Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vận dụng bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy vào hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.97 KB, 23 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy,
vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Triết học là một khoa học đã có từ lâu đời. Ở mỗi thời kỳ, triết học được phát
triển qua nhiều trường phái khác nhau với nhiều quan điểm khác nhau tại một số quốc
gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Triết học đóng góp to lớn trong quá trình phát triển tri
thức nhân loại. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực
tiễn, bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy… luôn là cơ sở, là phương hướng
cho xây dựng và phát triển xã hội, kinh tế, là tôn chỉ cho hoạt động kinh doanh của tổ
chức, doanh nghiệp. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, doanh nghiệp
có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn đề do thị trường đặt ra.
Việc quán triệt nguyên tắc tôn trọng hiện thực khách quan giúp chúng ta thấy
được rằng phải quan sát sự vật và hiện tượng trong thực tế hoặc phải tiến hành các thí
nghiệm khoa học để có được những tư liệu cần thiết nhằm rút ra tri thức khoa học
đúng đắn. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, việc tôn trọng thực tiễn khách quan là
một nguyên tắc sống còn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Một
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lớn mạnh cần phải nhận định được vị thế hiện
tại của mình, thực tiễn hoạt động kinh doanh, điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp
và tương quan cạnh tranh của nó với các đối thủ trên thị trường.
Bên cạnh đó, muốn phát triển doanh nghiệp thì không thể không đổi mới tư duy
và phải đổi mới tư duy làm sao để áp dụng vào doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Giải
quyết được vấn đề giữa lý luận và thực tiễn, giữa sáng tạo và hiện thực sẽ là cơ sở để
nghiên cứu về mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy. Một khi doanh
nghiệp có thể thấy rõ, hiểu rõ vấn đề này thì không những doanh nghiệp sẽ có một cái
nhìn tổng quát về việc phát triển doanh nghiệp, mà còn có thể kết hợp giữa đổi mới tư


duy và đổi mới kinh doanh để làm cho sự phát triển của doanh nghiệp có những bước
nhảy vọt.
Vì vậy, nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài: “Bài học tôn trọng khách quan và đổi
mới tư duy. Vận dụng vào hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần du lịch và
Thương mại quốc tế Vinatour” làm bài nghiên cứu.


2

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nhằm vận dụng bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư
duy vào hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại quốc tế
Vinatour, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục tiêu trên, bài làm triển khai hai nhiệm vụ chính đó là:
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về vật chất, ý thức, nội dung bài học tôn
trọng khách quan và đổi mới tư duy.
- Vận dụng bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy để đưa ra biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Du lịch và Thương
mại quốc tế Vinatour.
Bài thảo luận này gồm hai phần chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận của bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy.
Chương 2: Vận dụng bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy vào hoạt
động kinh doanh của Công ty Cổ phần du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour.
4. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
- Về lý luận: Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết cơ bản của bài học tôn
trọng khách quan và đổi mới tư duy bao gồm phạm trù vật chất, ý thức, mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, nội dung bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu làm cơ sở khoa học cho các tổ chức, doanh nghiệp
ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức, kinh doanh. Đặc biệt, bài làm đã

đưa ra một số đề xuất, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty
Cổ phần du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour.


3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÀI HỌC TÔN TRỌNG KHÁCH
QUAN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY (7-8 trang)
1.1. Vật chất
1.1.1. Phạm trù vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
V.I.Lênin đã khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển
về vật chất như sau: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Theo định nghĩa của Lênin về vật chất :
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học (tức
phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và
được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái niệm vật chất
được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm dùng để chỉ những
dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên
hay xã hội).
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát trong
phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan,
tức là tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Thứ ba, vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay
gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh
đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
1.1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
a. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất

Ăngghen định nghĩa "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất – tức được hiểu là
một phương thức tồn tại vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy"
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành 5 hình thức vận động cơ bản là vận động cơ giới (sự di chuyển vị trí của các vật
thể trong không gian); vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ
bản, các quá trình nhiệt, điện…); vận động hóa (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ
trong những quá trình hoá hợp và phân giải); vận động sinh vật (sự biến đổi của các cơ


4

thể sống, biến thái cấu trúc gen…); vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống xã hội…).
Khi khẳng định vận đông là phương thức tồn tại của vận chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối,
là vĩnh viễn. Đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và là một trạng
thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa
làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
b. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất đinh, có một quảng
tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan
nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật
chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn
tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và
chuyển hóa,… Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Là những hình thức tồn tại của vật chất nên không gian, thời gian có những tính
chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính
vô tận và vô hạn.

Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều rộng, chiều dài
còn thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ đến tương lai). Tính ba chiều của không
gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảg tính và quá
trình diễn biến của vật chất vận động.
1.1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó. Theo quan điểm đó:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái
có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và
không bị mất đi.
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống
nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chât, do vật chất sinh ra và cũng chịu sự chi phối
của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.


5

Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra
từ sự khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện thực
của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người giải thích về
tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục nhận thức về tính
đa dạng ấy để thực hiện quá tình cải tạo hợp quy luật.
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vât biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con
người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan,

trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình
thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
- Về bộ óc con người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý
thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
- Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản
ánh năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ
tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan
được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người,
hình thành nên ý thức.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của
tất cả các dạng vật chất,song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: Phản ánh
vật lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo.
* Nguồn gốc xã hội của ý thức: Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của
ý thức nhưng trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là nhân tố lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên
nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong
đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình
với giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách
quan làm thế giới bộc lộ những quy luật của nó và biểu hiện thành những hiện tượng
nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt


6

động của các giác quan, tác động vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành nên
những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý

thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Nhờ ngôn ngữ con
người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, truyền đạt kinh
nghiệm, tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác, thông qua đó mà ý thức cá nhân trở
thành ý thức xã hội, và ngược lại.
1.2.2. Bản chất và kết cấu của ý thức
a. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, xử lý,
lưu giữ và tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là ý thức là hình ảnh
chủ quan về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về
nội dung và hình thức biểu hiện nhưng đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của
con người.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên
và xã hội, được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của đời sống xã hội.
b. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu cực ký phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp
cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức.
Theo cách tiếp cận các yếu tố cơ bản hợp nhất thành, ý thức bao gồm ba yếu tố
cơ bản là tri thức, tình cảm và ý thức, trong đó, tri thức là nhân tố quan trọng nhất.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn
ngữ. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức có thể chia thành nhiều loại tri thức về tự nhiên, về con
người và xã hội. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia



7

thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận,
tri thức cảm tính và tri thức lý tính…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan
hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ
sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng
đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo
đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo…
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua
những cản trở trong quá trình thực hiện muc đích của nó. Ý chí được coi là mặt năng
động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác
được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện
đến cùng mục đích đã lựa chọn.
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất là nguồn gốc của ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với
vật chất
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản
phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức
lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh
quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc
người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc

là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn
ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật
chất nên nội dung của cý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển
của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị quy luật sinh học, các quy luật xã hội và
sự tác động của môi trường sống quyết đinh. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất
nên vật chất không chỉ quyết định nôi dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.


8

1.3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai
trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức
không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người
tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra
phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện… để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động
của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực
hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức;
còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất

quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại
các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất,
của ý thức có thể thấy: Vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả
năng sáng tạo của ý thức, là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự
tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý
thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện
vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
1.4. Nội dung bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản , chung nhất


9

đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Trong
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc
phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể
đúng đắn, thành công và có hiệu quả khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan với phát huy tính năng động
chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều
kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiễn.

Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy
luật tự nhiên và xã hội, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản
là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều
này đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách
quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện
pháp; phải lấy thực tế khách quan lam cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố
vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động. V.I. Lênin
đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách,
không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Có thể nói, tôn trọng thế giới khách quan trong hoạt động thực tiễn là đặc trưng
cơ bản của duy vật biện chứng và phân tích sự tồn tại thế giới theo các phạm trù, quy
luật là đặc trưng của phép biện chứng duy vật, và là phương pháp căn bản để chúng ta
xem xét triết học nói chung và bản thân triết học duy vật nói riêng. Chúng ta không chỉ
dùng triết học Mác – Lê nin để soi triết học khác, mà phải dùng triết học Mác – Lê nin
để soi chính triết học Mác – Lê nin để đưa triết học lên đến đỉnh cao khách quan. Có
như vậy chúng ta mới loại trừ được sự “năng động chủ quan” một cách quá khích, lấn
át cả thực tế khách quan. Đem cái chủ quan phủ nhận cái khách quan thì thật là sai
lầm. Chúng ta đón nhận những thành tựu của Mác và Ăngghen trong triết học duy vật
biện chứng như kim chỉ nam chứ không phải như tấm bản đồ hay cuốn Kinh thánh.
Chính cái la bàn đó sẽ chỉ cho chúng ta hướng nào trên chiếc bản đồ thực tiễn của thế


10

giới khách quan. V.I.Lênin cũng từng đón nhận công trình vĩ đại của Mác và Ăngghen
như chiếc la bàn, từ đó phát triển lên thành triết học Mác – Lê nin. Bài học thực tiễn
của Lênin và Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta thấy, muốn thành công thì phải học thuộc

bài thực tiễn cách mạng.
Đổi mới tư duy là phát huy tính năng động chủ quan, phát huy vai trò tích cực,
năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật
chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn
trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và
truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng
dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất
hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, đổi mới tư duy đòi hỏi phải phòng,
chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt
cho thực tế; lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược,... Đây cũng phải là quá trình
chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo
thù, trì trệ, thụ động... trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.


11

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG BÀI HỌC TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN VÀ ĐỔI
MỚI TƯ DUY VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
DU LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VINATOUR (13-14 trang)
2.1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Quốc tế Vinatour
Tên doanh nghiệp phát hành : Công ty cổ phần Du lịch và Thương mại Quốc
tế Vinatour
Tên giao dịch: THE INTERNATIONAL TOURISM AND TRADE JOINT
STOCK COMPANY VINATOUR
Tên viết tắt: VINATOUR
Điện thoại: +84 4 3 3942 4490
Fax: +84 4 3942 2707

Email:
Website: />Quá trình hình thành và phát triển: Ra đời và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của ngành du lịch Việt Nam
nên Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour là một trong số ít những
đơn vị chứng kiến những bước thăng trầm của ngành du lịch Việt Nam. VINATOUR là
Công ty Du lịch Quốc tế đầu tiên ở Việt Nam, đã có trên 55 năm kinh nghiệm trong
lĩnh vực lữ hành quốc tế và nội địa. Để có vị trí như ngày hôm nay, trong ngành du
lịch nói riêng và trong nền kinh tế Việt Nam nói chung, VINATOUR đã có một quá
trình lịch sử phát triển với nhiều sự thay đổi.Năm 1960, Công ty VINATOUR ra đời
với vai trò là một đơn vị chuyên trách nhiệm vụ lữ hành quốc tế của du lịch Việt Nam.
Năm 1982, Công ty trở thành ban điều hành việc đưa đón khách. Năm 1984, Công ty
trở thành trung tâm điều hành hướng dẫn du lịch. Đến năm 1990 do những thay đổi về
tổ chức của ngành nên Công ty bị rút chức năng lữ hành quốc tế và đến năm 1993
được trao lại chức năng này. Năm 2005, Công ty được cổ phần hóa và trở thành Công
ty Cổ phần Du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour.
Căn cứ vào quyết định số 392/QĐ-TCDL ngày 6/5/2005 của Tổng cục Du lịch,
phê duyệt phương án cổ phần hóa và chuyển công ty điều hành hướng dẫn du lịch
thành Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour.


12

VINATOUR có quan hệ với nhiều hãng du lịch nước ngoài và hầu hết các công
ty du lịch trong nước, là thành viên của Hiệp hội du lịch Châu Á Thái Bình Dương
(Pata), Hiệp hội du lịch Mỹ (Asta), Hiệp hội du lịch Nhật Bản (Jata).
Ngành nghề kinh doanh: Lữ hành quốc tế và nội địa
Lĩnh vực kinh doanh: Công ty cung cấp các dịch vụ đa dạng bao gồm: Du lịch
thuần tuý với tất cả các chương trình du lịch trọn gói trong nước và quốc tế; du lịch
chuyên đề: tham quan du lịch kết hợp với tham dự hội thảo, hội chợ, khảo sát thị
trường, trao đổi kinh nghiệm... tại nước ngoài; dịch vụ lẻ như thủ tục xuất nhập cảnh,

đặt vé máy bay, khách sạn, phương tiện vận chuyển trong nước và quốc tế, hướng dẫn
viên tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung…, tư vấn du lịch và dịch vụ visa du lịch.
Mô hình tổ chức:

Chủ tịch Hội đồng quản trị

Ban kiểm soát

Ban giám đốc

Phòng hành
chính nhân sự

Phòng tài
chính kế toán

Phòng thị trường
trong nước

Phòng thị
trường nước
ngoài


13

2.2. Vận dụng bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy vào hoạt động
kinh doanh của Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour
2.2.1. Vận dụng bài học tôn trọng khách quan vào hoạt động kinh doanh của Công
ty Cổ phần Du lịch và Thương mại quốc tế Vinatour

Là một công ty lữ hành, sản xuất kinh các dịch vụ du lịch, vì vậy mọi hoạt động
của Công ty chịu ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến ngành dịch vụ nói chung và
ngành du lịch nói riêng. Trước tiên, cần phải hiều: Kinh doanh lữ hành là việc thực
hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói
hay từng phần, quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các
trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức các chương trình và hướng dẫn du lịch.
Hoạt động kinh doanh lữ hành có các đặc điểm riêng về sản phẩm và sản xuất.
Thứ nhất, sản phẩm lữ hành có tính chất tổng hợp, là sự kết hợp của nhiều dịch
vụ riêng lẻ như dịch vụ vận chuyển, ăn uống, khách sạn...thành một sản phẩm mới
hoàn chỉnh (chương trình trọn gói). Sản phẩm du lịch không đồng nhất giữa các lần
cung ứng, nó phụ thuộc vào tâm lý, trạng thái tình cảm của cả người phục vụ lẫn người
cảm nhận. Đây là loại sản phẩm bao gồm các hoạt động diễn ra trong cả một quá trình
từ khi đón khách theo yêu cầu cho đến khi khách trở lại điểm xuất phát ban đầu.
Thứ hai, kinh doanh lữ hành mang tính thời vụ rõ nét. Ở các thời gian khác
nhay trong năm, nhu cầu của du khách cũng khác nhau. Vào mùa hè, nhu cầu du lịch
biển tăng cao, vào mùa đông thì ngược lại, và mùa xuân, nhu cầu du lịch lễ hội tăng
mạnh làm cho hoạt động kinh doanh du lịch có tính thời vụ. Vì vậy, trong kinh doanh
lữ hành đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt được đặc tính này nhằm có những biện pháp
hạn chế tính thời vụ, duy trì nhịp độ phát triển đều đặn và nâng cao hiệu quả kinh
doanh lữ hành.
Thứ ba, quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm lữ hành diễn ra đồng thời
trong cùng một không gian và thời gian. Các công ty lữ hành chỉ tiến hành phục vụ
khách du lịch khi có sự hiện diện của khách, có thể xem khách du lịch là yếu tố đầu
vào trong kinh doanh lữ hành. Hơn nữa, các sản phẩm lữ hành không thể vận chuyển
đến tận nơi để phục vụ khách. Khách du lịch chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu khi gặp gỡ
nhà cung ứng. Như vậy, khách hàng là bộ phận tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất các sản phẩm lữ hành.
Ngoài những yếu tố trên, hoạt động kinh doanh lữ hành còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như yếu tố tự nhiên, quỹ thời gian rảnh rỗi, trình độ dân trí và thu nhập
của người dân...



14

Như vậy, từ thực tiễn có thể thấy, hoạt động kinh doanh lữ hành rất dễ gặp rủi
ro, nó đòi hỏi các công ty lữ hành phải nhận thức được các cơ hội và thách thức trên
thị trường, có mối quan hệ rộng với các đối tác, các nhà cung ứng tin cậy và đội ngũ
nhân viên chuyên nghiệp.
Trong những năm gần đây, nên kinh tế thế giới có nhiều biến động bất lợi đối
với hoạt động du lịch như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, suy
thoái kinh tế thế giới, cùng với những biến động xã hội, dịch bệnh tràn lan. Đây hoàn
toàn là những khó khăn mang tính chất khách quan mà các công ty lữ hành nói chung
và công ty Vinatour nói riêng không thể tác động hay chủ động điều chỉnh được. Do
vậy việc vận dụng triết lý “Tôn trọng khách quan” trong việc đưa ra các chiến lược
kinh doanh mới đã giúp cho Công ty tìm ra hướng giải quyết cho mình và thoát khỏi
tình trạng khó khăn. Cụ thể, Vinatour đã áp dụng các chính sách và biện pháp sau:
a. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường thực chất là việc nghiên cứu sở thích, thị hiếu, quỹ thời
gian rảnh rỗi, thời điểm và nhu cầu, đặc điểm tiêu dùng, khả năng thanh toán của du
khách. Đây là hoạt động nghiên cứu các yếu tố cung và cầu du lịch trên thị trường.
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sẽ tiến hành tổ chức các chương trình du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà doanh nghiệp lựa chọn. Đồng thời, qua các dữ
liệu thu thập được, dự báo nhu cầu du lịch trong tương lai và có kế hoạch tổ chức, sắp
xếp các chương trình nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách một cách tốt nhất, mang lại
hiệu quả kinh doanh cao cho doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế thị trường, mỗi hoạt động kinh doanh đều phải chịu sự cạnh
tranh gay gắt của các thành phần kinh tế, các đơn vị kinh doanh khác. Nhu cầu của
khách du lịch thì ngày càng đa dạng và phong phú do sự phát triển của kinh tế và nhận
thức của con người về thế giới ngày càng tăng. Nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu
cầu thị hiếu của khách, để từ đó công ty có thể đề ra một chiến lược phát triển kinh

doanh phù hợp.
Vì vậy, nhằm hiểu rõ hơn chất lượng sản phẩm cũng như suy nghĩ, mong muốn
của khách, Công ty Vinatour đã tiến hành phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến khách
du lịch. Mỗi khi thực hiện kết thúc một chương trình du lịch, Công ty đều phát cho
khách một bản trưng cầu ý kiến để lấy ý kiến đánh giá của khách.
Công ty cũng tiến hành nghiên cứu tâm lý khách phân theo các tiêu chí lứa tuổi,
nghề nghiệp, thu nhập… nhằm nắm bắt nhu cầu của từng đối tượng, sau đó xây dựng
các lịch trình phù hợp với mong muốn của du khách. Tuy việc nghiên cứu này chỉ thực


15

hiện trên số lượng nhóm khách nhỏ nhưng nó cũng giúp Công ty định hướng được các
chiến lược của mình phù hợp với đặc điểm của từng nhóm khách.
Đối với các nhà cung cấp các dịch vụ riêng lẻ, trước khi quyết định hợp tác và
ký hợp đồng, Công ty tìm hiểu kỹ số lượng và chất lượng sản phẩm, lựa chọn các đối
tác lớn, có uy tín trên thị trường và cam kết hợp tác lâu dài, đảm bảo mang lại cho
khách hàng của Công ty một dịch vụ hoặc chương trình du lịch trọn gói với chất lượng
tốt nhất. Nhờ vậy, nhiều khách hàng đã lựa chọn, tin tưởng vào dịch vụ và trở thành
khách hàng thường xuyên, mang lại nguồn doanh thu hàng năm cho Công ty.
b. Chính sách sản phẩm
Nhận thức được nhu cầu đa dạng của khách hàng, Công ty áp dụng chính sách
sản phẩm đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng. Bên cạnh các chương trình du lịch
trọn gói đã có các độ dài, tuyến điểm, các dịch vụ...cố định phù hợp với các đối tượng
khách có nhiều thời gian rảnh rỗi và có thể đi theo đoàn, Công ty còn đưa ra nhiều
chương trình khác nhau phù hợp với nhiều đối tượng với những khác biẹt về độ tuổi,
nghề nghiệp, mục đích du lịch, mức thanh toán.... Hơn nữa, để đảm bảo chất lượng sản
phẩm, Công ty cũng lựa chọn, tác động trực tiếp đến các cơ sở cung cấp dịch vụ riêng
lẻ, đảm bảo tốt chất lượng, các dịch vụ phù hợp với nhu cầu, sở thích của du khách.
Ngoài ra, Công ty cung cấp thông tin về các chương trình du lịch, các điểm

tham quan du lịch, các dịch vụ vui chơi giải trí.. tại điểm đến, thông tin về các tuyến
du lịch, giá cả, thời gian, các thông tin về du lịch trong nước, quốc tế cho khách du
lịch trong nước và các hãng du lịch quốc tế. Công ty cũng nhận tư vấn, hỗ trợ dịch vụ
làm visa du lịch cho khách, có phòng vé máy bay riêng, là đại lý cấp một của hàng
không Vietnam Airlines giúp khách hàng thuận tiện hơn trong việc đặt vé máy bay
cũng như hỗ trợ đặt vé trực tiếp cho các đoàn du lịch đường bay của Công ty.
Công tác xây dựng chương trình mới được tiến hành khá nghiêm túc. Mỗi
phòng kinh doanh có một bộ phận cán bộ điều hành riêng phụ trách các mảng thị
trường nội địa và quốc tế nhằm chuyên môn hóa hoạt động điều hành. Việc thực hiện
xây dựng chương trình du lịch có sự kết hợp của nhiều bộ phận liên quan, đồng thời,
Công ty cũng tổ chức những chuyến đi khảo sát (famtrip) làm tăng tính hiện thực của
chương trình mới.
c. Chính sách giá cả
Công ty áp dụng chính sách giá cả khá linh hoạt trong việc khai thác thị trường
khách. Tùy từng số lượng khách, chương trình du lịch và mức độ thường xuyên của
khách, Công ty có những mức giá áp dụng phù hợp.


16

Đối với đoàn khách số lượng lớn, đi chương trình trọn gói dài ngày, công ty sẽ
giảm giá với mức giá ưu đãi. Ngược lại, với những khách lẻ hoặc những khách chỉ
mua những dịch vụ đơn lẻ thì vẫn áp dụng nguyên mức giá công bố trên thị trường.
Ngoài ra, Công ty cũng luôn có mức giá ưu đãi dành cho thị trường khách truyền
thống, nhằm khai thác thêm lượng khách mới. Công ty cũng thực hiện chính sách giá
ưu đãi cho đối tượng khách quốc tế. Đối với khách trung thành, khách hàng thường
xuyên, đi du lịch hằng năm thì Công ty có chính sách chăm sóc đặc biệt và tặng quà
vào các dịp lễ tết hàng năm.
Việc xác định giá dựa trên phương pháp tính chi phí cố định và chi phí biến đổi
của chương trình du lịch. Đối với đoàn khách, công ty tính giá dựa trên số lượng khách

tối thiểu. Cũng cùng một nhóm số lượng khách, công ty cũng có các mức giá khác
nhau với các loại dịch vụ tương ứng với các mức giá đó. Trong các chương trình du
lịch, Công ty thông báo kèm theo mức giá bao gồm những dịch vụ gì và chi tiết các
điểm tham quan theo lịch trình. Điều này vừa tránh được nhầm lẫn khi tính toán giá,
vừa tránh được những thắc mắc khi xảy ra của khách về các dịch vụ.
Như vậy, với chính sách giá này thì khách có rất nhiều cơ hội lựa chọn các
chương trình với mức giá phù hợp. Khách cũng có cảm giác thoải mái, công bằng khi
mua sản phẩm của công ty vì tất cả đều rõ ràng.
d. Chính sách phân phối sản phẩm
Công ty tìm mọi phương thức đưa sản phẩm và hình ảnh của công ty tới nhiều
đối tượng khách một cách thuận tiện nhất.
Kênh phân phối mà công ty áp dụng nhiều là kênh phân phối gián tiếp. Các
trung gian là các hãng lữ hành gửi khách ở nhiều nước. Công ty đã có mối quan hệ tốt
với những hãng lữ hành quốc tế ở rất nhiều quốc gia khác nhau như: Nga, Pháp Nhật
Bản, Trung Quốc... Thông qua các hàng lữ hành này, mỗi năm công ty đã thu hút được
một số lượng khách du lịch quốc tế khá đông đảo. Đối với những hãng lữ hành này
công ty có những chính sách linh hoạt. Với các hãng lữ hành có uy tín, thường xuyên
gửi khách đến công ty được phép thanh toán chậm hơn. Công ty cũng luôn quan tâm
đến chất lượng dịch vụ cung cấp, nhằm giữ uy tín cho các hãng và cho công ty. Những
điều này có thể đảm bảo cho công ty có mối quan hệ khăng khít với các hãng lữ hành.
Ngoài những hãng lữ hành gửi khách, công ty còn thiết lập những văn phòng đại diện
ở một số nước như tại Bangkok, Matxcova...
Nhằm đưa những sản phẩm có chất lượng tốt đến với khách. Công ty đã chú ý
đến việc thiết lập mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp như: Khách sạn, nhà hàng, địa
điểm vui chơi giải trí, shopping... Đồng thời, công ty không ngừng duy trì những chính


17

sách ưu đãi đối với mạng lưới phân phối sản phẩm như: mức giá ưu đãi, chính sách

thanh toán định kỳ...
Ngoài ra, công ty cũng sử dụng kênh phân phối trực tiếp, khi khách đến công ty
thì cán bộ thị trường trực tiếp nhận và bán sản phẩm, dịch vụ cho họ. Những đối tượng
khách này chủ yếu là khách vãng lai tìm đến công ty.
e. Chính sách quảng cáo
Đây là chiến lược công ty rất quan tâm và thực hiện theo chiến lược thời điểm,
thời kỳ và thường xuyên liên tục, tạo ra dấu ấn về công ty với khách hàng. Chiến lược
quảng cáo của công ty bao gồm nội dung như sau:
- Đối tượng quảng cáo hướng tới: Khách nội địa, khách Việt Nam ra nước
ngoài, khách quốc tế, các hãng lữ hành quốc tế của nhiều nước, các cơ quan tổ chức du
lịch trong nước và quốc tế, các đại sứ quán nước ngoài.
- Hình thức và công cụ quảng cáo: in tờ rơi, các ấn phẩm quảng cáo bằng tiếng
anh và tiếng việt, trong đó cung cấp cho các du khách thông tin về Việt Nam, về các
hoạt động của công ty và các chương trình do công ty xây dựng. Công ty in tên và biểu
tượng công ty trên áo, mũ tặng cho du khách. Ngoài ra công ty còn quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng như: Đài, báo nhưng không liên tục thường xuyên,
quảng cáo trên các trang web du lịch của Việt Nam và quốc tế. Hơn thế nữa, công ty
còn thường xuyên tham gia các hội chợ quốc tế về du lịch để tiến hành tuyên truyền
quảng cáo, thăm dò thị trường khách.
2.2.2. Vận dụng bài học đổi mới tư duy vào hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ
phần Du lịch và Thương mại Quốc tế Vinatour
Trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Du lịch
và Thương mại quốc tế Vinatour bên cạnh những thuận lợi đã đề cập ở trên, cũng đã
gặp khó khăn như những công ty khác hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh du lịch, đó
là: điều kiện kinh doanh bị ảnh hưởng bởi tình hình suy thoái kinh tế trong nước và
toàn cầu; sự cạnh tranh gay gắt với hơn 1400 Công ty lữ hành quốc tế; thị trường
khách Inbound Trung Quốc bị ảnh hưởng mạnh do biến động chính trị (nhất là sau vụ
việc liên quan Trung Quốc hạ đặt Giàn khoan 981 Biển Đông); giá cả tăng cao, chí phí
đầu vào lớn, ngoại tệ biến đổi thất thường, làm các đối tác gửi khách khó chấp nhận,
hoạt động phân tán, hiệu quả công việc chưa cao. Hơn nữa, nguồn nhân lực chất lượng

chưa cao cũng như chưa phát huy được hết năng lực của mình… Trước tình hình trên,
Công ty đã đưa ra chủ trương, mục tiêu và biện pháp cụ thể, sáng tạo để phát triển
công ty trong thời gian tới, đó là:


18

a. Tập trung phát triển Công ty trở thành một thương hiệu mạnh có uy tín trong và
ngoài nước
Để thực hiện chiến lược này Công ty tiếp tục giữ vững mối quan hệ với các đối
tác truyền thống ở các thị trường mà Công ty hiện có, bằng cách tích cực xây dựng các
sản phẩm du lịch mới để giới thiệu tới các đối tác và khách hàng. Thường xuyên chia
sẻ chương trình giảm giá, khuyến mại tới đối tác gửi khách và khách hàng.....lựa chọn
và tham gia xúc tiến hội chợ du lịch trong nước, ngoài nước. Cụ thể, từ ngày 36/4/2015 vừa qua, Công ty đã tham gia hội chợ VITM (Hội chợ Du lịch Quốc tế tại
Việt Nam) được tổ chức thường niên tại Hà Nội.
Vinatour thực hiện đẩy mạnh, tăng cường công tác quảng bá thương hiệu và
quảng cáo hình ảnh Công ty trên các phương tiện thông tin và các kênh truyền thông
khác nhau; triển khai tổ chức việc bán hàng trực tuyến, có chính sách đặc biệt đối với
các khách hàng truyền thống, cũng như chính sách thu hút các khách hàng tiềm năng.
Tập trung điều hành hoạt động kinh doanh đảm bảo tính hiệu quả và hoàn
thành các kế hoạch đề ra. Phát huy thế mạnh, tiết kiệm chi phí quản lý tối đa, nâng cao
hiệu quả công tác quản lý. Nghiên cứu việc mở lại văn phòng chi nhánh của Vinatour
tại thành phố Hồ Chí Minh để phát triển thị trường và tăng cường hệ thống kết nối
dịch vụ cho du khách tại hai đầu Bắc - Nam. Cải tạo và sửa chữa lại khu văn phòng 54
Nguyễn Du để kết hợp kinh doanh dịch vụ khác nhằm tăng doanh thu.
b. Công ty lấy chất lượng và hiệu quả lợi nhuận làm thước đo kết quả điều hành và
lãnh đạo của Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo về hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty và xây dựng doanh nghiệp.
Trong thời gian quan, Công ty gặp nhiều khó khăn thách thức lớn chưa từng có,
thu nhập người lao động còn kiêm tốn, nhưng Hội đồng quản trị đã lãnh đạo chuyển

hướng kịp thời tập trung vào thị trường chủ yếu của Công ty, thực hiện quyết liệt một
số lĩnh vực kinh doanh có tính bứt phá, nên các chỉ tiêu chủ yếu đều thực hiện được.
Việc làm, đời sống của người lao động được đảm bảo, vị thế của Công ty trên thị
trường trong và ngoài nước ngày được nâng cao. Lãnh đạo có quyết tâm cao, đã phấn
đấu cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế.
Về thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch được giao, Ban điều hành có đưa ra
nhiều đề xuất tham mưu có giá trị cho Hội đồng quản trị và Hội đồng quản trị đã tập
trung chỉ đạo thực hiện kịp thời. Dưới sự giám sát của Hội đồng quản trị, trong công
tác quản lý điều hành, Ban điều hành có thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Hội
đồng quản trị đã ban hành, chế độ báo cáo thỉnh thị ý kiến của Hội đồng quản trị được
thực hiện thường xuyên và đảm bảo cung cấp thông tin đáng tin cậy nhằm tham mưu


19

cho Hội đồng quản trị ra các quyết định quan trọng và tạo điều kiện cho công tác giám
sát của Hội đồng quản trị được chặt chẽ hơn. Việc thực hiện chế độ công bố thông tin
theo quy định đều được Ban điều hành thực hiện tốt.
Mối quan hệ giữa Ban điều hành với Hội đồng quản trị được duy trì tốt đúng
theo qui chế quản trị công ty, việc phân công phân nhiệm trong Ban điều hành tương
đối tốt góp phần phát huy tính chủ động của từng thành viên. Tuy nhiên, để đảm bảo
điều hành công ty theo mô hình mới có hiệu quả thì cần phải giao cho Ban điều hành
chủ động trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch để đạt được mục tiêu đề ra. Cũng
như phải gắn quyền lợi và trách nhiệm của Ban điều hành trước kết quả hoạt động
kinh doanh, cam kết hoàn thành kế hoạch và mục tiêu do Hội đồng quản trị giao phó.
c. Nâng cao chất lượng dịch vụ, sản phẩm, mở rộng lĩnh vực kinh doanh,nhằm tăng
doanh thu, lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn
Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, chú trọng đến việc chăm sóc khách
hàng, tinh thần thái độ phục vụ vui vẻ, tận tình, chu đáo, đòi hỏi tính chuyên nghiệp
cao. Xây dựng bộ phận chăm sóc khách hàng và bộ phận nghiên cứu, xây dựng sản

phẩm để chăm sóc và đáp ứng các nhu cầu khác nhau của du khách. Cũng như tạo ra
những sản phẩm chuyên biệt của VINATOUR để hướng tới phục vụ những đối tượng
khách hàng theo ngạch của thị trường nhằm giảm thiểu việc cạnh tranh.
Nghiên cứu xây dựng và phát triển chương trình bán sản phẩm trên mạng, xây
dựng bán sản phẩm du lịch hàng ngày khởi hành định kỳ cho người Việt Nam đi du
lịch trong nước. Tổ chức khảo sát tại các tuyến điểm truyền thống để đảm bảo các dịch
vụ cung cấp tới khách hàng được thực hiện theo đúng như đã cam kết. Thường xuyên
bổ sung và thay đổi các dịch vụ bổ trợ theo sở thích của khách hàng để tạo sự ấn tượng
và tính thu hút cho sản phẩm của Công ty.
Nghiên cứu, phát triển và xây dựng sản phẩm để hỗ trợ tích cực hơn nữa cho
hoạt động kinh doanh, đầu tư xây dựng hệ thống tư vấn, bán hàng trực tuyến và thanh
toán trực tuyến để thu hút các nguồn khách khác nhau. Tập trung mạnh vào việc phát
triển thị trường Inbound và xem thị trường Inbound như xương sống của hoạt động
kinh doanh lữ hành của Công ty trong thời gian tới.
d. Đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, trên cơ sở tổ chức và sắp xếp
lao động
Xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp song song với thực hiện tốt các
chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần thu hút lao động chất lượng cao cho Công ty.
Công ty ổn định nội bộ, kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo cho phù hợp với tình hình thực


20

tại của Công ty. Đầu tư nhân sự cán bộ thị trường và cán bộ điều hành cho phòng thị
trường nước ngoài (Inbound), phòng thị trường Outbound và bộ phận tổ du lịch nội
địa, với mục tiêu mở rộng việc khai thác các thị trường khách khác nhau.
Công ty có kế hoạch đào tạo, đào tạo nâng cao cán bộ công nhân viên trong
Công ty để khai thác các thị trường mới khác nhau. Tạo điều kiện làm việc thuận lợi
và tốt nhất cho các cán bộ thị trường tập trung khai thác nguồn khách tại các thị trường
khác nhau. Tăng cường công tác chỉ đạo kiểm tra giám sát; thực hiện công tác thi đua

khen thưởng và các hoạt động cộng đồng và gắn với đánh giá nhận xét chất lượng
công việc của từng người.
e. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo pháp luật với Nhà nước để công ty phát triển
bền vững
Vận dụng linh hoạt các chính sách, các quy định của Nhà nước và cấp trên, để
Hội đồng quản trị, lãnh đạo công ty, Ban điều hành và các phòng ban trong công ty
cùng nhau thống nhất, chủ động khắc phục những nguy cơ thách thức, nắm bắt cơ hội
có thể, đi sâu từng việc, chỉ đạo giải quyết cụ thể dứt điểm từng việc, động viên nhau,
cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung là sự phát triển Công ty.
Sửa đổi điều lệ và các bộ quy chế, quy định mới phù hợp với tình hình thực tế
để đảm bảo công tác quản lý và hỗ trợ thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Quản lý, sử
dụng vốn có hiệu quả, sát sao và chặt chẽ trong việc quản lý và thu hồi công nợ theo
quy định của pháp luật.
Thực hiện công khai minh bạch trong các hoạt động của công ty, đặc biệt trong
lĩnh vực tài chính theo quy định của Pháp luật, thực hiện tốt quy chế dân chủ trong
Công ty Cổ phần.
f. Coi công tác kiện toàn lại bộ máy tổ chức, tuyển dụng bổ sung thêm nhân lực là
bước đột phá trong phát triển Công ty
Cơ cấu lại bộ máy nhân sự đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả: Sắp xếp lại bộ máy lao
động, tinh giản bộ phận gián tiếp đến mức gọn nhẹ nhất để tiết kiệm chi phí. Rà soát,
sắp xếp lao động trong toàn Công ty với tiêu chí phù hợp với năng lực, sở trường của
từng người để phát huy tối đa năng lực, trình độ và tính sáng tạo.
Đổi mới bộ máy quản lý, tinh giản nhân sự phù hợp với quy mô và cơ chế hoạt
động của công ty với mục tiêu hiệu quả lên hàng đầu. Ưu tiên chính sách thu hút, đãi
ngộ, lương thưởng xứng đáng để khuyến khích động viên người lao động nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Đảm bảo đời sống và không ngừng nâng cao phúc lợi cho người
lao động.


21


Tập trung phát triển nguồn nhân lực theo chiều sâu, có kế hoạch trong việc đào
tạo nhân lực và mang tính lâu dài để đáp ứng tốt nhất cho sự phát triển bền vững của
công ty. Xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán bộ: bồi dưỡng,
đào tạo nâng cao để chuẩn bị nguồn nhân lực đủ mạnh phục vụ cho yêu cầu hoạt động
kinh doanh .
Năm 2015 xác định là năm có nhiều khó khăn, thách thức đối với hoạt động
kinh doanh của Công ty do các vấn đề khách quan và nội tại doanh nghiệp. Vì vậy,
việc có định hướng đúng đắn và kiên định về mục tiêu, nhiệm vụ, kết hợp với sự điều
hành kiên quyết, linh hoạt và đoàn kết, tập trung trí tuệ của tập thể lãnh đạo và tập thể
cán bộ công nhân viên là mấu chốt để giải quyết các khó khăn nói trên.


22

KẾT LUẬN
Bài học “tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy” mang một ý nghĩa thực tiễn
to lớn không chỉ ở thời điểm nó ra đời mà còn có tác dụng ngay cả thời điểm hiện
nay và mai sau. Bài học này đã được vận dụng rất nhiều vào đời sống con người
trong các lĩnh vực khác nhau và có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới
đất nước. Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở
nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lãnh đạo của mình thông
qua việc nhận thức đúng, tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ,
do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại, đồng thời xác định rõ những thách thức
mà chúng ta sẽ trải qua. Chính vì vậy, đứng trước thực tế của quá trình phát triển,
một lần nữa lại càng khẳng định vai trò lý luận nhận thức của chúng ta, đặc biệt là
đối với các tổ chức doanh nghiệp – nhân tố tiên phong trong quá trình hội nhập.
Mọi chiến lược phát triển doanh nghiệp phải xuất phát từ thực tế khách quan,
nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy ý chí để áp đặt

thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái
độ nóng vội, không trung thực và chủ quan duy ý chí, đồng thời phải tự đổi mới
trong tư duy theo kịp với khách quan.
Đề tài nghiên cứu “Bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy. Vận
dụng vào hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần du lịch và Thương mại
quốc tế Vinatour ” đã nghiên cứu, phân tích và đạt một số kết quả như sau:
Thứ nhất, đề tài đã làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về bài học tôn trọng
khách quan và đổi mới tư duy. Trước hết, đưa ra lý thuyết về phạm trù vật chất, ý thức,
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Từ đó trình bày nội dung tôn trọng khách quan và
đổi mới tư duy.
Thứ hai, nghiên cứu về việc vận dụng bài học tôn trọng khách quan và đổi mới
tư duy vào hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần du lịch và Thương mại quốc tế
Vinatour, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Do thời gian và kiến thức, kinh nghiệm có hạn nên đề tài còn một số hạn chế
trong việc …Nhóm hy vọng những vấn đề trong bài nghiên cứu phần nào giúp
người đọc hiểu được tầm quan trọng của việc cần thiết phải tôn trọng khách quan và
đổi mới tư duy ở Việt Nam nói chung hiện nay và trong các tổ chức, doanh nghiệp
nói riêng Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho các tổ chức doanh nghiệp
nhìn nhận đúng hơn về nội lực và ngoại lực, từ đó xây dựng những phương án, giải


23

pháp cho sự phát triển của tổ chức doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ
ngày nay.



×