nói
riêng, của Nam Bộ Việt Nam nói chung.
Đồng bào dân tộc Khơ-me cư trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, hình

thành khu cư trú phum, sóc mang nặng tính chất làng, xã, nông thôn in đậm
dấu vết của các làng, xã, gia tộc khác hẳn ở Campuchia phum, sóc là đơn vị
hành chính. Do đó, ở Kiên Giang người đứng đầu trong phum, sóc do chính
nhân dân trong phum, sóc lựa chọn, không có quan địa phương, cấp chính
quyền trung gian, điều đó cho thấy rằng vùng đất Kiên Giang không được
Nhà nước Ăng-co quản lý.


11

Đồng bào dân tộc Khơ-me ở Kiên Giang có quan hệ gắn bó với đồng
bào dân tộc Campuchia, nếp sinh hoạt, phong tục tập quán, nghi lễ tôn giáo
và ngôn ngữ có nhiều điểm giống nhau, những diễn biến tình hình ở
Campuchia và Việt Nam nói chung đều tác động ảnh hưởng đến tâm tư
đồng bào dân tộc Khơ-me hai nước (Việt Nam - Campuchia). Đồng bào
dân tộc Khơ-me với bản chất thật thà, dễ tin, có tinh thần đoàn kết dân tộc
nhưng cũng nặng tư tưởng hẹp hòi dân tộc, sợ bị đồng hóa, tin vào phép
nhiệm mầu của Trời và lòng nhân ái bao la của Phật, nhưng cũng nặng mê
tín, dị đoan, một bộ phận lớn trình độ giác ngộ về giai cấp còn thấp.
Đối với đồng bào dân tộc Khơ-me vấn đề dân tộc và tôn giáo gắn bó
với nhau chặt chẽ, họ rất mộ đạo, đại bộ phận theo phật giáo tiểu thừa,
thanh niên khi đến tuổi trưởng thành đều đi tu, coi đó như một nghĩa vụ đền
đáp công ơn cha mẹ và có như vậy mới được mọi người kính trọng, được
coi như là người có học thức. Sư sãi dân tộc Khơ-me phần đông xuất thân
từ thành phần lao động, họ sống chủ yếu nhờ sự dâng cơm của đồng bào
dân tộc Khơ-me ở các sóc. Vì vậy, họ gắn bó với đồng bào dân tộc Khơme, ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của quần chúng Khơ-me.
Đồng bào dân tộc Khơ-me coi sư sãi là hiện thân của đức phật nên rất tôn
trọng và tin tưởng. Ngôi chùa của đồng bào dân tộc Khơ-me, là trung tâm
sinh hoạt văn hóa, do đó được đồng bào dân tộc Khơ-me góp công xây dựng
và bảo vệ.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kẻ địch có
nhiều âm mưu thủ đoạn thâm độc thực hiện chính sách "chia để trị" gây sự
chia rẽ kỳ thị dân tộc, chúng "dùng đồng bào dân tộc Khơ-me chống đồng
bào dân tộc Kinh" và "dùng đồng bào dân tộc Kinh chống lại đồng bào dân
tộc Khơ-me". Trong các cơ quan hành chính và quân đội của Mỹ - Ngụy có
nhiều người dân tộc Khơ-me tham gia, một số trí thức dân tộc Khơ-me
được đào tạo ở các trường của Pháp rồi đưa trở lại Việt Nam, bổ sung vào
guồng máy cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tiếp theo, đế quốc Mỹ


12

tuyển chọn người trong các tầng lớp trên của dân tộc Khơ-me, đào tạo trở
thành tay sai đắc lực phục vụ âm mưu chống phá cách mạng hai nước Việt
Nam - Campuchia tiểu biểu như: Sơn Ngọc Thành, Sơn Thái Nguyên;
chúng dựng lên và nuôi dưỡng các tổ chức đảng phái chính trị phản động
dùng màu sắc tôn giáo dân tộc để lừa mị quần chúng nhân dân, tập hợp lực
lượng chống phá cách mạng Việt Nam, tiểu biểu như: các tổ chức "Khơ-me
Sơ rây", "Cơ quan tổng nha Miên vụ"...
Sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt từ 1976- 1985 bọn phản động
luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, chúng kích động gây chia rẽ hận thù dân tộc. Lợi dụng mọi sơ hở
thiếu sót của Đảng ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc để kích động
tư tưởng chống đảng, chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa.
Một số tên đứng ra tập hợp nhen nhóm tổ chức như: "Đảng khăn trắng",
"Linh hồn", "Khơ-me"... lôi kéo từ 300 - 500 người tham gia, gây bạo loạn
ở Tào Hợi - Giục Tượng, huyện Châu Thành - Kiên Giang.
Có những tổ chức bị ta phá, nhưng sau đó chúng khôi phục lại như
"Đảng khăn trắng" làm cho tình hình an ninh trật tự vùng đồng bào Khơme từng lúc diễn biến phức tạp.
Đến tháng 7/1993 Chính phủ Liên hiệp ở Campuchia thành lập, các

đảng phái phản động ở Campuchia tăng cường hoạt động mạnh, sử dụng
địa bàn Campuchia làm nơi đứng chân, dùng bọn phản động Việt Nam lưu
vong, làm lực lượng xung kích, tiêu biểu như: Trần Hồ (tức Phi Hùng),
Nguyễn Văn Quân (Quang Lộc)... bọn này móc nối với tướng Kim Anh
(Campuchia) tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam. Chúng lập ra
các tổ chức nhân danh đồng bào dân tộc Khơ-me Nam Bộ, đòi quyền lợi
hoặc nhân danh các đảng phái tuyên truyền các luận điệu "Lục tỉnh Nam
Bộ là đất của Campuchia" để xuyên tạc vu cáo Việt Nam đàn áp đồng bào
dân tộc Khơ-me; kích động tư tưởng gây hận thù dân tộc, lôi kéo mua


13

chuộc để tuyển chọn người trong vùng đồng bào dân tộc Khơ-me đưa đi
huấn luyện, đào tạo, rồi cho xâm nhập trở lại Việt Nam hoạt động chống
phá cách mạng nước ta, nhằm gây ra những vụ lộn xộn nội bộ và trên biên
giới, buộc ta phải đối phó, giải quyết.
Tại Campuchia nổi lên 5 hội được gọi là: Vùng lãnh thổ Khơ-me hạ
của Campuchia, Khơ-me krôm như: ("Hội người Khơ-me Krôm" do Kiên
An (Sóc Trăng) cầm đầu); "Hội ái hữu Khơ-me" "Campuchia Krôm" do
Kim Phiên ở Trà Vinh cầm đầu, "Hội bảo cứu Khơ-me krôm" do San Mô
Ni (quê Trà Vinh) sáng lập và do Lâm Sung cầm đầu, "Hội bảo vệ nhân
quyền Campuchia Krôm do Hen Sa Đoan (quê Trà Vinh) cầm đầu, "Hội
sư sãi Campuchia Krôm" do Thạch Sa Môn (quê Trà Vinh) cầm đầu. Các
hoạt động chiến tranh tâm lý diễn biến khá phức tạp, nổi lên là tuyên
truyền, kích động tư tưởng hẹp hòi gây mâu thuẫn, nghi kỵ trong nội bộ,
chia rẽ giữa đồng bào dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc Khơ-me, giữa
cán bộ người Kinh và cán bộ người Khơ-me, gây sự hoài nghi về chính
sách dân tộc của Đảng ta. Ví dụ đưa ra luận điệu cho rằng: đồng bào
Khơ-me Nam Bộ nói chung (trong đó có Kiên Giang) không được tôn

trọng, không được đối xử bình đẳng, Đảng Cộng sản chưa thật tin ở cán
bộ người dân tộc Khơ-me. Một số nơi xuất hiện băng hình video, cát sét có
nội dung xấu, ví dụ nói rằng: "Ai phản đạo là phản dân tộc Campuchia",
phao tin là đang chuẩn bị giải phóng vùng Khơ-me Nam Bộ", đưa ra các
hình ảnh nhằm ca ngợi người lính chế độ cũ, cùng tranh ảnh sách báo đồi
trụy lưu truyền trong các vùng đồng bào dân tộc Khơ-me. Đây là một trong
những nguyên nhân làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, trực tiếp ảnh hưởng
đến tâm tư tình cảm và lòng tin của đồng bào Khơ-me đối với Đảng.
Do sự tác động lôi kéo của kẻ thù, mối quan hệ giữa đồng bào dân
tộc Khơ-me ở nước ta và ở Campuchia diễn ra không bình thường. Sự hoạt


14

động của các phần tử xấu trốn sang Campuchia đã làm cho trên tuyến biên
giới bộ và vùng nước đã xảy ra hàng trăm vụ cướp vũ trang, tống tiền,
tranh chấp tài nguyên, ngư trường gây thiệt hại lớn đến tính mạng và tài sản
của nhân dân ta. Tình hình xâm canh, xâm cư ở biên giới còn xảy ra, đặc
biệt là các vụ tranh chấp đều có sự khuyến khích của chính quyền
Campuchia. Bọn phản động đã tuyển lựa huấn luyện, cài cắm người vào
nội địa ta. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế, núp dưới danh nghĩa hoạt
động từ thiện đã lợi dụng đi sâu vào vùng dân tộc Khơ-me, xâm nhập vào
chùa chiền, tiếp xúc sư sãi để thu nhập tin tức, chúng đã tuyển người để
huấn luyện cách thu thập, moi tin... thường xuyên báo cáo về nước Mỹ.
Tình hình đặc điểm trên là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo ra
những nhân tố có thể dẫn đến bùng nổ vấn đề dân tộc, nếu chúng ta thiếu
quan tâm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, thiếu chủ động cảnh giác
phòng ngừa. Vì vậy, các cấp lãnh đạo và chỉ đạo đều cần nhận thấy rõ
những đặc điểm tình hình để có những giải pháp hữu hiệu, thực hiện đúng
đắn đường lối của Đảng, và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với từng

địa phương trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Cách đây hai, ba thế kỷ, lúc đầu người Khơ-me chưa đủ mạnh để
khai phá vùng đầm lầy mênh mông hoang dã ở đồng bằng sông Cửu Long,
họ chỉ quần cư thành từng Phum, Sóc theo vùng đất cao ở ven sông, ven biển,
xung quanh vùng Bảy núi. Đến thế kỷ XVII, khi người Việt và một bộ
phận người Hoa di cư đến cùng chung sống với người Khơ-me khai phá
vùng đất mới này, từ đó đồng bằng sông Cửu Long mới được khai khẩn
thực sự.
Người Hoa ở Kiên Giang, theo các tài liệu cho thấy, từ trước năm
1754, Mạc Cửu cùng khoảng 400 người Hoa di dân từ các tỉnh Quảng
Đông, Phúc Kiến ở Trung Quốc đến khai phá vùng đất Hà Tiên; Trên địa
bàn rộng lớn trấn Hà Tiên lúc bấy giờ gồm có các tỉnh như: Cà Mau, Bạc


15

Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ và Kiên Giang, đã có mặt những người Việt và
người Khơ-me, người Hoa đều đến định cư lập nghiệp. Đặc biệt Mạc Cửu
là người đã có công tập hợp các cư dân thành 7 xã để làm nơi sinh sống;
tiêu biểu thời Mạc Thiên Tích (Mạc Thiên Tứ) con trai của Mạc Cửu. Địa
bàn dân cư đa dân tộc ở trấn Hà Tiên, được mở rộng đến tận bờ Tây sông
Hậu. Ngày nay người Hoa sinh sống tại Kiên Giang, phần lớn là có nguồn
gốc từ những di dân người Hoa, hầu hết họ đều là những người lao động
nghèo, trốn tránh ách áp bức bóc lột, và chính sách kỳ thị dân tộc của nhà
Thanh - Triều đình phong kiến thống trị ở nước Trung Hoa lúc bấy giờ.
Về đời sống tâm linh, người Hoa thường thờ tổ tiên, thần tài, thần
đất, thần nhà... trong gia đình, ở cộng đồng họ đều thờ phật, thờ quan Công,
thờ ông Bổn, Bà Thiên Hậu.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, người Hoa ở Kiên
Giang cũng như các dân tộc khác, đều ý thức được mình là một dân tộc

trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đồng bào dân tộc Hoa ở địa
phương đã tích cực tham gia quản lý chính quyền tại các xã trong tỉnh. Hơn
nữa, có nhiều người Hoa là cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham gia các tổ chức xã
hội ở địa phương.
- Đồng bào dân tộc thiểu số (mà số đông là đồng bào Khơ-me) sống
xen kẽ với đồng bào dân tộc Kinh, tương đối tập trung ở một số huyện:
Hòn Đất, Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành, Kiên Lương...
Từ lịch sử lâu đời, số đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Chính nơi đây đều là căn cứ địa cách
mạng, nơi che chở nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ, chiến sĩ trong suốt quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng bào các dân tộc
luôn luôn gắn bó với Đảng, cách mạng, đoàn kết đấu tranh chống bọn đế
quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc, đồng


16

bào các dân tộc thiểu số tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong tiến trình
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Họ biết ơn Đảng đã đem lại hòa bình, cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho toàn dân tộc. Hơn nữa đồng bào các dân tộc thiểu số giữ
vững khối đoàn kết giữa các dân tộc anh em, bền vững lâu dài, cùng chung
sống hòa thuận, giúp nhau góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng
thời họ cùng chung sức làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, đặc
biệt là làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc dùng chiến
lược "diễn biến hòa bình" để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và chống phá
chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta.
Nhưng hiện nay vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng
bào Khơ-me nói riêng còn chậm phát triển về kinh tế - xã hội so với vùng

đồng bằng và đô thị, sự chênh lệch còn rất rõ rệt, đời sống của đồng bào
gặp không ít khó khăn. Đặc điểm sống xen kẽ với các dân tộc anh em, tạo
nên mối quan hệ giao lưu hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến
bộ, tuy nhiên, cũng có những biểu hiện chưa thông cảm nhau về tâm lý,
tình cảm, phong tục... và điều đó cũng ít nhiều gây trở ngại cho việc củng
cố quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc anh em.
- Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kiên Giang, chủ yếu xuất thân từ
nông dân lao động, chuyên sống bằng nghề nông, canh tác độc canh cây
lúa, với tâm lý sản xuất nhỏ, phân tán, trình độ văn hóa thấp so với người
Kinh và người Hoa.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, từ nền sản
xuất phân tán, tập trung bao cấp chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã từng bước làm thay đổi đời sống
đồng bào dân tộc thiểu số ở nông thôn. Phần đông đồng bào dân tộc tích
cực tham gia chuyển đổi cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển nông thôn mới.


17

Tuy thế, đời sống xã hội ở nhiều vùng còn gặp khó khăn so với nhiều nơi
khác trên địa bàn của tỉnh. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang.
- Tuyệt đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số Kiên Giang là những
người lao động cần cù, thật thà, chất phác ngay thẳng trong cuộc sống, rất
ghét sự lừa dối.
Trong phong tục tập quán, đồng bào vẫn còn giữ truyền thống lâu
đời, nam thanh niên khi đến tuổi nhất thiết phải vào tu ở ngôi chùa. Họ
quan niệm rằng chỉ bằng con đường "tu thân tích đức" thì trình độ con
người mới được nâng lên và có đủ cơ sở để lý giải những vấn đề phức tạp

trong cuộc sống, mới tránh được mọi đau khổ trong đời, làm cho tâm con
người có được sự tĩnh tại, thông minh sáng suốt để quyết đoán công việc.
Tôn trọng đạo Phật, giáo lý đạo Phật đã ăn sâu vào tâm tư tình cảm của họ,
nhưng cũng từ đó dễ dẫn đến hiện tượng mê tín dị đoan, thờ cúng, bói toán,
lên đồng, lên tổ trong khi đau yếu hoặc khi gặp những việc không may
trong cuộc sống.
Các lễ hội hàng năm một mặt thể hiện lòng mê tín của đồng bào đối
với thần linh, mà theo họ vẫn còn là lực lượng thiêng liêng phù hộ, độ trì.
Mặt khác, cũng thể hiện lòng tôn trọng truyền thống, lấy đó làm nguồn
động viên nhau vượt qua những khó khăn thử thách, để xây dựng cuộc
sống mới.
- Đồng bào dân tộc thiểu số Kiên Giang có truyền thống yêu quê
hương đất nước.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ và cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam, đồng bào Khơ-me nói riêng, đồng bào các dân tộc thiểu
số nói chung ở đây đã thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng cùng chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc. Nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đã hy sinh anh dũng,
nhiều vùng đồng bào dân tộc là căn cứ địa cách mạng, là cơ sở tin cậy của


18

nhiều cán bộ. Ngoài ra, đồng bào dân tộc còn góp nhiều của cải và sức
người cho cuộc chiến tranh nhân dân. Ý chí tiến công cách mạng của đồng
bào dân tộc thiểu số vì lý tưởng sống "Không có gì quí hơn độc lập tự do"
được biểu hiện nổi bật. Ngày nay cần tiếp tục phát huy truyền thống yêu
nước của đồng bào Khơ-me và đồng bào các dân tộc thiểu số khác nhằm
phát triển kinh tế - xã hội, để từng bước đưa dân tộc thiểu số thoát cảnh
nghèo khó, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC

THIỂU SỐ Ở TỈNH KIÊN GIANG

Quán triệt việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nói chung,
cụ thể là Chỉ thị 117 CT/TƯ ngày 29/9/1981, Chỉ thị 68CT/TW ngày
18/4/1991 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác vùng đồng bào
dân tộc Khơ-me, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành,
các cấp tăng cường công tác dân tộc, bằng những chủ trương, biện pháp
tích cực, đã làm chuyển biến một bước quan trọng đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Kiên Giang nói chung, đồng bào Khơ-me Kiên Giang
nói riêng. Những thành tựu đã đạt được là:
Về kinh tế - xã hội
Trong nông nghiệp, cùng với việc tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, việc xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, thực hiện
cơ chế giao đất giao rừng lâu dài cho nông dân sản xuất, thâm canh tăng
vụ, đẩy mạnh chăn nuôi, cải tạo vườn tạp trồng cây ăn trái, đánh bắt nuôi
trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp... đã góp phần
tạo việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân lao động. Trình độ sản xuất
kinh tế hộ gia đình ngày càng được nâng lên theo hướng sản xuất hàng
hóa. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn mua sắm máy cày, máy xới, máy
bơm nước; sử dụng giống mới có năng suất chất lượng cao, ứng dụng


19

các biện pháp canh tác tiến bộ, đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng,
hình thành các mô hình kinh doanh tổng hợp VAC, VACR, nông - lâm ngư kết hợp để tiết kiệm kinh phí, nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp. Kinh tế hộ nông dân đã có bước phát triển, bước đầu hình thành
mô hình kinh tế trang trại làm ăn đạt hiệu quả.
Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ mọi người được
tự do sản xuất kinh doanh đúng pháp luật. Việc sắp xếp lại sản xuất, bố trí

lại lao động, thực hiện khoán sản phẩm, đổi mới trang thiết bị, công nghệ
gắn với kinh doanh, khuyến khích đầu tư trong nước, đã làm xuất hiện các
phong trào thi đua lao động sáng tạo nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần đưa sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển theo cơ chế mới tạo nên sự
thay đổi về cơ cấu, ngành nghề và địa bàn lao động.
Những năm qua, Kiên Giang đã khai hoang hơn 70.000 ha đất đưa vào
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; diện tích lúa hai vụ từ 40.000 ha đến
230.000 ha năm 2000, tăng xấp xỉ 6 lần so với 1987. Sản lượng lương thực
từ 1,6 triệu tấn thóc năm 1995 đến 1999 là 2 triệu tấn thóc, bình quân lương
thực tăng từ 1.200 kg/người năm 1995, lên 1.400 kg/người năm 1999, hình
thành một số vùng nguyên liệu chế biến, trồng và khoanh nuôi tái sinh
47.000 ha rừng. Đánh bắt hải sản tiếp tục có bước phát triển, đóng mới và
sửa chữa đưa vào sử dụng 7.043 chiếc tàu với tổng công suất tăng gấp 3 lần so
với trước đây, đặc biệt là phương tiện đánh bắt xa bờ tăng 530 chiếc tàu. Sản
lượng đánh bắt cá tăng từ 190.755 tấn đến 218.500 tấn năm 1999 [57, tr. 4].
Được sự hỗ trợ của Trung ương và sự đầu tư của tỉnh, nhiều công
trình cơ sở hạ tầng đã được xây dựng ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me
như thủy lợi, giao thông, điện, đường, nước phục vụ cho sinh hoạt... Nhờ đó
diện tích đất canh tác được thâm canh tăng vụ, số hộ có nước sạch sử dụng


20

ngày nhiều hơn, chương trình xóa cầu khỉ, tôn tạo nền nhà "sống chung với
lũ" cũng đã góp phần việc tháo gỡ khó khăn đối với đồng bào dân tộc Khơme, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa.
Việc giúp đỡ cho đồng bào dân tộc Khơ-me vay vốn sản xuất được
quan tâm hơn. Hàng năm đồng bào dân tộc Khơ-me vay bằng nhiều nguồn
vốn khác nhau. Riêng nguồn vốn hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn
từ năm 1991 - 1999 đã lên tới trên 10 tỷ đồng, trong đó 5 tỷ đồng hỗ trợ

cho sản xuất. Để khắc phục tình trạng thiếu đất canh tác đối với đồng bào
dân tộc, các địa phương trong tỉnh đã vận động đưa 312 hộ dân tộc Khơ-me
không có đất sản xuất đến khai thác, canh tác sản xuất ở huyện Hà Tiên,
huyện Hòn Đất thuộc vùng tứ giác Long Xuyên, đến nay nhiều hộ đã ổn
định sản xuất và cuộc sống dần được cải thiện [64, tr. 2].
Nhờ nguồn vốn vay từ ngân hàng và nguồn vốn vay của các chương
trình dự án khác, cùng việc hướng dẫn áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, nhiều vùng dân tộc Khơ-me ổn định đời sống, số hộ đủ ăn, khá ngày
càng tăng, đặc biệt đã giảm hộ nghèo đáng kể (từ 60% năm 1991 xuống
còn dưới 30% năm 1998. So với tỷ lệ chung toàn tỉnh còn 14,7%).
Mặc dù đời sống của đồng bào dân tộc Khơ-me có được nâng lên,
nhưng còn chậm so với các đồng bào Kinh và Hoa. Sự chênh lệch giữa các
dân tộc trong khu vực còn khá lớn và sự phân hóa giàu nghèo tăng nhanh,
số hộ nghèo không có đất và thiếu đất vẫn còn nhiều, đặc biệt ở một số
vùng sâu, vùng xa tỷ lệ hộ đói nghèo là 50%, trong khi bình quân chung
toàn tỉnh chỉ có trên 14%, có khoảng 8% số hộ không có đất và thiếu đất
sản xuất; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng đồng bào dân tộc
Khơ-me còn nhiều khó khăn, ngành nghề phát triển chậm [64, tr.12].
* Văn hóa - giáo dục y tế


21

Cùng với tiến bộ kinh tế, đời sống tinh thần các dân tộc nói chung,
dân tộc Khơ-me nói riêng cũng có những chuyển biến tích cực.
- Bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc được tôn
trọng bảo vệ và phát huy, nhiều lễ hội truyền thống được duy trì, di tích
lịch sử văn hóa của đồng bào được sự quan tâm giúp đỡ đầu tư để tôn tạo
sửa chữa. Đoàn Nghệ thuật dân tộc Khơ-me tỉnh Kiên Giang được duy
trì và đầu tư kinh phí hoạt động thường xuyên. Mạng lưới thông tin

tuyên truyền được chú ý và phát triển tốt. Thông qua việc cấp máy thu
hình, băng casette cho các chùa để sử dụng làm phương tiện phục vụ
đồng bào dân tộc, thường xuyên được cấp băng, tài liệu có nội dung
tuyên truyền phổ biến pháp luật của Nhà nước, đã phát huy tác động tích
cực của các chùa trong việc góp phần nâng cao dân trí, tuyên truyền sâu
rộng chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong
đồng bào dân tộc Khơ-me.
Tất nhiên, bên cạnh việc tôn trọng tập quán của các dân tộc, chính
quyền, đoàn thể địa phương, cơ sở còn quan tâm vận động, giáo dục đồng
bào từng bước cải tiến lễ hội, tập tục lạc hậu cho phù hợp với tiến trình đổi
mới và sự phát triển chung của tỉnh và cả nước.
Hệ thống trường dân tộc nội trú ba huyện Giồng Riềng, Gò Quao,
Hà Tiên có số đông đồng bào dân tộc Khơ-me đã hoạt động tốt. Hiện nay
tỉnh Kiên Giang có 4 trường dân tộc nội trú, trong đó có 1 trường cấp
tỉnh, 3 trường cấp huyện, có tổng số 990 em học sinh dân tộc Khơ-me,
trong đó có 730 em được trợ cấp học bổng. Ngoài ra, số học sinh dân tộc
toàn tỉnh được huy động đến trường hàng năm đều tăng lên khá rõ rệt...
Công tác bổ túc văn hóa, mẫu giáo được chú trọng, việc xóa mù, phổ cập
giáo dục tiểu học được quan tâm hơn. Nhiều huyện, xã có đồng bào dân tộc
Khơ-me được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học. Ở bậc tiểu học có tài liệu giáo trình song ngữ để dạy và


22

học. Lãnh đạo tỉnh thực hiện chính sách giảm miễn học phí và cấp học
bổng, sách giáo khoa cho con em dân tộc học giỏi và con em các gia đình
thuộc diện chính sách. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên người dân tộc còn
thiếu, số lượng chất lượng giáo dục nhìn chung chưa cao, so với công tác
giáo dục của tỉnh.

Về chăm sóc sức khỏe, đến nay hầu hết các xã ở vùng đồng bào dân
tộc Khơ-me đều đã có trạm y tế, y cụ và thuốc chữa bệnh được tăng cường
tốt hơn. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện đều khắp trên địa
bàn, các loại bệnh phụ khoa, đường ruột, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ
em bước đầu thực hiện có hiệu quả, công tác kế hoạch hóa gia đình được
đẩy mạnh hơn, việc giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường được chú ý hơn.
Đội ngũ cán bộ y tế người dân tộc Khơ-me từng bước được đào tạo tăng về
số lượng và nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Nhìn chung, tình hình đặc điểm, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục y
tế của đồng bào dân tộc Khơ-me Kiên Giang có nét đặc thù, nhưng không
tách biệt với đặc điểm chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngược
lại, nét đặc thù đó làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc Việt Nam, góp
phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp của
cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở KIÊN GIANG
TRONG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC

Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước đồng bào dân tộc
Khơ-me đoàn kết gắn bó với đồng bào dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc
Hoa cùng nhau khai phá cải tạo thiên nhiên, biến mảnh đất hoang vu xưa
kia trở thành vùng đất phì nhiêu màu mỡ, có vị trí chiến lược quan trọng về
kinh tế - an ninh quốc phòng.


23

Kiên Giang là một tỉnh nằm giáp biển, chịu sự tác động của biển, của
nhịp độ thủy triều. Kiên Giang có vùng đất nước ngọt quanh năm và cũng
có vùng đất phèn mặn, thiếu nước ngọt trầm trọng ảnh hưởng đến sản xuất
nông nghiệp, nhất vào mùa khô. Những vùng đất thiếu nước ngọt này

thường tập trung những cư dân nghèo, thường là vùng căn cứ cách mạng
trước đây, đã từng chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ của đất nước ta.
Ngày nay, Kiên Giang là hai tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên sát nhập lại,
với đơn vị hành chính là 11 huyện, và 2 thị xã: Thị xã Rạch Giá, thị xã Hà
Tiên. Kiên Giang là vùng đất có nhiều dân tộc cư trú hỗn hợp trong lịch sử
và hiện tại, nhưng chủ yếu là dân cư thuộc đồng bào dân tộc Kinh, đồng
bào dân tộc Khơ-me, đồng bào dân tộc Hoa. Theo số liệu thống kê, tổng
điều tra dân số năm 1999 dân số Kiên Giang là 1.487.553 người, trong đó
dân tộc kinh là 1.273.378 người, chiếm 85,6%, dân tộc Khơ-me 181.338
người chiếm 12,19%, dân tộc Hoa 32.150 người chiếm 2,16%, các dân tộc
khác chiếm 0,05%. Như vậy, có thể khẳng định rằng, ở tỉnh Kiên Giang
dân tộc thiểu số chủ yếu là đồng bào dân tộc Khơ-me sau đó là đồng bào
dân tộc Hoa.
Tín ngưỡng tôn giáo, Kiên Giang là vùng đất có nhiều tôn giáo
chẳng hạn như: Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo đại thừa và tiểu thừa,
Is Lam giáo, đều là những tôn giáo phổ biến trên thế giới; đồng thời có
những tôn giáo địa phương, chỉ tồn tại ở Nam Bộ như: đạo Hòa Hảo, đạo
Cao Đài, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa... và nhiều hình thức tín ngưỡng thờ kiektà-arặc. Thờ các vị thần có công với nước như: Trần Hưng Đạo, Nguyễn
Trung Trực đã trở thành phong tục trong dân gian, dân tộc từ lâu đời.
Đặc điểm cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số là sống xen kẽ với
đồng bào dân tộc khác, ngoài một bộ phận cư trú ở các thị xã, thị trấn, còn
phần đông đồng bào dân tộc thiểu số đều sinh sống ở vùng nông thôn, đất


24

phèn, nước mặn, tập trung ở các huyện như: huyện Châu Thành, huyện Gò
Quao, huyện Giồng Riềng, huyện Kiên Lương, huyện Hòn Đất, huyện Phú
Quốc... Nếu đồng bào dân tộc Khơ-me sinh sống chủ yếu bằng nghề sản

xuất nông nghiệp, trồng cây lúa nước ở đất ruộng thì đồng bào dân tộc Hoa
lại sống chủ yếu bằng nghề buôn bán nhỏ và làm rẫy, chẳng hạn như: có
nhiều gia đình dân tộc Hoa có từ 5-10 ha rẫy trồng hoa màu. Tuy nhiên, cả
đồng bào dân tộc Khơ-me và đồng bào dân tộc Hoa, đều sống đan xen với
đồng bào dân tộc Kinh trên địa bàn Kiên Giang.
Vì vậy, tỉnh Kiên Giang là vùng đất cộng cư chung chủ yếu của ba
dân tộc anh em cùng sinh sống, họ đều chung vui những lễ, tết hàng năm
như: tết Nguyên Đán của đồng bào dân tộc Kinh, tết nửa năm (mừng 5
tháng năm âm lịch) hay tết chôl chnăm thmây của đồng bào dân tộc Khơme. Trong các ngày lễ, tết, đồng bào các dân tộc đều đi thăm mộ tổ tiên,
cúng chùa, thăm hỏi chúc mừng tuổi thọ của nhau, đồng thời làm những
thứ bánh đặc trưng truyền thống. Đặc biệt là trong những gia đình hỗn hợp
có Việt - Khơ-me - Hoa hoặc Khơ-me - Hoa hay Việt - Hoa... thì những
ngày tết lễ của ba dân tộc đều không thể thiếu được trong đời sống từng gia
đình. Nhiều người Khơ-me, người Hoa nghe và nói được tiếng tiếng phổ
thông và ngược lại, nhiều đồng bào dân tộc Kinh cũng nghe và biết tiếng
Khơ-me, tiếng Hoa... họ quan hệ giao tiếp hàng ngày, có thể chuyển từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia một cách tự nhiên. Hàng ngày, khi cần
trao đổi giao lưu hàng hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị, tình cảm... họ
thường bắt đầu từ ngôn ngữ phổ thông.
Thực tế cho thấy, sự đan xen và giao lưu về tín ngưỡng, tôn giáo
giữa ba dân tộc anh em trên địa bàn Kiên Giang khá đậm nét. Trước đây
việc thờ cúng ông bà của đồng bào dân tộc Khơ-me chủ yếu tập trung ở các
chùa thuộc phum và sóc. Ngày nay thì cả ba dân tộc đều lập bàn thờ ông bà
ở nhà, bàn thờ phật của đồng bào dân tộc Khơ-me được đặt ngay giữa nhà


25

theo lối đồng bào dân tộc Hoa và cũng không nhất thiết là phải quay về
hướng mặt trời như trước đây. Ngoài ra, đồng bào dân tộc Khơ-me còn thờ

thần linh, thượng đế... gần giống như đồng bào các dân tộc Việt, đồng bào
dân tộc Hoa. Như vậy, các dân tộc có sự tiếp thu những yếu tố văn hóa của
nhau, nhưng vẫn bảo tồn và phát huy những giá trị và sắc thái văn hóa
truyền thống của dân tộc mình, đồng thời cùng góp phần làm giàu cho các
loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống Việt Nam.
Thường năm đồng bào Khơ-me tổ chức các lễ Hội biểu hiện đậm sắc
thái văn hóa dân tộc Khơ-me như: Lễ vào năm mới (tết Chôl chnăm
thmây). Lễ cúng ông bà (tết Sen Đôn ta); lễ cúng trăng (Oóc om boóc).
Ngoài việc tổ chức lễ cúng tạ ơn mặt trăng đã đem lại mùa màng bội thu,
đồng bào ở khắp nơi trong tỉnh đều tập trung tổ chức đua ghe ngo ở huyện
Gò Quao.
Lễ hội đó có ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh đoàn kết giữa các dân
tộc và đồng bào dân tộc thiểu số ở Kiên Giang. Từ đó không chỉ thu hút
đồng bào dân tộc Khơ-me mà còn thu hút đồng bào các dân tộc Kinh và
Hoa nhiệt tình ủng hộ tham gia tích cực, làm cho quan hệ giữa các dân tộc
ngày càng tốt đẹp.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược và thống trị ở nước ta, chúng
thực hiện chính sách "chia để trị", bọn thực dân Pháp thực hiện nhiều chính
sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để áp bức bóc lột, gây chia rẽ dân
tộc, nhằm tạo ra sự biến động lớn trong đời sống xã hội của đồng bào các
dân tộc ở Kiên Giang.
Truyền thống đoàn kết được phát huy, đồng bào các dân tộc Kinh,
Hoa, Khơ-me luôn luôn kề vai sát cánh nhau trong công cuộc đấu tranh
chống áp bức bóc lột, giành độc lập cho dân tộc. Từ đó có nhiều cuộc khởi
nghĩa mà tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của vị anh hùng áo vải Nguyễn


×