Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Lịch sử nhà nước và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.1 KB, 39 trang )

Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
A.Sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật :
1. Nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi và chống ngoại xâm là hai trong những nhân tố
làm thúc đấy sự ra đời của nhà nước đầu tiên
Nhận định: đúng
Giải thích:
Nước ta là nước nông nghiệp gốc, vị trí hết sức nhạy cảm, phía Bắc là Trung Quốc, phía
Nam là Chiêm Thành.
Những nền văn minh phương Đông như chúng ta biết, hình thành từ lưu vực những con
sông lớn, và là nền văn minh nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp, thì yêu cầu trị
thủy là một yêu cầu tối quan trọng. Thêm nữa, do phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên
các tộc người luôn có xu hướng tranh giành những vùng đất tốt, chiến tranh là điều
thường xuyên và ko thể tránh khỏi đối với các nước phương Đông. Nhu cầu trị thủy và
chống ngoại xâm đặt ra là vấn đề sống còn với sự tồn tại của các tập đoàn người ở
phương Đông.
Công cuộc trị thủy và chống ngoại xâm đòi hỏi phải có sức mạnh đoàn kết vô cùng lớn.
Do vậy các tập đoàn người phải tập hợp lại với nhau mới có thể thực hiện được những
công việc này. Khi tập hợp lại như vậy, vai trò của nguời thủ lĩnh, người đứng đầu là rất
quan trọng. Người thủ lĩnh, người đứng đầu trở thành người có quyền lực tối cao, có thể
áp đặt ý chí của mình lên mọi người. Cộng thêm với sức mạnh tư tưởng từ tôn giáo, vị trí
của "vua" ngày càng được nâng cao. Như vậy, sự xuất hiện của "vua" chính là sự xuất
hiện của NN, vì sau khi nắm quyền lãnh đạo, "vua" sẽ toàn quyền tự mình đặt ra bộ máy
giúp việc, bộ máy cai trị, từ đó hình thành nên bộ máy NN.

2. Công hữu về ruộng đất trong công xã nông thôn là nguyên nhân làm chậm sự
xuất hiện của nhà nước
Nhận định: đúng
Giải thích: công hữu về ruộng đất, là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, làm cho tư hữu về
tư liệu sản xuất ít chặt chẽ, mẫu thuẫn ít xảy ra, do đó có xung đột nhưng không gay gắt,
không triệt để nên làm cho tư hữu và sự hình thành giai cấp đối kháng chậm phát triển,
đó là hai nhân tố quan trọng để làm xuất hiện nhà nước.




3. Nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi và chống chiến tranh không phải là nhân tố đóng
vai trò quyết định cho sự ra đời của nhà nước.
Nhận định: đúng
Giải thích: Bản thân hai tác nhân trên không sản sinh ra nhà nước mà nguyên nhân cơ bản
dẫn đến sự ra đời của nhà nước vẫn thuộc về những nhân tố nội tại là sự phát triển kinh tế
là xuất hiện chế độ tư hữu và sự hình thành các giai cấp đối kháng về mặt lợi ích.

Câu 4: Nêu và phân tích vai trò của các yếu tố dẫn đến sự hình thành NN đầu tiên
trong lịch sử VN?
Câu 5:Bạn hãy cho biết quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam
có gì khác biệt so với quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở phương Tây và các
quốc gia phương Đông khác?
Câu 6: Phân tích những điểm đặc thù trong quá trình hình thành nhà nước của
người Việt cổ?

B. Thời kỳ Bắc thuộc và nhà nước Ngô – Đinh – Tiền Lê :
Câu 1. Chính sách cai trị trong thời kỳ Bắc thuộc mang tính thâm hiểm
Nhận định: đúng.
Tăng cường chính sách cưỡng chế, đàn áp, bót lột và đồng hóa, ngu dân.
Áp dụng chính sách quan lại thâm hiểm: dùng người Việt trị người Việt
Câu 2. Chính quyền Ngô – Đinh – Tiền Lê mang tính chất quân quản
Nhận định: đúng
Giải thích:
Nhu cầu thiết yếu bảo vệ chính quyền và thống nhất các thế lực
Tổ chức bộ máy nhà nước thực chất là tổ chức quân sự


Hình thức nhà nước theo chính thể quân chủ tập quyền

Pháp luật mang tính thiết quân luật: đầy những cấm đoán và bắt buộc, pháp luật mang
tính tàn khốc.
Câu 3:Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê (938 - 1009) tổ chức và hoạt động của nhà nước
mang tính chất quân sự.
- Do hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ : trong nước thì loạn lạc tình trạng các cứ
diễn ra khắp nơi, bên ngoài giặc ngoại xâm đang dòm ngó nhà Hán và Chiêm Thành.
-Nhà nước thành lập trong điều kiện như vậy nên bắt buộc phải xây dựng một nhà nước
mang nặng tính quân sự nhằm bảo vệ nhà nước non trẻ vừa thành lập.
-Nhà nước được thành lập bằng con đường bạo lực.

C. Phần nhà Lý Trần Hồ :
Định nghĩa tập quyền:
Tập quyền là quyền lực tập trung vào Hoàng Đế. Hoàng Đế giữ các quyền về lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Tư pháp: quyền được xét xử, một khi Hoàng Đế xét xử thì bản án sẽ có giá trị chung
thẩm
Hành pháp: Hoàng Đế không tự mình thực hiện quyền hành pháp mà thông qua việc
thành lập các cơ quan giúp việc và bổ nhiện các quan lại. Trực tiếp quản lý các chính
sách về ruộng đất và tô thuế. Là tổng tư lệnh tối cao của quân đội.
Lập pháp: Hoàng Đế đứng trên pháp luật, ban hành tuyệt đối các văn bản pháp luật.

1. Thể chế quân chủ nhà Trần mang tính tập quyền cao hơn nhà Lý
Nhận định: đúng
Giải thích
Hoàn cảnh ra đời của Nhà Trần khác hẳn nhà Lý. Nhà Lý được sự ủng hộ của dân chúng
còn Nhà Trần thực chất là sự chiếm đoạt bằng những cuộc hôn nhân chính trị.


Có thêm chức danh mới là Thái Thượng Hoàng, người có quyền lực cao hơn nhà
vua.Tính chất quý tộc thân vương được tăng cường. Quan đại thần phải là người trong

Hoàng tộc, còn nhà Lý thì các quan đại thần không nhất thiết phải có dòng máu Hoàng
tộc.
Chính sách kết hôn nội tộc nhằm bảo đảm tính thuần nhất của dòng họ. Rất ưu đãi cho
các vương hầu quý tộc: phong cấp đất đai và nắm giữ những chức quyền quan trong triều
đình hay các vị trí trọng yếu của quốc gia.
Dùng chính sách hôn nhân để ràng buộc, lôi kéo các thổ quan vùng núi đứng về phía triều
đình. Pháp luật của nhà Trần thì tàn khốc hơn nhà Lý nhằm bảo vệ vương quyền một
cách tuyệt đối. Không có quan Tể tướng.

2. Tổ chức chính quyền địa phương thời nhà Trần mang tính vùng miền
Nhận định: đúng
Giải thích:
Về tổ chức hành chính thì có sự phân biệt rõ ràng giữa miền xuôi và miền núi. Dười cấp
Lộ ở miền xuôi là Phủ, miền núi là Châu. Bởi miền núi là những vùng biên giới nhạy cảm
của Tổ quốc.
Có sự linh hoạt trong chính sách quan lại ở địa phương: chính sách thổ quan ở miền núi
để khai thác tính cục bộ vở miền núi và chính sách lưu quan ở miền xuôi để hạn chế tính
cục bộ ở miền xuôi.

3.Bạn cho biết pháp luật thời Lý_Trần có những đặc điểm gì?
4.So sánh tổ chức BMNN ở TW thời Lý (1010-1225) với nhà Trần (1226-1400). Qua
đó lý giải tại sao thời Trần tồn tại chế độ chính trị "Lưỡng đầu" (Vua và Thái
Thượng Hoàng)?


D. Thời kỳ nhà Lê :
I. Về nhà nước
1. Nho giáo ảnh hưởng như thế nào qua các triều đại:
Nhà Lý
Phật giáo là quốc giáo, ảnh hưởng rất sâu sắc đến bộ mặt đời sống xã hội. Nho giáo chính

ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy nhà nước.
Nhà Trần
Nho giáo lấn áp Phật giáo và trở thành hệ tư tưởng chính trị quan trọng trong việc tổ chức
chính quyền.
Nhà Lê:
Nho giáo có mặt trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội
Nho giáo là hệ thống chính trị chính thống
Cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước
Chuyển hóa thành nội dung pháp luật: nho giáo trực tiếp hoặc gián tiếp đi vào pháp luật
bằng những nội dung cụ thể.
Nho giáo trở thành chủ để để thi cử
Điều chỉnh các quan hệ xã hội.

2. Cuộc cải cách chính quyền của Lê Thánh Tông chủ yếu tập trung tăng cường
quyền lực của nhà vua và khiến cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.
Nhận định: đúng
Giải thích:
Chính quyền trung ương là cơ quan đầu não của đất nước, có xây dựng một chính quyền
trung ương vững mạnh, thể hiện quyền lực nằm trong tay nhà vua và triều đình trung


ương mới có thể thực hiện được các công việc của triều đình, của đất nước, tạo cơ sở để
triển khai các công việc xuống các địa phương.

3. Nguyên nhân và nguyên tắc cải cách chính quyền trung ương và địa phương?
Nguyên nhân:
Bất ổn đã được loại bỏ, xây dựng chính quyền từ quân sự sang dân sự nhằm gắn liền lợi
ích của nhà nước với lợi ích của nhân dân.
Khát vọng xây dựng nhà nước Đại Việt hùng cường
Lãnh thổ đã được mở rộng

Bộ máy nhà nước nặng tính quý tộc không còn phù hợp
Nguyên tắc cải cách
- Nguyên tắc tập quyền
- Nguyền tắc tản quyền
- Nguyên tắc pháp chế
4. Sự khác nhau của tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông so
với các triều đại trước đó.
Giai đoạn vua Lê Thánh Tông: 1460 – 1497. Trước khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã
trải qua giai đoạn sống gần gũi với cuộc sống đời thường của dân chúng, ông đã hiểu
được những điểm tốt, xấu cùng tồn tại trong xã hội. Khi lên ngôi, Lê Thánh Tông thấy
được những bất cập của bộ máy cầm quyền, những năm đầu thời Lê sơ còn mang nặng
“hơi hướng” của thể chế quân chủ quý tộc nhà Trần, việc trọng đãi các quý tộc hoàng tộc
và các bậc “khai quốc công thần”. Thêm nữa, cương vực nước Đại Việt đã mở rộng, yêu
cầu xây dựng một nước Đại Việt hùng cường; những bài học của các triều đại trước về tổ
chức chính quyền địa phương sao cho phát huy hiệu quả nhất. Đo đó Lê Thánh Tông đã
tiến hành cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương, bên cạnh giữ lại những mặt
tích cực của các triều đại trước đồng thời loại bỏ các điểm không tốt, chính từ những lý
do đó mà tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông có những điểm giống
và khác các triều đại trước.


Giai đoạn vua Lê Thánh Tông có hai giai đoạn, thời kỳ 1460 – 1470 và thời kỳ 1471 đến
1497.
Về tổ chức các cấp chính quyền địa phương:
Chia nước thành 12 thừa tuyên đạo, đến năm 1471 thì thêm đạo thừa tuyên thứ 13.
Cả nước chia thành 3 cấp: cấp phủ, cấp huyện – châu, cấp xã.
So với tổ chức các cấp của các triều đại khác thì như sau:
Thời các vua Lê trước Lê Thánh Tông: Chính quyền địa phương gồm các cấp: Đạo, lộ
(trấn, phủ), châu, huyện và xã.
Thời Hồ: cấp lộ, cấp phủ, cấp châu, cấp huyện và cấp xã

Thời Trần: cấp lộ, cấp phủ - châu, cấp xã
Thời Lý: cấp lộ - trại, cấp phủ châu, cấp hương – xã – sách
Thời tiền Lê: cấp đạo, cấp hành chính cơ sở giáp, cấp xã.
Sự phân chia các cấp trong chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông so với các
triều vua Lê trước và triều đại Lý - Trần (ngoại trừ nhà Hồ) vẫn giữ tính vùng miền. Sự
phân cấp này nhằm bảo đảm dễ quản lý và ngăn ngừa sự cát cứ. Sự phân chia chính
quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông nhằm thu hẹp quyền hành của chính quyền
địa phương và tăng sự lệ thuộc vào chính quyền trung ương.
Có sự phân công rõ rệt về chức năng nhiệm vụ trong từng cấp.
Đối với cơ quan ở cấp đạo thì Ty Tuyên chính sứ (đứng đầu là Tuyên chính sứ) được lập
ra ở cấp đạo từ năm 1464 thay thế cho quan Hành khiển. Đứng đầu mỗi thừa tuyên đạo
lúc đó gồm có hai cơ quan là Đô tổng binh sứ tuy phụ trách việc cai quản quân đội và
Thừa chính sứ ty phụ trách việc hành chính và tu pháp. Sự kiện này đánh dấu chuyển
hình thức cai quản địa phương bởi một cá nhân, hơn nữa chỉ thiên về quản lãnh quân sự
sang hình thức cai quản bằng một cơ quan có một quan chức đứng đầu và có sự phân
công chức trách giữa các bộ phận trong ty. Sự phân chia này nhằm xóa bỏ tình trạng lộng
quyền dẫn đến xu hướng cát cứ ly tâm của quan lại địa phương đồng thời tạo ra sự thống
nhất chỉ đạo từ trên xuoongsm gắn địa phương với trung ương để thống nhất các mặt hoạt
động của đất nước. Từ năm 1467, Lê Thánh Tông không chỉ trao quyền cho một cơ quan
phụ trách mà quyền hành được chia đều cho 3 cơ quan:
Thừa ty phụ trách các công việc thuộc lĩnh vực hành chính, tài chính, dân sự.


Đô ty phụ trách quân sự.
Hiến ty có chức năng giám sát mọi công việc trong đạo để tâu lên vua.
Thực hiện giám sát nhau
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho đặt chứ Hiến sát sứ ở các đạo, sau đó lại đặt chức
giám sát ngự sử ở 13 đạo để làm nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ các hiến ty, giám sát đàn
hoặc các hành vi sai trái của quan lại các thừa tuyên, phủ, huyện.
Ở cấp phủ: cũng giống như cấp phủ thời các vua Lê trước, chức năng là truyền luyện từ

trên xuống cho các huyện – châu, đốc thúc và kiểm tra việc thi hành, thu nộp các loại
thuế, các lao dịch, binh dịch.
Ở cấp huyện – châu
Giống các triều vua Lê trước là ở miền núi gọi là châu, đông bằng gọi là huyện. Ở cấp
này đặc biệt có một điểm giống các triều trước là có tính vùng miền. Đối với miền núi thì
sử dụng các tộc trưởng, tù trưởng để giữ những chức vụ quan trọng nhằm tránh trình
trạng chống đối triều đình hay có âm mưu phản loạn.
Một điểm rất khác so với các triều đại khác là tổ chức cấp xã cấp xã.
Chia tách xã theo những qui định có tính qui cũ, xã có 3 loại: xã nhỏ, xã vừa và xã lớn
tùy vào số hộ trong xã. Qui định rõ chức vụ của những người đứng đầu xã tránh trình
trạng lợi dụng quan hệ họ hàng thông gia để kéo bè kéo cánh. Việc bầu xã trưởng theo
qui tắc dân chủ bầu trực tiếp. Vua Lê Thánh Tông đã can thiệp trực tiếp sâu rộng vào
trong chính quyền cấp xã, đây là điểm rất khác so với các triều đại trước, nhằm hạn chế
nạn cường hào cũng như tình trạng cát cứ ở địa phương.
Về việc bổ nhiệm quan lại
Cũng như các triều đại khác thì quan lại bằng chế độ tập ấm, theo đó con cháu của hoàn
thân quốc thích quan lại cao cấp được phong tước vị phẩm hàm thậm chí đươc trao một
số cong việc triều chính tuy nhiên thời vua Lê Thánh Tông, những quan lại được tuyển
chọn bằng hình thức này được quy định rất chặt chẽ bằng cách quy định rõ trong một số
điều ở chương vi chế Bộ luật Hồng Đức nhằm loại trừ những tiêu cực đối với hình thức
tuyển dụng này. Một điểm khác với các triều đại khác là quan lại có thể được bổ nhiệm
bằng con đường đề cử và việc này cũng được quy định một cách chặt chẽ. So với các
triều đại khác thì quan lại có thể được bổ nhiệm bằng con đường thi cử tuy nhiên thời vua
Lê Thánh Tông, việc này được rất chú trọng, bởi vì những hạnh hưởng sâu rộng của tư
tưởng Nho giáo. Một điểm khác so với các triều đại khác là các quan lại phải trai qua giai


đoạn thử việc và sát hạch để kiểm tra năng lực. Áp dụng chính sách luân chuyển công tác
và chế độ hồi ty để làm trong sạch đội ngũ quan lại chống trình trạng tham nhũng. Qua
đó cho thấy các cách thức đào tạo, tuyển dụng và sát hạch quan lại dưới thời vua Lê

Thánh Tông tạo ra một đội ngũ quan lại trên nền tảng lập trường của kẻ sĩ theo Nho học.
Như vậy với tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông, cả nước chia
thành 13 thừa tuyên đạo, có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường. Nhà
nước trực tiếp quản lý các địa phương thông qua hệ thống quan lại.
Tóm lại, tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông là mô hình tiên tiến
nhất của chế độ quan chủ phong kiến đương thời, thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng chỉ
đạo của Lê Thánh Tông: lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng kiềm chế nhau, địa
phương gắn với trung ương. Tổ chức chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh Tông có
trình độ chuyên môn hóa cao hơn hẳn so với các triều đại khác và các nước khác ở vùng
Đông Nam Á.

5. Phân tích nguyên tắc hạn chế quyền lực và ngăn chặn tình trạng phân quyền cát
cứ thể hiện trong tổ chức bộ máy hành chính địa phương sau cải cách của Lê Thánh
Tông. Những ưu điểm và hạn chế có thể rút ra cho công tác quản lí hành chính địa
phương hiện nay.
Xu hướng chung của các triều đại phong kiến Việt Nam là quân chủ trung ương tập
quyền, thể hiện qua hình ảnh nước Việt Nam thống nhất không phân chia suốt gần chục
thế kỷ độc lập. Để được như vậy, không phải chỉ nhờ nét văn hóa đặc thù nảy sinh trên
điều kiện tự nhiên, kinh tế và lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam mà còn nhờ vào
việc các triều đại phong kiến xưa đều có những nỗ lực lớn lao trong việc duy trì quyền
lực tập trung. Trong các triều đại đó thì triều đại của Lê Thánh Tông là một trong những
triều đại rực rỡ và thành công nhất về mọi phương diện, tất nhiên là cả về tổ chức hành
chính địa phương để duy trì quyền lực tập trung.
Triều Lê sơ vốn hình thành sau cuộc chiến tranh giành độc lập, thế nên tổ chức hành
chính nhà nước nặng về quân sự để phục vụ cho công tác quốc phòng và trị an, đặc biệt là
trong các triều đại đầu tiên. Vì vậy, công tác tổ chức bộ máy hành chính ở địa phương
được xây dựng theo hướng tập quyền, thể hiện qua việc hầu hết quyền hành tập trung vào
tay một cơ quan đứng đầu bởi một cá nhân (như ở đạo là Hành khiển, ở phủ là tri phủ,
…). Nhưng điều này nếu kéo dài thường dễ dẫn đến lạm quyền và tạo điều kiện cho các
thế lực địa phương phát triển dẫn đến nguy cơ nội chiến hoặc ít ra là phản loạn. Điều này

vẫn thường thấy xảy ra với các địa phận của dân tộc ít người do họ có quyền tự trị tương


đối lớn (như loạn Nùng Trí Cao thời nhà Lý). Vì vậy, sau khi lên nắm quyền, Lê Thánh
Tông bắt đầu tiến hành cuộc cải cách quy mô lớn về tổ chức bộ máy nhà nước, cả trung
ương lẫn địa phương, để tăng cường uy quyền của nhà vua và hạn chế quyền lực của địa
phương cũng như ngăn chặn các thế lực cát cứ.
Đầu tiên là việc chia, tách, đổi lại các đơn vị hành chính. Biện pháp này không những có
ý nghĩa lớn trong việc tổ chức lại công tác quản lí thành một hệ thống quy củ và thống
nhất mà còn có tác dụng xóa bỏ, thay đổi địa giới và địa phận cũ của các thế lực quý tộc
phong kiến. Kế đến ở mỗi cấp hành chính, Lê Thánh Tông thực hiện việc phân tán quyền
lực ra cho các cơ quan và cá nhân khác nhau để tránh tập trung quyền lực quá lớn vào tay
một người. Cụ thể như ở cấp đạo, Tam Ty được thành lập để thay nhiệm vụ của quan
Hành Khiển (dân sự) và quan Tổng quản (quân sự). Theo đó Thừa ty quản lí hành chính,
Đô ty quản lí quân sự và Hiến ty quản lí tư pháp. Các cơ quan đều có chức năng và quyền
lực riêng, từ đó giám sát và chế ức quyền lực của nhau, tránh sự lạm quyền. Đây là một
bước tiến đáng kể mà so sánh với điều kiện hiện tại, chúng ta có thể thấy rằng bộ máy
hành chính địa phương nước CHXHCN Việt Nam đã thừa kế những thành tựu đó khá tốt
với cơ quan lập pháp là Hội đồng nhân dân các cấp, cơ quan hành chính là Ủy ban nhân
dân các cấp và cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Một biện pháp nữa được Lê Thánh Tông thực thi để tăng cường giám sát với cấp đạo là
việc đặt ra các cơ quan giám sát của trung ương, cụ thể là các Ty ngự sử trực thuộc Ngự
sử đài, có trách nhiệm đàn hặc và giám sát hoạt động của quan lại cũng như cơ quan nhà
nước ở cấp đạo. Đây là một biện pháp tăng cường mạnh mẽ sự kiểm soát của trung ương
với địa phương mà so sánh thực tế thì hiện nay chúng ta chưa có cơ quan nào thực sự có
quyền hành như thế dù rằng Thanh tra nhà nước vẫn có nhiệm vụ và quyền hạn giám sát,
thanh tra. Một ưu điểm nữa của Lê Thánh Tông là quy định quan lại chỉ được tại chức
đến năm 65 tuổi, bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các công thần. Theo tôi điều này
cũng góp phần hạn chế quyền hành của các đại thần, tránh tình trạng cả nhà làm quan.
Chế độ Lưu quan, tức là luân chuyển quan lại quanh các địa hạt, tránh trình trạng cát cứ.

Đặc biệt trong việc tăng cường quyền lực trung ương, hạn chế quyền lực địa phương, là
việc Lê Thánh Tông trực tiếp can thiệp vào công tác quản lí ở làng xã, vốn được coi là
“thành trì” vững chắc của chế độ công xã nông thôn. Đó là thông qua việc ban hành tiêu
chuẩn cử xã trưởng cùng với quy định về hương ước, triều đình nhà Lê đã có thể khống
chế tương đối đến tận cấp cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất sự thâu tóm quyền lực của
địa phương vì ngay cả cơ sở là làng xã cũng bị triều đình trung ương giám sát và ức chế
quyền tự trị thì không có lực lượng địa phương nào có thể ngoi lên được. Hiện nay thì
khác hẳn, chúng ta đang có tư tưởng bỏ lỏng cấp cơ sở, tập trung vào các cấp trung gian
như quận huyện mà không đầu tư đúng mức cho công tác quản lí và công tác cán bộ ở


cấp phường xã – cấp cơ sở. Đây có thể coi là một sự chậm tiến khi các triều đại phong
kiến từng bước thâm nhập vào cơ sở thì chúng ta với điều kiện kinh tế hiện đại lại không
tiếp tục phát huy.
Tuy nhiên, qua đó ta cũng đã có thể thấy được các biện pháp cải cách quyết đoán và từng
bước Lê Thánh Tông thể hiện quyết tâm hạn chế tính địa phương hóa, cát cứ để tập trung
quyền lực về trung ương, phù hợp với văn hóa đoàn kết và nhu cầu xây dựng bảo vệ tổ
quốc Đại Việt xưa. Dù rằng còn có những hạn chế nhất định của thời đại, nhưng những
cải cách trên đã cho thấy một tư duy “vượt trước” nền chính trị Việt Nam phong kiến
cũng như thiên tài cá nhân của Lê Thánh Tông, và qua đó giúp chúng ta rút ra được
những bài học lịch sử quý báu trong công cuộc tổ chức quản lí hành chính địa phương,
nhất là trên con đường quá độ lên CNXH đầy gian nan.

Tuy nhiên nếu áp dụng vào thời đại ngày nay, khi chính quyền là "do dân và vì
dân" thì chủ nghĩa tập trung (tuyệt đối) sẽ có 1số nhược điểm sau:
- Thiếu tính đại diện. Chính phủ dân chủ phải là đại diện của nhân dân. Do đó nếu chính
quyền tập trung hết vào chính phủ trung ương thì làm sao người dân có thể có được đại
diện của mình được? Dân có thể bầu ra 1 người, 2 người đại diện cho mình ở thủ đô.
Nhưng làm sao có thể kiểm soát chắc chắn hoạt động của những người này khi họ ở xa
mình có khi là cả nghìn cây số? Quyền lực sẽ thu về tay 1 số tầng lớp cao cấp.

- Không thể đáp ứng tốt nguyện vọng của nhân dân, bởi chính quyền địa phương mới là
người hiểu rõ nhu cầu của nhân dân chứ không phải chính quyền trung ương. Không thể
trông đợi 1 quan chức ở Hà Nội hiểu rõ sự phát triển, yêu cầu, đòi hỏi của người dân tỉnh
Bình Dương, cũng như không thể trông đợi 1 cán bộ ở quận 1 TpHCM hiểu rõ nhu cầu
của huyện Cần Giờ v.v... Chỉ có những người trực tiếp sống và làm việc ngay tại địa
phương mới có những hiểu biết tường tận nhất của nhân dân. Nói cách khác, chính quyền
địa phương gần gũi với người dân hơn chính quyền trung ương.
Do đó tóm lại 1 chính quyền quá tập trung sẽ dẫn tới mất dân chủ. Tuy nhiên rõ ràng khái
niệm dân chủ không tồn tại đối với 1 nhà nước phong kiến. Do đó chính sách của Lê sơ
như vậy có thể nói là tương đối tốt. Khi áp dụng vào thời đại ngày nay, thời đại của tự do
dân chủ, thì cần phải cẩn thận.

6.Chứng minh tính tản quyền trong cải cách của Lê Thánh Tông


Khái niệm: Tản quyền có nghĩa là một công việc không tập trung vào một cơ quan, một
chức quan mà sẻ chia cho nhiều cơ quan, nhiều chức quan cùng đảm trách. Mỗi cơ quan,
mỗi chức quan là đảm nhiệm một nhiệm vụ, một lĩnh vực nhất định và hoạt động độc lập.
Mục đích: tránh tập trung quyền hạn vào một cơ quan, một chức quan, tránh trình trạng
ôm đồm bao biện, tránh trình trạng lạm quyền đe dọa tới sự ổn định nhà nước.
Yêu cầu: giới hạn quyền hạn, chức năng nhiệm vụ, đề cao vai trò trách nhiệm của từng cá
nhân.
Tính tản quyền thể hiện trước hết ở các cơ quan trung ương.
Tính tản quyền thể hiện rõ nhất ở việc xóa bỏ các cơ quan trung gian và thành lập ra các
cơ quan mới:6 bộ, 6 tự, 6 khoa, đảm trách những công việc cụ thể, thể hiện tính chuyên
môn hóa, trong đó vai trò giải quyết các công việc hành chính của triều đình được chủ
yếu giao cho 6 bộ.
Tách 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) ra khỏi Thượng thư sảnh để lập 6 cơ quan
riêng cai quản các mặt hoạt động của nhà nước. Mỗi bộ có một Thượng thư phụ trách,
chịu trách nhiệm trước Nhà Vua.

Những công việc lặt vặt chuyên trách trong bộ thì giao cho các Thanh lại ty, có quan
Lang trung trông coi và quan viên Ngoại lang giúp việc.
Ví dụ: Để công việc bộ Lại được điều hòa nhanh chóng và phân minh, những công việc ó
tính cách chuyên môn như thuyên chuyển tuyển bổ và khảo sát quan lại được trao cho
một cơ quan đặc trách là Thuyên khảo Thanh lại ty.
Còn những công việc thường nhật của bộ thì giao cho Tư vụ sảnh, có quan tư vụ đứng
đầu.
Ví dụ: Nhiệm vụ của bộ Hộ: coi sóc ruộng đất, tài chính, nhân khẩu, tô thuế, kho tàng,
thóc tiền và lương của quan quân.
Riêng bộ Hộ và bộ Hình còn thêm Chiếu ma sở có quan Chiếu ma phụ trách việc ghi
chép văn thư vào sổ.
Tuy nhiên, công việc của 6 bộ rất nhiều, có nhiều công việc không thể đảm trách hết
được, do đó vua Lê Thánh Tông lập ra 6 tự phụ trách công việc phụ của 6 bộ. Điều đáng
lưu ý là 6 tự (Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thường
bảo tự) là cơ quan độc lập với 6 bộ và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua.


Phụ trách ở mỗi tự có chức quan Tự khanh trật Chánh ngũ phẩm và phụ giúp là quan
Thiếu khanh Chánh lục phẩm.
Để bảo đảm 6 bộ hoạt động có hiệu quả, các quan lại có trách nhiệm hơn thì vua Lê
Thánh Tông thành lập ra 6 khoa (Lại khoa, Hộ khoa, Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa,
Công khoa) có chức năng giám sát tương ứng với 6 bộ. Quan phụ trách cao nhất của mỗi
khoa là quan Đô cấp sự trung với trật Chánh nhất phẩm, dưới là quan Chấp sự trung trật
Chánh bát phẩm. Lục khoa không phải là cơ quan cấp dưới của Lục bộ mà là cơ quan
giám sát Lục bộ và báo cáo trực tiếp lên Vua, cho nên mặc dù quan phụ trách ở khoa tuy
phẩm trật không lớn nhưng rất có thực quyền.
Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn khác được cải cách phù hợp với chức năng nhiệm vụ
tương ứng với một đối tương, và đảm trách từng công việc cụ thể hơn.
Từ sự cách cải theo nguyên tắc tản quyền như đã nêu trên ta thấy có nhiều cơ quan mới
được thành lập nhưng bộ máy nhà nước trung ương trở nên tinh gọn hơn, hoạt động hiệu

quả hơn; nhiều chức quan mới xuất hiện tuy phẩm trật khác nhau nhưng thực quyền như
nhau và có trách nhiệm hơn.
Thứ hai là tính tản quyền trong cái cách chính quyền ở địa phương.
Tính tản quyền thể hiện ở việc thành lập 13 đạo để thu hẹp bớt quyền hành của chính
quyền địa phương và xóa bỏ một số đơn vị trung gian.
Chính trong việc tổ chức mỗi đạo cũng thể hiện tính tản quyền rõ nét.
Lê Thánh Tông đã cho cải tổ việc quản lý địa phương bằng cách trao quyền phụ trách ở
một đạo cho 3 cơ quan:
Thừa ty: phụ trách các công việc thuộc lĩnh vực hành chính, tài chính, dân sự.
Đô ty: phụ trách quân sự.
Hiến ty có chức năng giám sát các công việc trong đạo để tâu lên vua.
Chức quan đứng đầu mỗi cơ quan đảm trách công việc phù hợp với chức năng và trình độ
của mình. Ví dụ: Tổng binh xuất thân từ hàng võ, không hiểu chữ nghĩa mà kiêm giữ hai
chức sẽ trở ngại cho việc quân ngũ và việc chính trị, vậy
Tông binh chỉ nên chuyên về việc binh.
Để bảo đảm trách nhiệm của từn cá nhân, thì công tác thanh tra giám sát ở các địa
phương cũng được chú trong. Vua Lê Thánh Tông cho đặt Giám sát ngự sử ở 13 Đạo làm


nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ các Hiến ty, giám sát đàn hoặc các hành vi sai trái của quan
lại các thừa tuyên, phủ, huyện. Đồng thời Lê Thánh tông cũng quy định rõ chức trách của
các quan Giám sát ngự sử.
Ngoài ra, tính tản quyền còn thể hiện rất rõ ở cấp xã.
Chia tách và quy định rõ rõ từng loại xã và người đứng đầu của từng xã.
Bỏ chế độ xã quan và đổi thành xã trưởng. Phân địn rõ số lượng xã trưởng cho từng loại
xa: đại xã thì dùng 5 người, trung xã thì dùng 4 người, xã nhỏ thì 2 người và nhỏ dưới 60
hộ thì một người. Quy định rõ về người làm xã trưởng: không cho phép những người là
anh em ruột, anh em con chú, bác, cô, cậu, dì già cùng làm xã trưởng. Trông bộ máy
chính quyền xã gồm các chức: xã trưởng, xã sử, xã tư. Mỗi chức vụ có một nhiệm vụ
triêng biệt. Mỗi xã có thêm nhiều thông nên có thêm chức trưởng thôn để cùng xã trưởng

giải quyết công việc.
Nguyên tắc tản quyền ở địa phương mục đích tránh trình trạng cát cứ địa phương ảnh
hưởng đến chính quyền trung ương.

7.So sánh bộ máy nhà Lê qua 2 giai đọan : (1428-1460) và giai đọan (1460-1527).
Làm rõ bước phát triển về tổ chức nhà nước thời kỳ từ năm 1460-1497.

II. Về pháp luật
1.Hãy làm sáng tỏ nhận định sau: Pháp luật thời Lê thế kỉ XV đã thể hiện tính dân
tộc sâu sắc?
Trả lời
-Pháp luật hình thành bằng con đường thừa nhận, ban hành những quy định mới trong đó
các giá trị truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tích cực trong đời sống tinh thần của
dân tộc được nhà làm luật thời Lê thừa nhận có chọn lọc, coi trọng chữ hiếu trong mối
quan hệ con cái cha mẹ, chữ hòa trong quan hệ anh em.
- Pháp luật hình sự nghiêm trị đồng bóng, bói toán có tính mê hoặc, trong hôn nhân
nghiêm cấm tảo hôn hay kết hôn giữa những người có cùng huyết thống.
- Tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương thân tương ái, các tập quán trong quan hệ sản
xuất, đời sống kinh tế được thừa nhận trong pháp luật. Đây là nét khác biệt so với pháp


luật phong kiến trung quốc , nó phản ánh rất rõ tinh thần dân tộc của nhà làm luật nhất là
pháp luật dân sự thừa nhận rất nhiều tập quán canh nông, thừa nhận loại ruộng đất làng
xã…

2. Chứng minh nhận định sau: “Pháp luật phong kiến rất coi trọng mục đích trừng
trị của hình phạt, bởi khả năng tự vệ của xã hội phong kiến trước các hành vi xâm
hại đến điều kiện tồn tại của xã hội còn yếu.”
3.Chứng minh pháp luật hình sự nhà Lê mang tính giai cấp?


4.Các đăc trưng của pháp luật hôn nhân và gia đình?
4.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo
Hôn nhân phụ hệ, gia trưởng, đa thuê. Được cụ thể hóa bằng các chuẩn mực của nho giáo
sau:
a. Quan hệ cha – con:
Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ.
Cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng và nuôi dạy con cái: xuất phát từ quyền làm chủ gia đình
của người tô trưởng, cha mẹ có quyền dạy dỗ, chăm lo đời sống vật chất cho con cái khi
còn sống chung với cha mẹ.
Điều 547: các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp
thì cha bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều phải bồi thường thay con những tan
vật ăn trộm ăn cướp. Nếu con đã ở riêng thì cha bị xử tội phạt hay biếm; cha đã báo quan
thì không phải tội; nhưng báo rồi mà còn để con ở nhà thì cũng xử như chưa báo.
Con cái phải phụ tùng mệnh lệnh của cha mẹ: với tư cách là người gia trưởng nên cha mẹ
có quyền quyết định những vấn đề quan trong trong gia đình mà không phụ thuộc vào ý
chí của con cái.
Điều 2: Khoản 7: bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo;
nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường;
nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu, không cử ai; nối dối là ông bà cha mẹ chết.


Điều 475: lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài; đánh thì xử lưu đi châu xa;
đánh bị thương thì xử tội giảo; vì lầm lỡ mà làm chết, tì xử tội lưu châu ngoài; bị thương
thì xử tội đồ làm chủng điền binh. Đánh ông bà ngoại thì giảm tội một bậc.
Pháp luật hôn nhân và gia đình đưa ra những những điều kiện chuẩn mực mà mỗi người
trong gia đình ở mỗi vị trí khác nhau cần phải có trong quan hệ gia đình. Khi con cái có
hành vi phá vỡ trật tự đó xâm phạm các điều kiện tồn tại của gia đình theo trật tự lễ giáo
phong kiến thì pháp luật cho phép cha mẹ có quyền loại bỏ người con đó ra khỏi gia đình.
Điều 354: người nào tranh giành ruộng đất thì phải biếm hai tư. Nếu đã có chúc thư mà
còn cố tranh giành thì cũng xử biếm như thế và phải tước mất cả phần của mình nữa. Nếu

cha mẹ không nhận làm con, trong chúc thư không có tên mà vẫn cố tranh thì phải biếm
ba tư, đòi lại số ruộng đất tranh cho người chủ. Nếu người trưởng họ đảm bảo sai thì phải
biếm một tư.
Con cái phải có nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ tuổi cao sức yếu và đó là dịp
để con cái báo hiếu cha mẹ. Hành vị phạm nghĩa vụ này sẽ cấu thành tội bất hiếu trong
nhóm thập ác tội.
Điều 506: con cháu trái lời dạy bảo, và không phụng dưỡng bề trên mà bị ông bà cha mẹ
trình lên quan thì xử tội đồ làm khao đinh; con nuôi, con kế tự mà thất hiếu với cha nuôi,
cha kếm thì xử giảm tội trên một bật và mất những tài sản đã được chia.
Nghĩa vụ tang chế, thờ phục cha mẹ khi cha mẹ mất.
Điều 130: có tang ông bà cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì phải tội đồ làm khao
đinh, đàn bà đồ làm tang thất phụ. Trong khi tang mà bỏ đồ tang mặc đồ thường và vui
chơi đàn hát thì biếm hai tư. Gặp đàn hát mà nghe ay là dự những tiệc vui mừng đều xử
phạt 80 trượng.
Điều 543: cha mẹ chết mà nói dối là còn tang người khác, không để đại tang thì xử tội đồ
làm khao đinh. Nói dối là ông bà cha mẹ hay chồng chết để đi xin tiền, vay tiền, hay có ý
để tránh việc gì, thì phải biếm ba tư. Nói dối là bác chú thím cô anh em chị em chết thì
phải biếm một tư.
Điều 317: người nào đang có tang cha mẹ hoặc chồng mà lấy chồng hoặc cưới vợ thì xử
tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử tội biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới
phải chia lìa.
Điều 408: đang có tang cha mẹ hay tang chồng mà gian dâm cũng xử tội chém.
b. Quan hệ vợ - chồng


Vợ chồng phải thủy chung.
Nghĩa vụ thủy chung của người vợ: sự thủy chung của người vợ là điều cần thiết, nếu vi
phạm là một trong bảy lý do để buộc người chồng phải bỏ vợ.
Điều 321: vợ cả, vợ lẽ tự tiện bỏ nhà chồng đi thì xử tội đồ làm xuy thất tỳ; đi rồi lấy
chồng khác thì phải đồ làm chung thất tỳ; người và gia sản phải trả về nhà chồng cũ.

Người chồng phải gánh vác những việc lớn trong gia đình: bảo đảm đời sống vật chất,
kinh tế cho cả gia đình, gìn giữ và duy trì trật tự gia đình là trách nhiệm của người chồng
theo quan niệm gia trưởng của Nho giáo.
Người vợ phải phục tùng chồng và gia đình chồng. Nhằm đảm bảo lợi ích của gia đình
nhà chồng theo chế độ phụ hệ: xuất giá tòng phu.
Nghĩa vụ tang chế của vợ với chồng và cha mẹ chồng: lo toan tang ma, tế tự khi chồng
mất hay cha mẹ chồng mất. Vi phạm nghĩa vụ này, người vợ bị khép vào tội thập ác.
Điều 2: Mười tội ác (Thập ác)
Khoản 7: Bất hiếu, … có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường;
nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu. không cử ai; nói dối là ông bà cha mẹ chết.
Khoản 9: Bất nghĩa, … nghe thấy tin chồng chết không cử ai lại vui chơi ăn mặc như
thường, cùng là cải giá.
c. Quan hệ anh em.
Anh em phải hòa thuận
Trong gia đình, anh em phải hòa thuận vì mối quan hệ này quyết định sự thịnh suy của
gia đình
Điều 52: Anh em không hòa thuận đến nỗi phải tranh giành kiện cáo nhau, thì người trái
lẽ phải xử tội nặng hơn người thường một bậc.
Về quan hệ anh em cũng mang nặng tính gia trưởng của nho giáo.
Điều 478: Đánh anh chị hàng ty ma thì phải biếm một tư; hàng tiểu công, đại công, thì
tăng tội từng một bậc. Đánh bậc tôn trưởng lại thêm tội một bậc; đánh trọng thương thì
xử nặng hơn tội đánh bị thương thường một bậc; đánh chết thì phải tội chém. Bậc tôn
trưởng đánh bị thương những con cháu bậc dưới từ hàng ty ma, thì xử nhẹ hơn đánh
người thường một bậc; hàng tiểu công, đại công, đều kém dần từng bậc một. Đánh chết


thì xử tội giảo; đánh chết không phải bằng mũi nhọn và không phải cố ý giết thì xử tội
lưu đi châu xa.
Điều 477: Đánh anh chị cậu dì và ông bà cha mẹ vợ thì xử tội đồ làm khao đinh; đánh bị
thương thì xử đồ làm tượng phường binh; đánh bị thương gãy chân tay, thì xử làm đồ

chuẩn điền binh; đánh bằng gươm giáo bị thương gãy chân tay mù mắt, thì xử lưu đi châu
xa; đánh chết thì xử chém, lăng mạ những người nói trên, thì xử biếm hai tư; ngộ xác thì
xử đồ làm chuẩn điền bị; làm lỡ làm bị thương thì đồ làm khao đinh. Đối với bác, chú,
thiếm, cô đều xử nặng hơn một bậc. Đánh chết em trai, em gái cùng là con cháu gái con
rễ con cháu của anh em thì xử đồ làm chuẩn điền binh; đánh chết bằng đồ nhọn sắt và cố
ý giết thì xử tội lưu đi châu ngoài. Ngộ sát thì không phải tội, đánh vợ của anh thì xử tội
nặng hơn tội đánh người thường một bậc.
Riêng những người chị em dâu có hành vi gây bất hòa với những người anh em khác của
gia đình chồng thì ngoài việc xử lý hình sự còn là một trong bảy lý do buộc người chông
ly hôn vợ.
Điều 310: vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt như thất xuất mà người chồng chịu
giấu không bỏ thì xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ.
Trong lĩnh vực thừa kế, nếu có sự tranh giành về quyền được thừa kế thì sẽ bị truất quyền
hưởng thừa kế.
Điều 388: ... nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì phải mất
phần mình.
Giữa anh em còn có nghĩa vụ để tang cho nhau, cao nhất là một năm, ít nhất là ba tháng.
Ngoài ra giữa những anh chị em có nghĩa vụ để tang cho nhau thì không được kết hôn.
Điều 319: người vô loại lấy co, dì, chị, em gái, kế nữ, người thân thích, đều phỏng theo
luật gian dâm mà trị tội.

4.2. Bảo vệ quyền phụ nữ trong chừng mực nhất định
Pháp luật nhà Lê mặc dù ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo và pháp luật Nhà Tống nhưng
vẫn có những điểm tiến bộ hơn, mang tính nhân văn hơn đó là bảo vệ quyền phụ nữ.
Được thể hiện qua các quyền sau:
4.2.1. Quyền nhân thân


Các qui định về kết hôn, từ hôn, ly hôn, nuôi con cái.
Bảo vệ danh dự người phụ nữ về kết hôn.

Điều 315: nhà trai đã có sính lễ rồi, mà không lấy nữa, thì phạt 80 trượng và mất đồ sính
lễ.
Bảo vệ quyền tự do trong kết hôn.
Điều 338: những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương daanm thì xử tội phạt,
biếm hay đồ.
Bảo vệ danh tiết cho người phụ nữ.
Điều 320: tang chồng đã hết mà người vợ muốn thủ tiết, nếu ai không phải là ông bà cha
mẹ mà ép gả cho người khác, thì xử biếm ba tư và bắt phải ly dị; người đàn bà phải trả về
nhà chồng cũ.
Người phụ nữ có thể từ hôn nhằm bảo đảm sự an toàn, sự hạnh phúc cho trương lai của
họ
Điều 322: Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn nếu người con trai bị ác tật hay
phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ.
Luật Hồng Đức qui định trong ba trường hợp sau thì người chồng không được ly dị vợ.
Đoạn 165 Hồng Đức thiện chính thư có quy định bổ sung: người vợ đã để xong ba năm
tang cha mẹ chồng; lúc lấy nhau nghèo hèn về sau giàu có và lúc lấy nhau người vợ còn
người thân nhưng lúc bỏ nhau người vợ không còn người thân nào.
Người phụ nữ có quyền quyền ly hôn. Nếu người chồng vi phạm nghĩa vụ chung
sống.
Điều 308: Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại
và xã quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn một năm.
Và có hành vi vô lễ với cha mẹ vợ
Điều 333: nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ, đem việc thư quan sẽ
cho ly dị.
Điều 402: quyến rũ con gái chưa có chồng, thì xử như tội gian dâm thường, và phải nộp
tiền tạ, nhiều ít tính theo bậc sang hèn, trả cho cha mẹ người con gái; người con gái
không phải tội.


Luật Hồng Đức còn bảo vệ phụ nữ một khi họ phạm tội, pháp luật vẫn dành cho họ sự

khoan hồng, bao dung: không bị đánh bằng trượng, không thi hành án tử hình đang nuôi
con nhỏ, hay các mức hình phạt đồ dành cho họ nhẹ nhàng hơn sơ với nam giới...
Điều 680: Đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau một
trăm ngày, mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử
biếm hai tư ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi nhưng chưa đủ hạn 100
ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị tội biếm hay tội phạt. Nếu khi chưa sinh
mà thi hành tội xuy thì ngục quan bị phạt tiền 20 quan, ngục lại bị tội 80 trượng. Nếu vì
đánh roi để xảy ra trọng thương hay bị chết, thì khép vào tội lầm lỡ giết người hay làm bị
thương. Sau khi sinh đẻ chưa đủ 100 ngày, mà đem thi hành xuy hình, thì chiếu theo tội
lúc chưa sinh mà giảm cho một bậc.
4.2.2. Bảo vệ về mặt tài sản cho phụ nữ.
Tuy pháp luật về thừa kế còn mang nặng tính nho giáo nhưng ở pháp luật Triều Lê vẫn
mang tính nhân văn thể hiện ở chỗ con gãi cũng có quyền thừa kế
Điều 391: Người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con
trai trưởng thì dùng con gái trưởng…
Điều 397: Người ông là Trần Giáp sinh được trai gái hai con, trai trưởng là Trần Ất, gái
là Trần Thị Bính, Trần Ất sinh được một gái Trần Thị Đinh, còn thơ ấu thì Trần Ất chết.
Ông là Trần Giáo lập chúc thư giao phần ruoogj đất hương hỏa cho Trần Thị Bính giữ.
Khii Trần Thị Bính chết, thì phần hương hỏa phải trả lại cho con gái Trần Ất là Trần Thị
Đinh giữ.
4.2.3Có quyền sở hữu tài sản
Điều 376: Vợ chồng đã có con thì một người chết trước sau đó con cũng lại chết, thì điền
sản thuộc về chồng hay vợ.
Chia tài sản khi ly hôn
4.3. Pháp luật hôn nhân gia đình có những giá trị, chuẩn mực về tập quán
a. Những tập quán phù hợp thì được cụ thể hóa trong pháp luật.
b. Dùng pháp luật để loại bỏ những tập quán tiêu cực.


5. Hãy chứng minh rằng pháp luật nhà Lê là sự kết hợp hài hòa của hai nhân tố

nhân trị và pháp trị.
Pháp luật nhà Lê là hệ thống pháp luật hoàn thiện nhất, là đỉnh cao trong tiến trình lập
pháp của xã hội phong kiến Việt Nam. Thời kỳ nhà Lê, hệ tư tưởng Nho giáo được coi là
một hệ tư tưởng chiếm vị trí độc tôn trong việc tổ chức, cai trị xã hội. Ý thức hệ chủ đạo
của Nho giáo là dùng lễ trị, nhân trị để duy trì trật tự xã hội. Tư tưởng lễ trị là dùng lễ
nghĩa để giáo hóa dân chúng, là nền tảng của mọi quan hệ xã hội theo những thứ bậc, trật
tự, gồm quan hệ vua tôi lấy chữ trung làm đầu; quan hệ thầy trò coi trọng chữ nghĩa;
quan hệ giữa cha mẹ với con cái lấy chữa hiếu làm trọng, quan hệ anh em lấy chữa hòa
để duy trì và bạn bè dùng chữ tín để xác lập,…Bên cạnh đóm chủ nghĩa nhân trị đề cao
các giá trị đạo đức khác, đòi hỏi con người xử sự với nhau phải có lòng nhân ái, độ
lượng, thương yêu nhau; giữa nhà nước với dân chúng (nhất là đối với người phạm tội)
phải có sự khoan hồng, nhân đạo.
….
Tuy nhiên để cho các giáo lý này được thấm nhuần và trở thành quy phạm xử sự bắt buộc
trong xã hội nên cần phải dùng pháp trị, hình trị. Tức trong một số trường hợp để bảo
đảm các giá trị nhân, lễ này phát huy tối đa hiệu lực cần phải dùng đến những hình phạt
đối với người không tuân thủ. Đối với người phạm vào tội thập ác mà xâm phạm đến
khách thể là các quan hệ chính trị (tội mưu phản, tội mưu bạn, tội mưu đại nghịch, tội bất
kính) làm ảnh hưởng đến an nguy Tổ Quốc (đại diện là vua); khách thể là các quan hệ
hôn nhân gia đình (tội ác nghịch, tội bất hiếu, tội bất mục, tội nội loạn) làm ảnh hưởng
đến các quan hệ xã hội; khách thể là các luân lý đạo đức xã hội (tội bất đạo, tội bất nghĩa)
nhóm tội thập ác là nhóm tội đặc biệt nghiêm trọng đã xâm phạm vào những khách thể
mà không thể tha thứ được, hình phạt giành cho tội phạm này thường rất nghiêm khắc, rất
nặng nề hạn chế những qui định mang tính giảm nhẹ, đặc biệt khi đã cấu thành hình thức.
Pháp luật không nêu định nghĩa về hình phạt nhưng hình phạt là loại chế tài phổ biến nhất
áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm pháp luật bất kể trong lĩnh vực nào. Chính vì
không có sự phân định rõ ràng giữa hành vi phạm tội với những loại vi phạm pháp luật
khác nên chế tài mang nặng tính trừng trị, nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của hình
phạt thể hiện ở chỗ nó luôn đem đến những bất lợi cho người bị kết án sự tước bỏ hoặc
hạn chế những quyền tự do nhân thân hay tài sanrm thậm chí cả quyền được sống, Pháp

luật phong kiến nói chung và của nhà Lê nói riêng dùng hình phạt để bảo vệ nội dung và
khách thể của pháp luật vốn được xây dựng trên cở sở nhân trị và đức trị, Nói cách khác
việc dùng hình phạt (pháp trị) để bảo vệ các giá trị tư tưởng nhân văn của học thuyết
Khổng – Mạnh. Vì lẽ đó, nội dung của pháp luật hình sự thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp


giữa hai hệ tư tưởng pháp trị với lễ trị và nhân trị. Điều này thể hiện rõ nét hơn trong chế
định hình phạt của luật nhà Lê. Việc quy định hình phạt thể hiện sự cứng nhắc thậm chí
quá tỷ mỉ và phân hóa theo mức độ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Cả hai ý thức hệ nêu trên thẩm thấu một cách nhuần nhuyễn hòa quyện vào nhau và được
cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật. Quan niệm nhân trị, lễ trị được các nhà làm luật
lấy làm cơ sở để xây dựng nên nội dung của pháp lật cũng như xác định khách thể trong
các quan hệ pháp luật. Tư tưởng pháp trị được các nhà làm luật sử dụng để cụ thể hóa
thành các cách thứ bảo vệ nội dung và khác thể của pháp luật. Đây là sự kết hợp hoàn hảo
giữa nhân, lễ và pháp và được thể hiện trong toàn bộ hệ thống pháp luật nhà Lê. Vì vậy,
không có gì mâu thuẩn khi điều luật này đề cao các giá trị lễ nghĩa nhân văn nhưng điều
luật khác thể hiện sự mạnh tay (thậm chí thái quá) của pháp luật trong việc trừng trị
người phạm tội.

6. Chứng minh pháp luật nhà Lê bảo vệ các tập quán?
Phổ biết nhất là các tập quán được sử dụng trong đời sống chính trị như nguyên tắc
truyền ngôi theo nguyên tắc thế tập, tập quán trong đời sống dân sự như tập quán về sở
hữu ruộng đất, tập quán canh tác, vay mượn, tập quán phân biệt đẳng cấp hay trọng nam
khi nữ ít nhiều được thừa nhận trong quan hôn nhân gia đình; tập quán phân chia và sở
hữu ruộng đất hay canh thu tô trong quan hệ sở hữu ruộng đất…
Trong lĩnh vực pháp luật hình sự
Trong nhóm tội thập ác thì pháp luật cũng đã bảo vệ tập quán về bảo vệ tổ quốc; bảo vệ
vương quyền; con cái phải hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; trò phải kính thầy
Điều 2:
Khoản 1: Mưu phản, là mưu mô là nguy đến xã tắc

Khoản 7: Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng
thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường;
Khoản 8: Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại ngiệm; giết thầy
học; nghe tin chồng chết không cử ai lại vui chơi ăn mặc như thường, cùng là cải giá;
Phạm những tội này thương hình phạt rất hà khắc.
Tập quán bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thông trị


Điều 7: Những người thuộc về nghị thân mà phạm tội thì họ tôn thất, họ hoàn thái hậu
đều được miễn những tội đánh roi, đánh trượng, thích mặt; họ hoàng hậu thì được chuộc
bằng tiền.
Trong lĩnh vực pháp luật dân sự
Trong lĩnh vực pháp luật về hôn nhân gia đình

7.Tính nhân đạo và tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức ?
Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác của bộ Quốc triều hình luật (Lê triều hình luật),
đây là một công trình pháp luật tiêu biểu được nhà Hậu Lê xây dựng, được coi là bộ luật
nổi bật nhất, quan trọng nhất và có vai trò rất đặc biệt nhất trong lịch sử pháp quyền
phong kiến Việt Nam.
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều
yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới,
của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định của bộ luật tập chung bảo vệ người dân
chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại.

Đặc biệt bộ luật Hồng Đức còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em,
người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng
phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia…

Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật
của các triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa

để xây dựng lên một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già yếu… được xếp vào nhóm “đối tượng
dễ bị tổn thương” cần có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng thì hơn 500 năm trước,
trong bộ luật Hồng Đức đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội, nhất là của
quan chức đối với nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo
của pháp luật thời Hậu Lê.


1. Những quy định nhân đạo đối với người phạm tội

Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là điều 16, theo đó những người phạm tội “từ 70
tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si, câm, cơ thể què quặt,
gẫy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền…

80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật như điên cuồng,
tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tử thì
trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm tội trộm,
đánh người bị thương thì cũng cho chuộc tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm
tử tội cũng không áp dụng hình phạt”.

Trong xử lý tội phạm, bộ luật Hồng Đức còn lưu ý đến thời điểm phạm tội sao cho có lợi
cho tội nhân khi áp dụng luật, theo đó “khi phạm tội chưa già, tàn tật. Khi già, tàn tật mới
phát giác tội thì xử tội theo luật già, tàn tật…Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát
giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ” (điều 17).

Luật còn nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên
quan đến người làm chứng, tại điều 665 quy định: “Những người đáng được nghị xét
giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo
họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội.


Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu
cho nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không
được buộc họ làm chứng”.

Trong những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược với tù
nhân, như trường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được tiến hành tra khảo: “…Nếu tù
có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh


ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…” (điều
669).

Nếu thuộc trường hợp phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng “tội nhân nghèo
khổ cùng cực không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua
định đoạt” (điều 697).

Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền lợi thiết yếu của
họ, tại điều 707 có quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị thương thì xử
theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ
vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù nhân chết thì bị xử
đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bị tội trên,
nhưng được giảm một bậc”.

2. Những quy định nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt

Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không có ai để nương tựa thì quan chức
địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ họ, điều 294 quy định: “Ở những phường hẻm
hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở
dọc đường sá, cầu, điếm, chùa, quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho

họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ
rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, không được
để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm hay bị bãi
chức...”.

Một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác là “những người góa vợ, góa chồng cô độc
và người tàn phế nặng, nghèo khổ không người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm
sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư.
Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của
công”.


×