Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

ĐỀ CƯƠNG DẪN LUẬN NGÔN NGỮ: CÂU HỎI + ĐÁP ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.64 KB, 25 trang )

Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Đề cương Dẫn luận ngôn ngư

Lý thuyết:
Câu 1: Khái niệm ngôn ngữ , các đơn vị ngôn
ngữ, các quan hệ ngôn ngữ.
Trả lời:
Ngôn ngư là một hệ thống các đơn vị (âm vị, hình vị, từ, câu) và nhưng quy tắc kết hợp
để tạo thành lời nói trong giao tiếp. Nhưng đơn vị ngôn ngư và quy tắc kết hợp các đơn vị
ngôn ngư để tạo thành lời nói được cộng đồng sử dụng ngôn ngư ấy quy ước và được
phản ánh trong ý thức của họ.
-> ngôn ngư là 1 hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và
quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng. Đồng thời cũng là phương tiện để
phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống lịch sử từ thế hệ này san thế hệ khác.
- các đơn vị ngôn ngư: âm vị, hình vị, từ và ngư, câu, văn bản.
+ Âm vị: là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngư mà người ta không thể chia nhỏ hơn.
Vd: các âm [b ], [t], [v]….hoàn toàn không thể chia nhỏ chúng hơn được nưa.
Âm vị không có nghĩa nhưng lại có chức năng khu biệt nghĩa của từ. Âm vị là thành tố
tạo nên hình vị.
Ví dụ: bào có nghĩa là “ một dụng cụ của thợ mộc để làm mòn, nhẵn gỗ” còn vào có
nghĩa là “ một hành động đi từ ngoài tới trong”. Bào có nghĩa khác với vào do sự đối lập
giưa âm /b/ và /v/.
Tương tự, màn có nghĩa khác với bàn nhờ có sự đối lập giưa âm vị /b/ và âm vị /m/, do
vậy chúng khu biệt nghĩa của hai từ này.
+ Hình vị: Là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa nhưng không có khả năng hoạt động độc lập, là
chuỗi kết hợp các âm vị tạo thành.Hình vị có thể mang ý nghĩa từ vựng ( hình vị thực )
hoặc có thể mang ý nghĩa ngư pháp (hình vị hư).
Hình vị đứng ở vị trí khác nhau có ý nghĩa khác nhau là hình vị độc lập
Vd: đo đỏ, may đo
Hình vị là thành tố để tạo nên từ.
Ví dụ: Ví dụ: “Quốc kỳ” được tạo bởi 2 hình vị là “Quốc” và “kỳ” kết cấu với nhau theo


quan hệ chính phụ, kiểu hán việt. Hai hình vị này đều biểu thị nghĩa : Quốc: nước, kỳ:


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
cờ.Trong tiếng Anh, từ Unkind có 2 hình vị, từ boxes có 2 hình vị: 1 hình vị từ vựng và 1
hình vị ngư pháp.
+Từ: Là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và có khả năng hoạt động độc lập. Từ là đơn vị được
cấu tạo bằng một hoặc một số từ tố (hình vị) mang chức năng định danh, có khả năng
đóng các vai trò khác nhau trong câu như chủ ngư, vị ngư, bổ ngư,…
Vd: các từ 1 hình vị: bàn,ghế, ngồi, khóc,….
+ Câu: là đơn vị nhỏ nhất có chức năng thông báo. Là chuỗi kết hợp của 1 hay nhiều từ
theo quy tắc nhất định.
Ví dụ: Tôi đi học. Mọi người vẫn sợ sự thay đổi của cô ấy vào phút chót….
-> Câu ít nhất phải có một từ, từ ít nhất phải có 1 hình vị, 1 hình vị ít nhất phải có 1 âm
vị.
+ Văn bản: văn bản là sản phẩm của lời nói mang tính hoàn chỉnh tồn tại dưới dạng in
hoặc viết, bao gồm 1 đầu đề và hàng loạt đơn vị lớn hơn phát ngôn. Nó truyền tải một nội
dung giao tiếp nhất định, nhằm đến một đối tượng giao tiếp nhất định.

Ví dụ: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống

thực dân cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân
tộc ta!

 Đây là lời phát động, kêu gọi toàn bộ nhân dân Việt Nam đứng lên chống lại sự
xâm lược của thực dân Pháp vào cuối năm 1946.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

-

Các quan hệ trong ngôn ngư

Ngôn ngư là một hệ thống
Sự tồn tại của hệ thống kết cấu ngôn ngư được xác định không chỉ dựa vào các
yếu tố( các loại đơn vị ) mà còn dựa vào mối quan hệ chung nhất giưa chúng. Đó
là mối quan hệ tồn tại trong hệ thống bao gồm quan hệ ngang,dọc và quan hệ cấp
bậc.
+quan hệ tuyến tính( quan hệ ngang hay quan hệ ngư đoạn )
Là quan hệ nối kết các đơn vị ngôn ngư thành chuỗi khi ngôn ngư đi vào hoạt
động.
Cơ sở của quan hệ này là tính hình tuyến bắt buộc các đơn vị phải kết nối với
nhau lần lượt trên một trục nằm ngang.
Trên trục này chỉ nhưng đơn vị đồng hạng mới kết hợp trực tiếp với nhau: từ kết
hợp với hình vị, hình vị kết hợp với âm vị
Vd: Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Không nhất thiết nhưng đơn vị ở gần nhau thì phải có quan hệ với nhau.
Quan hệ này là điều kiện để xác định mối liên quan giưa các ngôn ngư chi phối
các hành động của ngôn ngư.
+quan hệ liên tưởng ( quan hệ dọc )
Là quan hệ giưa các yếu tố có thể thay thế cho nhau trong một vị trí của chuỗi lời
nói. Các yếu tố tham gia vào quan hệ liên tưởng phải nằm trong cùng một trường
liên tưởng( cùng trường nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa )
Ví dụ: trong câu “ nhân dân ta rất anh hùng” .Vị trí của từ nhân dân có thể
thay bằng quân đội, phụ nư, thanh niên…Vị trí của từ ta có thể thay bẳng Lào,
Campuchia…Vị trí anh hùng có thể thay bằng dũng cảm, cần cù, thông minh...
Quan hệ liên tưởng giúp chúng ta lựa chọn từ một cách chính xác trong chuỗi lời
nói.
Ví dụ: để diễn đạt hành động đã và đang diễn ra trong tiếng Anh, tiếng Pháp và
tiếng Việt, các đơn vị ngôn ngư được kết hợp theo quan hệ liên tưởng sau:
- I have been learning English for a long time (1)
- J’ apprends Anglais depuis longtemps (2)
- Tôi đã học tiếng anh lâu rồi
(3)
Để diễn đạt các hành động đang diễn ra , các đơn vị ngôn ngư được đặt trên mối
quan hệ sau:
- The students are writing a newspaper (4)
- Sinh viên đang viết báo
(5)
Tập hợp các yếu tố(đơn vị) theo quan hệ dọc có thể thay thế hàng loạt yếu tố
cùng hệ hình


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
 Sự khác nhau giưa quan hệ tuyến tính và quan hệ liên tưởng là: Quan hệ tuyến tính
là quan hệ giưa các yếu tố hiện hưu trong chuỗi lời nói còn quan hệ liên tưởng là

quan hệ với các yếu tố ko hiên hưu mà chỉ tồn tại nhờ sự liên tưởng của con
người.Tuy nhiên giưa quan hệ tuyến tính và quan hệ liên tưởng có mối liên hệ với
nhau, mỗi vị trí đều nằm trong mối quan hệ bị quy định bởi chức năng kết hợp và
ngư nghĩa của nó với các yếu tố khác
Ví dụ: Ví dụ: “ Dân tộc Việt Nam” tạo thành ngư danh từ
“rất anh hùng” tạo thành ngư tính từ.
Hai thành phần này tạo nên quan hệ chủ-vị.

+ Quan hệ cấp bậc (quan hệ bao hàm và quan hệ thành tố)
Quan hệ cấp bậc là quan hệ giưa các đơn vị ở cấp độ khác nhau của hệ thống ngôn
ngư . Quan hệ cấp bậc thể hiện ở 2 quan hệ : quan hệ bao hàm và quan hệ thành tố
Quan hệ bao hàm thể hiện giưa các đơn vị cấp cao đối với các đơn vị cấp thấp: câu
bao hàm từ, từ bao hàm hình vị, hình vị bao hàm các âm vị.
Quan hệ thành tố(quan hệ tôn ti) được xét từ thấp đến cao : âm vị là thành tố cấu
tạo nên hình vị , hình vị là thành tố cấu tạo nên từ, từ là thành tố cấu tạo nên câu…
Trong quan hệ bao hàm và quan hệ thành tố ta chỉ xét nhưng đơn vị đồng loại .
Quan hệ cấp bậc trở thành một thực thể có tầng lớp, thứ bậc, tạo cơ sở cho sự hành
chức của ngôn ngư.
Tóm lại, toàn bộ hoạt động của hệ thống ngôn ngữ được thể hiện trên hai mối
quan hệ : quan hệ cấp bậc và quan hệ ngang, dọc

Câu 2 :Nguồn gốc của ngôn ngữ
-

-

Thời
gian

Một số giả thiết về nguồn gốc của ngôn ngư:

ngôn ngư do đấng siêu nhiên tạo ra
Trong kinh thánh cho rằng ngôn ngư là do chúa trời tạo ra.Nhưng niềm tin tương
tự có thể thấy hầu khắp các nơi trên thế giới.
Vd: Người Ai Cập cho rằng đấng sáng tạo ra ngôn ngư là thần Nabu.
Người Hindu cho rằng chúng ta có được ngôn ngư của mình là nhờ thần
Sanasvati.
Ngôn ngư do con người tạo ra.
Thuyết tượng
thanh
Mạnh nha từ
thời cổ đại, phát

Thuyết cảm
thán
Phát triển
mạnh vào tk

Thuyết tiếng
kêu trong lđ
Phát triển
mạnh vào tk 19

Thuyết khế
ước xã hội
Bắt đầu thời cổ
đại và phát

Thuyết ngôn
ngư cử chỉ.
Phát triển

mạnh vào tk


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
triển mạnh vào
18-20.
tk 17-19.
Tác giả Platon, Augustin Rutso,
humbon,
stangdan..
Cơ sở Trong thực tế 1 Trong ngôn
số nhưng âm
ngư vẫn còn
thanh mô phỏng xuất hiện
tự nhiên tạo ra 1 nhưng thán từ
hệ thống không và nhưng từ
nhỏ từ tượng
phái sinh từ
thanh trong
thán từ
ngôn ngư
Nội
Toàn bộ ngôn
Ngôn ngư
dung
ngư nói cung và loài người có
các từ riêng biệt được là do âm
của nó đều do ý thanh của sự
muốn tự giác
mừng, vui,

hay không tự
buồn, tủi: ôi,
giác của con
chao ôi, ái, a
người bắt chước ha..
âm thanh của
thế giới xung
quanh.
Sai
lầm

Sai vì bản thân
sự bắt chước âm
thanh không nói
lên được sự bắt
chước ấy để làm
j?

L.Nuare,
K.Biukher

triển mạnh vào
tk18
Đê mô cơrit,
adam Xmit,
Rutso

18-20
Vunto, marr


Đời sống tập
thể và đời sống
trong lao động
hiện nay

Ngôn ngư có
được bắt nguồn
từ tiếng kêu
gọi của người
nguyên thuỷ
hoặc đó là âm
thanh phát ra
khi lao động

Ngôn ngư là do
con người thoả
thuận vs nhau
mà quy định
ra.

Ban đầu con
người chưa có
ngôn ngư bằng
tiếng để giao
tiếp vs nhau.
Người ta dùng
cơ thể để giao
tiếp.Ngôn ngư
ban đầu chỉ là
ngôn ngư của

các đạo sĩ giao
tiếp vs phật tổ
của mình.
Sai và trẻ con Sai vì động vật Sai vì muốn có Sai vì không
mới sinh và
có thể phát ra
thoả thuận phải phải tất cả mọi
động vật có
tiếng kêu cũng có ngôn ngư
người đều là
thể biểu lộ
có đời sống tập trước.Người
đạo sĩ mà ngôn
cảm xúc = âm thể nhưng
nguyên thủy
ngư mọi người
thanh nhưng
chúng k có
chưa có ngôn
đều sd.
nó k phải là
ngôn ngư.
ngư k thể bàn
ngôn ngư.
bạc với nhau
về phương ấn
tạo ra ngôn
ngư.

 Tất cả các giả thuyết trên đều sai lầm và không giải thích đúng về nguồn gốc của

ngôn ngư,chỉ có Angghen giải thích đúng.
Theo ăngnghen : Lao động là điều kiện làm nảy sinh ra ngôn ngư. Ông khẳng định
“ Đem so sánh con người vs các loài động vật, ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngư bắt
nguồn từ trong lao động và cùng nảy sinh với lao động, đó là cách giải thích duy
nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngư”
Lao động đã hoàn thiện con người: Tổ tiên của loài người là loài vượn người sống
trên cây sau đó chúng rời khỏi cây xuống mặt đất.Việc di chuyển và tìm kiếm thức
ăn buộc loài vượn tập đi bằng 2 chân sau và đứng thẳng lên.Như vậy là hai tay


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
vượn người đươc giải phóng.Đôi tay ngày càng trở nên khéo , biết sử dụng các
vật sẵn có làm công cụ tự vệ, kiếm ăn; và quan trọng hơn: nó biết chế tạo ra công
cụ lao động. Convượn người đã chuyển dần thành con người vượn rồi thành người
(người nguyên thuỷ) .Dáng đứng thẳng cũng làm cho tầm mắt của tổ tiên chúng ta
được rộng và xa hơn; đồng thời bộ ngực nở hơn đồng thời các cơ quan của bộ máy
phát âm có điều kiện phát triển hơn.Mặt khác, có công cụ trong tay, nhưng người
tiền sử đó kiếm được nhiều thức ăn hơn và chuyển dần từ đời sống ăn thực vật
(cây, quả, củ, rễ…) sang đời sống ăn thịt. Thêm vào đó, việc tìm ra và sử dụng
được lửa cũng khiến họ chuyển từ ăn sống sang ăn chín. Một hệ quả quan trọng đã
diễn ra, thức ăn chín, mềm khiếm xương hàm người ta không cần phải to như
trước nưa; lồi cằm (phần trước xương hàm dưới) vểnh ra rõ dần.Tuy nhiên, trong
số các biến đổi về mặt sinh học của con người, sự tiến bộ của bộ não là quan
trọng nhất. Nhờ lao động, nhờ ăn thịt, bộ não của tổ tiên chúng ta cũng phức tạp
dần lên; nhưng phần vỏ não trực tiếp liên quan đến tiếng nói như thuỳ trán, thuỳ
thái dương và phần dưới thuỳ đỉnh, phát triển mạnh. Kết cục là so với nhưng
người bà con và anh em họ của tổ tiên chúng ta, bộ não con người ngày nay (tính
theo tỉ lệ giưa trọng lượng của não với trọng lượng của toàn thân) lớn hơn khỉ đột
10 lần, hơn đười ươi 6 lần, hơn khỉ đen 2 lần và hơn vượn 4 lần.Như vậy, lao động
đã tạo ra con người và tạo ra nhưng tiền đề thứ nhất về mặt sinh học để ngôn ngư

có thể phát sinh. Có thể nói lao động để chuẩn bị và “tạo cơ sở vật chất” để loài
người có nhưng cơ quan thích hợp cho việc sản sinh tiếng nói.
Kết luận : Nhờ có lao động bằng công cụ mà con người dần có dáng đi đứng
thẳng, đôi tay khéo léo, tư duy của con người phát triển.Nhưng tư duy không thể
tồn tại trần trụi, thoát khỏi ngư liệu thì tư duy được hình thành dẫn đến sự ra đời
của ngôn ngư. Vậy. Ngôn ngôn ngư tồn tại cổ xưa như ý thức.
Ngôn ngư chỉ nảy sinh do nhu cầu, do sự cần thiết phải giao tiếp, nhu cầu giao tiếp
ấy cũng đang do lao động quyết định.
Lao động giúp hoàn thiện cơ quan phát âm của con người.

Câu 3: bản chất xã hội của ngôn ngữ
-

Ngôn ngư là một hiện tượng xã hội.
Một số giả thiết về bản chất của ngôn ngư:
+ ngôn ngư là 1 hiện tượng tự nhiên

Qđ1: Do ảnh hưởng thuyết tiến hoá của Đacuyn, một số người xem ngôn ngư giống như
một cơ thể sống. Ngôn ngư hoạt động và phát triển theo quy luật của tự nhiên, nghĩa là
ngôn ngư ở mọi nơi mọi lúc phải trải qua các giai đoạn: nảy sinh, trưởng thành, hưng
thịnh, suy tàn và diệt vong. Để biện minh cho quan điểm này, người ta đã dẫn ra các hiện
tượng nhiều từ cũ và nghĩa cũ đã mất đi, nhiều từ mới và nghĩa mới đã được tạo ra trong
các ngôn ngư, thậm chí một số ngôn ngư đã trở thành tử ngư như tiếng Latin, tiếng Phạn,
v, v.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
->Sai:Thực ra quy luật phát triển của ngôn ngư không giống quy luật phát triển của của
tự nhiên. Ngôn ngư luôn kế thừa cái cũ và phát triển cái mới, không bao giời bị huỷ diệt
hoàn toàn.

Qđ2: Đồng nhất ngôn ngư với bản năng sinh vật của con người, nghĩa là họ cho hoạt
động nói năng cũng có tính chất bản năng như các hoạt động ăn, khóc, cười, chạy, nhảy,
v.v. của con người.
->Sai:Thực ra nhưng bản năng sinh vật như ăn, khóc, cười, v.v. có thể phát triển ngoài xã
hội, trong trạng thái cô độc, còn ngôn ngư không thể có được trong nhưng điều kiện như
thế.Nó chỉ có được và phát triển được trong môi trường xh loài người.
Qđ3: đồng nhất ngôn ngư với nhưng đặc trưng về chủng tộc, nghĩa là ngôn ngư có tính
chất di truyền. Nhưng ngôn ngư không có tính di truyền. Nếu trẻ sơ sinh sống ở một môi
trường ngôn ngư khác cách li hẳn với bố mẹ và chủng tộc xuất thân thì chúng sẽ nói bằng
ngôn ngư của môi trường xã hội này, chứ không phải bằng ngôn ngư của bố mẹ nó, của
chủng tộc xuất thân. Chẳng hạn, nếu một đứa trẻ sơ sinh người Việt Nam phải sống và
tiếp xúc với toàn nhưng người nói tiếng Anh thì sau đó nó không biết nói tiếng Việt mà
chỉ biết nói tiếng Anh.
Qđ4: Nhưng người bảo vệ quan điểm sinh vật học đối với ngôn ngư còn đồng nhất ngôn
ngư với tiếng kêu của loài vật. Tiếng kêu của loài vật cũng có thể báo cho đồng loại biết
về một điều gì đó, như: báo tin có thức ăn, báo nguy hiểm, bộc lộ cảm xúc, kêu gọi bạn
tình, v.v. nhưng tiếng kêu đó là bẩm sinh và có tính di truyền. Chúng chỉ là nhưng phản
xạ có điều kiện hay không có điều kiện chứ không có tư duy trừu tượng còn ngôn ngư
của con người găn liền vs tư duy trừu tượng.
- Ngôn ngư là 1 hiện tượng cá nhân: Một số nhà bác học phê phán quan điểm sinh vật
học đối với ngôn ngư nhưng vẫn không thừa nhận bản chất xã hội của ngôn ngư mà lại
cho ngôn ngư là hiện tượng cá nhân. Sakhomatop cho rằng có ngôn ngư của mỗi cá
nhân.Ngôn ngư của mỗi làng xóm, 1 tập thể xã hội chỉ là chuyện bịa đặt phản khoa học
->Điều này không chính xác, bởi ngôn ngư được hình thành và phát triển trong phạm vi
cả một xã hội, cả một cộng đồng. Nó là sự quy ước chung của cả cộng đồng.Nó có chức
năng là giao tiếp nếu chỉ có ngôn ngư cá nhân thì vai trò của ngôn ngư k đảm nhận được.
Do đó ngôn ngư mang rõ bản sắc và phong cách của từng cộng đồng, từng xã hội và từng
dân tộc.. Ngôn ngư không phải là hiện tượng cá nhân, mà là tài sản, là sản phẩm chung
của xã hội.
=> TheoMác và Ăngghen: “ ngôn ngư là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngư cũng tồn tại

cho cả nhưng người khác nưa, như vậy là cũng tồn tại đầu tiên cho bản thân tôi nưa; và
cũng như ý thức, ngôn ngư chỉ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với
người khác.”


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Ngôn ngư không thuộc các hiện tượng tự nhiên, cũng không phải là hiện tượng cá nhân
vậy nó phải là hiện tượng xã hội . Khẳng định ngôn ngư là một hiện tượng xã hội cũng có
nghĩa là thừa nhận sự tồn tại và phát triển của ngôn ngư gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Nó phát triển theo qui luật khách quan không phụ thuộc vào ý chí
nguyện vọng của mỗi cá nhân . Sự thay đổi không đột biến mà từ từ và được xã hội thừa
nhận.
Chẳng những ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội như đã phân tích bên trên, mà
nó là một hiện tượng xã hội đặc biệt:
vì nó không thuộc cơ sở hạ tầng, không thuộc kiến trúc thượng tầng cũng không phải là
công cụ sản xuất và không mang tính giai cấp. Ngôn ngư có một đặc thù riêng là phục vụ
xã hội, làm phương tiện giao tiếp giưa mọi người, làm phương tiện trao đổi ý kiến trong
xã hội, làm phương tiện giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công
tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động.
+nó không thuộc cơ sở hạ tầng cũng không thuộc kiến trúc thượng tầng.
Trong các hiện tượng xã hội, Mác phân biệt cơ sở hạ tầng và kiến trúc tượng tầng :
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan hệ sản xuất của xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất
định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ quan điểm chính trị, pháp quyền, tôn giáo…của xã hội
và các cơ quan tương ứng với chúng. Ví dụ: Pk: CSHT là tư hưu tư nhân về tư liệu sản
xuất kéo theo KTTT là người bóc lột người.
Hiện đại: CSHT: quốc hưu hoá tư liệu sản xuất kéo theo KTTT: Bình đẳng giưa người
vs người
Trong khi đó,ngôn ngư không phải do CSHT nào sinh ra và cũng không thuộc kiến trúc
tượng tầng. Ngôn ngư có một đặc thù riêng là phục vụ xã hội, làm phương tiện giao tiếp

giưa mọi người, làm phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, làm phương tiện giúp cho
người ta hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt
động.
+ kiến trúc thượng tầng luôn phục vụ cho một giai cấp nhất định còn ngôn ngư phục vụ
chung cho mọi giai cấp,cho toàn xã hội.
+ cơ sở hạ tầng phục vụ xã hội về mặt kinh tế, kiến trúc thượng tầng phục vụ xã hội về
mặt chính trị, còn ngôn ngư phục vụ xã hội với tư cách là 1 phương tiện giao tiếp,điều
này chỉ ngôn ngư mới có. Gưa con người với con người, giưa tầng lớp này với tầng lớp ,
giưa các giai cấp đều phải có sự lien hệ với nhau về kinh tế và về tổ chức xã hội. Vì vậy
giưa họ phải có 1 phương tiện giao tiếp chung đó là ngôn ngư. Ngôn ngư có thể được các
giai cấp sử dụng như 1 phương tiện đấu tranh giai cấp nhưng bản thân nó không mang
tính giai cấp, nó là phương tiện giao tiếp của toàn dân.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Câu 4: bản chất tín hiệu của ngôn ngữ
Kn hệ thống: hệ thống là 1 thể thống nhất bao gồm các yếu tố quan hệ và liên hệ
với nhau. Nói đến hệ thống cần có 2 điều kiện: 1. Tập hợp các yếu tố đồng loại
2.nhưng mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau giưa các yếu tố.
Kn kết cấu: kết cấu là mạng lưới của nhưng mối quan hệ và liên hệ giưa các yếu tố
khác loại trong hệ thống. Vd: từ bao gồm các âm vị, câu bao gồm các từ được kết
cấu thành hệ thống theo quy tắc.
Đã là hệ thống thì phải có kết cấu.Kết cấu là 1 thuộc tính của hệ thông
Ngôn ngư là 1 hệ thống vì nó gồm nhiều yếu tố được kết cấu và hoạt động tuân
theo nhưng quy tắc nhất định của 1 chỉ thể có mối quan hệ chặt chẽ.Các yếu tố
trong hệ thống ngôn ngư chính là đơn vj ngôn ngư.
Khái niệm: Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích
thích vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy diễn
tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy.

Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu, bởi vì, khi
nó hoạt động (sáng lên), người ta thấy nó và suy diễn tới sự cấm đoán, không được đi qua
chỗ nào đó.
Vậy, một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thoả mãn các yêu cầu sau đây:
+Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan của con người,
chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải
là vật chất, kích thích đến giác quan của con người và con người cảm nhận được.
+Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính nó. Tức là cái mà
nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ: Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm
đi. Nội dung này và bản thể vật chất của cái đèn đỏ không hề trùng nhau.
Mặt khác, nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giưa nó với "cái mà nó chỉ ra" được
người ta nhận thức, tức là người ta phải biến liên hội nó với cái gì.
+Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác định tư cách tín
hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chẳng hạn, cái đèn đỏ vừa nói bên trên là một
tín hiệu, thế nhưng, nếu tách nó ra, đưa vào chùm đèn trang trí thì nó lại không phải là tín
hiệu nưa. Sở dĩ như thế là vì chỉ có nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó mới


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
có tư các tín hiệu, được xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng nhờ vào sự đối lập quy
ước giưa chúng với nhau.
Ngôn ngữ là một tín hiệu bởi nó thoả mãn các yêu cầu:
 Ngôn ngư là một thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan của con
người (bằng chư viết và âm thanh), kích thích đến giác quan của con người
và con người cảm nhận được.
 Trong ngôn ngư, cái biểu hiện (âm thanh và chư viết) có quan hệ hài hoà
với cái được biểu hiện (nội dung của ngôn ngư).
 Ngôn ngư là 1 hệ thống
Bản chất tín hiệu của ngôn ngư
 Tính hai mặt:Tín hiệu ngôn ngư thống nhất giưa hai mặt: cái biểu hiện và

cái được biểu hiện .cái biểu hiện là chư viết, âm thanh thể hiện trên măt
giấy, cái đc biểu hiện là ý nghĩa của nó.


Cái biểu hiện (hình thức của tín hiệu)

Là nhưng dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã
thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn
ngư.


Cái được biểu hiện (nội dung của tín hiệu)

Là nhưng thông tin, nhưng thông điệp về nhưng mảnh khác nhau của thế giới hiện
tại mà con người đang sống, hoặc nhưng dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt
thực tại.
Ví dụ: Tín hiệu “cây” trong tiêng việt là sự kết hợp giưa lược đồ sau:
Âm thanh: Cây (cái biểu hiện)
Ý nghĩa: loài thực vật có lá (cái được biểu hiện )
->Cái biểu hiện và cái được biểu hiện của tín hiệu ngôn ngư gắn bó khăng khít với nhau
không thể tách rời
 Tính võ đoán: Quan hệ giưa mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện mang
tính quy ước và được xã hội chấp nhận vì thế mà có 2 trường hợp xảy ra
1. cùng 1 ý nghĩa ở ngôn ngư khác nhau thì biểu thị các từ khác nhau.
2. Cùng 1 vỏ phát âm ở ngôn ngư khác nhau nghĩa của vỏ ngư âm khác
nhau.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Ví dụ: “Cây là tín hiệu được cộng đồng người Việt quy ước để chỉ loài thực vật

có thân lá. Khái niệm này được gọi bằng nhưng âm thanh khác nhau trong các ngôn ngư
khác nhau do cộng đồng xaz hội quy định và không thể giải thích lý do. Tuy nhiên, tính
võ đoán của tín hiệu ngôn ngư dần dần cũng theo quy tắc cấu tạo từ nhất định. Chẳng hạn
xuất phát từ tín hiệu XE, các tín hiệu “xe đạp, xe máy, xe ngựa,…” được tạo ra có quy
luật kết hợp giưa chúng
 Tính vật chất:Thuộc tính vật chất của mỗi tín hiệu ngôn ngư thể hiện ở
nhưng đặc trưng có khả năng phân biệt của nó.
Ví dụ: so sánh vết mực và 1 chư cái
-

Giống nhau: về bản chất vật chất. Chúng đều có khả năng tác động
vào thị giác như nhau

-

Khác nhau: Tất cả các thuộc tính vật chất của vết mực như: độ lớn,
hình dạng, màu sắc,… đều quan trọng như nhau trong đặc trưng của
vết mực. Còn 1 chư cái nhất định thì dù đậm nét hay thanh, to hay
nhỏ...vẫn chỉ là chư cái đó thôi.

Có sự khác nhau đó là do chư cái nằm trong hệ thống tín hiệu còn vết mực thì
không .
 Giá trị khu biệt: Cái quan trọng của yếu tố trong hệ thống ngôn ngư là sự
khu biệt
Ví dụ: Các chư cái trong hệ thống có nhưng nét khu biệt: a<>b<>c<>d<>đ<>e

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Mọi hệ thống tín hiệu
chung đều có giá trị khu biệt và tính võ đoán. Tuy nhiên, hệ thống tín hiệu ngôn ngư còn
hàng loạt các đặc điểm khác biệt với các hệ thống tín hiệu khác ở các mặt sau:
Tính phức tạp nhiều tầng bậc:

-

-

Phụ âm

Tính phức tạp: hệ thống ngôn ngư phức tạp bao gồm nhiều loại đơn vị khác nhau
và số lượng từ và câu vô cùng lớn không thể thống kê được, bởi vì chúng thường
xuyên biến đổi và được bổ sung thêm. Các hệ thống ngôn ngư có tính đồng loại và
khác loại, đồng thời các đơn vị của ngôn ngư thuộc nhiều cấp độ khác nhau.
Tính nhiều tầng bậc: Các đơn vị thuộc cấp độ khác nhau có quan hệ cấp bậc. Do
đó, hệ thống ngôn ngư là một hệ thống của nhiều hệ thống: Hệ thống âm vị, hệ
thống hình vị. hệ thống từ vựng, hệ thống câu…Các hệ thống này lại gồm các hệ
thống con khác.
Ngôn ngư
Âm vị
Hình vị
Câu
Từ
Ví dụ: hệ thống từ vựng có thể chia ra hệ thống từ đơn và hệ thống từ ghép…
Nguyên âm
Thực

đơn
ghép
láy
Đơn
Ghép

Phức



Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Tính đa trị:
Trong các tín hiệu khác, mối quan hệ giưa cái biểu hiện và cái được biểu hiện có tính đơn
trị, tức là mỗi cái biểu hiện bằng 1 cái đc biểu hiện và ngược lại.
Trong ngôn ngư có khi một cái biểu hiện tương ứng với nhiều cái được biểu hiện khác
nhau (hiện tượng đa nghĩa) có khi có một cái được biểu đạt tương ứng với nhiều cái biểu
đạt khác như các từ đồng nghĩa. Mặt khác, chức năng giao tiếp và tư duy của ngôn ngư
đòi hỏi tín hiệu phải có nhiều chức năng tương ứng: chức năng thông báo, chức năng biểu
cảm, chức năng tổ chức các tín hiệu trong hệ thống ngôn ngư. Cụ thể là tính đa giá trị
nghĩa từ vựng, nghĩa cấu trúc trong hoạt động giao tiếp.
Ví dụ: chạy: hđ di chuyển bằng chân với tốc độ cao: chạy ngắn
Hđ của máy móc
Bệnh tật di chuyển trong cơ thể
Tác động vào đối tượng làm đối tượng di chuyển: chạy q.áo..

-

-

He is going tomorrow

-

Is he going?

-

He is going!


Tính hình tuyến
Khi ngôn ngư đi vào hoạt động, chúng hiện ra lần lượt nối tiếp nhau thành 1 chuỗi
liên tục theo trật tự trước sau, trật tự đó có tính chất 1 chiều. Con người không
cùng lúc phát ra nhiều tín hiệu cũng không cùng 1 lúc nghe nhiều tín hiệu
Trục không gian biểu thị bằng chư viết: đươc sắp xếp theo trật tự trái sang phải, từ
trên xuống dưới.
Tính độc lập tương đối
Các hệ thống tín hiệu thường được sáng tạo ra theo sự thoả mãn của một số
người.Do đó nó được sáng tạo theo ý muốn của con người.
Ngôn ngư mang tính xã hội, có quy luật phát triển nội tại, không lệ thuộc ý kiến
cá nhân. Ngôn ngư tồn tại độc lập từ phương thức sản xuất này đến phương thức
sản xuất khác, từ chế độ xã hội này đến chế độ xã hội khác. Tuy nhiên, ngôn ngư
có tính độc lập tương đối, vì bằng chính sách ngôn ngư cụ thể, hợp với quy luật
phát triển của nó, con người có thể tạo điều kiện cho ngôn ngư phát triển theo
hướng nhất định

Tính năng sản của tín hiệu ngôn ngữ:


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
-

Từ tín hiệu đã có sẵn, tín hiệu ngôn ngư có thể tạo ra các tín hiệu mới cho hệ
thống của nó. Đó là phương thức tạo từ mới. Xuất phát trên cơ sở từ đơn, người
Việt đã dùng các phương thức cấu tạo từ khác nhau để tạo ra nhưng từ mới, chẳng
hạn từ láy và từ ghép. Chính nhờ đặc điểm này mà hệ thống ngôn ngư ngày càng
phát triển.
Cấu tạo từ: Địa: địa cầu, địa chất, địa đạo, địa lý
Dễ -> dễ dãi, dễ dàng… Đất -> đất đai, đất vườn, đất ruộng


Phát triển từ mới phù hợp với nhiều khái niệm, nhiều sự vật hiện tượng mới xuất hiện:
hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ôzn, mạng internet.
-

Tính bất biến:
Xuất phát từ tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngư nên cá nhân sử dụng nó không thể
tự mình thay đổi được gì trong hệ thống tín hiệu ngôn ngư, dù chỉ thay đổi một từ.
Thậm chí, quần chúng sử dụng ngôn ngư đó đều phải tuân theo nhưng quy luật
ngôn ngư đã được quy ước trong trạng thái đương đại của nó. Hơn nưa, ở bất cứ
thời đại nào, ngôn ngư vẫn thể hiện ra như di sản của thời đại trước đó mà con
người thừa hưởng và chấp nhận sự hình thành của nó. Các nhân tố sau đây có thể
giải thích sự bất biến của tín hiệu ngôn ngư:
Tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngư đã bảo vệ sự bất biến của nó trong cộng đồng
người sử dụng. Bởi vì khi ngôn ngư đã được phổ cập hoá trong quần chúng thì
không có cá nhân nào có thể thay đổi được dù chỉ là 1 tín hiệu (1 từ).
- Số lượng tín hiệu để tạo nên một ngôn ngư quá lớn không thể thay đổi được
ngôn ngư
- Xuất phát từ tính chất phức tạp của hệ thống tín hiệu ngôn ngư nên quần
chúng không có khả năng thay đổi ngôn ngư.
- Tập quán sử dụng ngôn ngư của quần chúng đã gây khó khăn trong canh
tân ngôn ngư
- Trong tất cả các thiết chế xã hội, ngôn ngư là thiết chế ít chịu tác động của
sáng kiến. Nó đi sâu vào tập quán, sinh hoạt của xã hội. Bởi vậy, ngôn ngư
đóng vai trò bảo thủ trong sự canh tân ngôn ngư

. Tính khả biến:
Tính kế thừa, tính võ đoán, tính xã hội, tính phức tạp đã làm cho tín hiệu ngôn
ngư bất biến. Tuy nhiên, tín hiệu ngôn ngư có thể biến đổi vì tự thân nó kế tục trong thời
gian. Sự biến hoá của tín hiệu ngôn ngư trong thời gian đã dẫn đến sự di chuyển của mối

quan hệ biểu đạt: hình thức ân thanh lẫn khái niệm đều thay đổi hoặc đôi khi mối quan hệ
giưa tín hiệu và ý niệm bị lỏng lẻo đi.
Ví dụ: Trong tiếng La Tinh từ necăre chuyển sang tiếng Pháp thành noyer (chết
đuối). Trong tiếng Việt từ: Bẩm -> Kính (kính thưa) có sự thay đổi lẫn âm và nghĩa.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Do đó, tính khả biến của tín hiệu ngôn ngư là làm di chuyển mối quan hệ giưa
cái biểu hiện và cái được biểu hiện
Cũng vậy, sự biến đổi nghĩa của từ “nắm” khởi đầu là từ đơn, nghĩa biểu vật là dùng bàn
tay siết chặt để giư vật gì hoặc gấp các ngón tay lại vào lòng bàn tay. Theo dòng thời
gian, tín hiệu này được phối hợp với một số tín hiệu khác, tạo thành từ ghép, tự thân nó
chuyển sang nghĩa khác mang tính trừu tượng như: nắm tình hình, nắm kiến thức, nắm
ngoại ngư, nắm chiến thuật…Sự kết hợp các từ này đã làm biến hoá cái biểu hiện và cái
được biểu hiện nguyên thuỷ của nó. Như vậy, theo thời gian và kết hợp với sự phát triển
xã hội, ngôn ngư phát triển. Sự phát triển này kéo theo sự thay đổi mối quan hệ giưa cái
biểu hiện và cái được biểu hiện.
Đây là một trong nhưng hệ quả của tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngư.
Nó có thể tự do xác lập các mối quan hệ giưa chất liệu âm thanh (từ) và các ý niệm
(nghĩa của từ) và theo thời gian ngôn ngư cứ biến hoá. Sự biến hoá này là tất yếu trong sự
phát triển của loài người.
-

Gía trị đồng đại và lịch đại:

Các tín hiệu khác chỉ phục vụ xã hội trong 1 thời đại, 1 giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngôn ngư tồn tại qua các thời đại, lưu truyền từ hiện tại đến tương lai.

Câu 5: chức năng của ngôn ngữ
1.NN là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.

Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc thường xuyên giữa con người vs con
người thông qua 1 phương tiện nào đó, ở đó diễn ra sự trao đổi thông tin
và nhằm mục đích nhất định.Trong thực tế có nhiều phương tiện giao
tiếp,ngoài ngôn ngữ thường giới hạn về nội dung,hiệu quả,đặc biệt
không đủ để phản ánh tư tưởng tình cảm sâu rộng của con người.
- Các chức năng của giao tiếp:
+ Chức năng thông tin còn gọi là chức năng thông báo : thông qua ngôn
ngư người ta muốn trao đổi thông tin dưới dạng nhận thức. Trao đổi tư
tưởng dưới dạng hiện thực.Đây là chức năng cơ bản nhất của ngôn ngư
+ Chức năng tạo lập, phá vỡ quan hệ: qua giao tiếp có thể xây dựng các
mối quan hệ thân hưu hoặc phá vỡ các quan hệ.
+ Chức năng giải trí: giao tiếp sẽ giúp con người giải toả nhưng lo toan,
phiền muộn, giảm căng thẳng


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

+ Chức năng tự biểu hiện: Qua giao tiếp, con người tự biểu hiện mình ,
bày tỏ quan điểm, sở thích, ưu nhược điểm…
Nếu cuộc giao tiếp có hiệu quả, các chức năng trên đây đều được phối
hợp xem xét đánh giá trong sản phẩm NN.
+ chức năng hành động:
Các nhân tố giao tiếp gồm có: NV giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội
dung giao tiếp, mục đích giao tiếp và phương tiện giao tiếp
 Ngôn ngư là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người: nhờ ngôn
ngư mà con người có thể hiểu nhau trong quá trình sinh hoạt và lao động,
mà ta có thể diễn đạt tư tưởng, tình cảm,trạng thái và nguyện vọng của mình.
Có hiểu biết lẫn nhau , con người mới có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục
thiên nhiên, chinh phục xã hôi, làm cho xã hội ngày càng tiến lên.
2. NN là phương tiện của tư duy: Chức năng giao tiếp của NN gắn liền

với chức năng thể hiện tư duy.Bởi vì NN là hiện thực trực tiếp của tư
duy. Nhưng không thể đồng nhất 2 chức năng với nhau vì chức năng giao
tiếp chỉ thực hiện được khi có giao tiếp, tức là dùng ngôn ngư với
nhau.Nhưng trong thực tế người ta có thể nói 1 mình, viết 1 mình, tức là
không tư duy mà giao tiếp. Vậy, chức năng tư duy độc lập với chức năng
giao tiếp, giao tiếp phụ thuộc vào tư duy.
Chức năng tư duy của ngôn ngư được thể hiện ở hai khía cạnh: ngôn ngư
trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng, ngôn ngư là hiện
thực trực tiếp của tư tưởng.
a. NN là hiện thực trực tiếp của tư duy : không có từ nào, câu nào không
biểu hiện dưới dạng khái niệm tư tưởng, ngược lại ngôn ngư tư tưởng
được hình thành từ ngôn ngư.
b. NN trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư duy: moi ý nghĩ tư
duy chỉ rõ ràng khi bộc lộ bằng ngôn ngư,còn nhưng tưu duy chưa bộc lộ
ra bằng ngôn ngư là chưa rõ ràng.
c. Mối quan hệ: NN và tư duy thống nhất nhưng không đồng nhất,chủ
nghĩa Mác quan niệm nó giống như 2 mặt của tờ giấy: không có ngôn
ngư thì không có tư duy-không có tư duy ngôn ngư chỉ là nhưng âm
thanh trống rỗng.
Sự khác biệt:
- NN là vật chất còn tư duy là tinh thần : ngôn ngư là vật chất vì đơn vị
của nó là âm vị, hình vị,câu đều là âm thanh với các thuộc tính vật
chất(cao độ, cường độ…) Tư duy nảy sinh phụ thuộc vào 1 vật chất được
tổ chức đặc biệt là não, bản thân nó chỉ có tính chất tinh thần: nó không
có đặc tính vật chất như mùi,màu vị,độ cao, độ sâu


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

- Tư duy có tính nhân loại còn NN có tính dân tộc : quy luật của tư duy là

quy luật chung của nhân loại còn nhưng ý nghĩ tư tưởng lại biểu hiện ra
mỗi ngôn ngư khác nhau theo cách riêng của mình.
- Những đơn vị tư duy không đồng nhất với các đơn vị NN

Câu 6: Phân biệt nguyên âm và phụ âm
Đặc điểm
Khái niệm

Bản chất âm
học cấu âm

Luồng hơi

Khả năng tự
cấu thành âm
tiết, từ

Nguyên âm
Là nhưng âm mà luồng hơi từ
phổi đi ra không gặp phải bất
kỳ cản trở nào.

Phu âm
Là nhưng âm mà luồng
hơi đi ra bị cản trở bởi 1
điểm nào đó của bộ phận
phát âm
-Chỉ do “thanh” cấu tạo nên.
-cơ bản do tiếng động tạo
-Có đường cong biểu diễn

nên
tuần hoàn.Được tạo nên do
- Có đường cong biểu
kiểu luồng hơi ra tự do
diễn không tuần hoàn
- cấu âm vs sự “căng thẳng
- Được tạo nên do sự cản
toàn thể khí quản phát âm”
trở không khí
-Bộ máy cấu âm chỉ
“căng thẳng cục bộ”
Khi phát âm luồng hơi cần cho Khi phát âm luồng hơi
nguyên âm yếu
cần cho phát âm bao giờ
cũng mạnh( dù chỉ là
tương đối)

không

Câu 7: Cấu tạo tư


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Ba bộ phận cấu tạo của ngôn ngư là từ vựng, ngư âm và ngư pháp.
KN: Tư là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và có khả năng hoạt động độc lập.
Đặc điểm: là đơn vị hiển nhiên sẵn có cơ bản của mỗi ngôn ngư
Có hình thức ngư âm và ngư nghĩa
Có tính chất cố định và bắt buộc
• Cấu tạo

1.Đơn vị cấu tạo

- Đơn vị cấu tạo: đơn vị cấu tạo từ gọi là hình vị ( từ tố, nguyên vị )
- Đây là đơn vi nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngư
- Chia thành 2 loại
+ chính tố: mang ý nghĩa từ vựng, có tính độc lập, có ý nghĩa cụ thể trong sự
liên hệ logic với đối tượng.
+ Phụ tố: mang ý nghĩa bổ sung hoặc ý nghĩa ngư pháp, có tính phụ thuộc,
có ý nghĩa trừu tượng trong sự logic với ngư pháp.
Nếu phụ tố đứng trước gọi là tiền tố, phụ tố đứng sau gọi là hậu tố
2.Cấu tạo từ dựa vào cấu tạo từ: từ đơn, từ phái sinh, từ phức ( láy, ghép)
+ từ đơn: là từ chỉ có 1 hình vị chính tố
Vd: horse, man, nhà, ghế…
+ từ phái sinh: là từ gồm chính tố kết hợp với phụ tố cấu tạo từ ( thường ở tiếng
Anh)
Vd: students, homeless, kindness…
+ Từ phức: là sự kết hợp của hai hoặc hơn 2 chính tố gồm từ láy và từ ghép
++từ ghép; là nhưng từ có cấu tạo bằng cách ghép hoặc hơn 2 từ độc lập
Vd: breakfast, bookcase, thuyền bè, buôn bán,…
++từ láy: là nhưng từ cấu tạo bằng cách lặp lại thành phần âm thanh của một hình
vị hoặc 1 từ. Từ láy phổ biến ở các ngôn ngư đông và đông nam châu Á.Có thể
phân ra láy hoàn toàn và láy bộ phận
Vd: nho nhỏ, đo đỏ, trùng trùng điệp điệp, lưa thưa,…

• Đơn vị tư vựng tương đương với tư


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng, của ngôn ngư, là chỉnh thể gồm hai mặt (âm và nghĩa),
có tính cố định, sẵn có, bắt buộc, là đơn vị nhỏ nhất và độc lập, có khả năng hoạt động tự

do để tạo câu.
Ngữ cố định - Ðơn vị tư vựng tương đương với tư
Đơn vị dùng làm chất liệu cơ sở để tạo ra câu – đơn vị giao tiếp – không phải chỉ có từ.
Ngoài từ ra, còn có một loại đơn vị gọi là cụm từ cố định. Có thể nêu một khái niệm giản
dị cho cụm từ cố định điển hình như sau:
Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại, tồn tại với tư cách một đơn vị có sẵn như
từ, có thành tố cấu tạo và ngư nghĩa cũng ổn định như từ.
Chính vì thế cụm từ cố định được gọi là đơn vị tương đương với từ. Chúng tương đương
với nhau về tư cách của nhưng đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngư, và tương đương với
nhau về chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu.
Việc nghiên cứu cụm từ cố định của tiếng Việt tuy chưa thật sâu sắc và toàn diện nhưng
đã có không ít kết quả công bố trong một số giáo trình giảng dạy trong nhà trường đại
học và tạp chí chuyên ngành.
Nếu tạm thời chấp nhận tên gọi mà chưa xác định ngay nội dung khái niệm của chúng,
thì có thể tóm tắt một trong nhưng bức tranh phân loại cụm từ cố định tiếng Việt như sau:

Dưới đây là một số miêu tả cụ thể:
Thành ngữ
Định nghĩa
Thành ngư là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính
hình tượng hoặc/và gợi cảm.Các cụm từ cố định (thành ngư) như thế đều thoả mãn định
nghĩa nêu trên. Chúng là nhưng thành ngư điển hình.
Có nhiều cách phân loại thành ngư. Trước hết, có thể dựa vào cơ chế cấu tạo (cả nội dung
lẫn hình thức) để chia thành ngư tiếng Việt ra hai loại: thành ngư so sánh và thành ngư
miêu tả ẩn dụ.
Quán ngữ
Quán ngư là nhưng cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ (discourse)
thuộc phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh
hoặc để liên kết trong diễn từ.
Thật ra, tính thành ngư và tính ổn định cấu trúc của quán ngư không được như thành ngư.

Dạng vẻ của cụm từ tự do còn in đậm trong các cụm từ cố định thuộc loại này. Chỉ có
điều, do nội dung biểu thị của chúng được người ta thường xuyên nhắc đến cho nên hình
thức và cấu trúc của chúng cũng tự nhiên ổn định dần lại và rồi người ta quen dùng như
một đơn vị có sẵn.
Có thể phân loại các quán ngư của tiếng Việt dựa vào phạm vi và tính chất phong cách
của chúng, như sau:
Nhưng quán ngư hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngư
Nhưng quán ngư hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính luận,...) hoặc diễn
giảng
Ngữ cố định định danh


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
Tên gọi này chúng ta tạm dùng (vì nó chưa thật chặt về nội dung) để chỉ nhưng đơn vị
vốn ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngư rất nhiều, nhưng lại chưa có được ý
nghĩa mang tính hình tượng như thành ngư.
Chúng thực sự là các cụm từ cố định, nhưng được tạo dựng theo cách gần như cách tạo
nhưng từ ghép mà người ta vẫn hay gọi là từ ghép chính phụ.
Thực chất đó là nhưng cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự vật. Trong mỗi cụm từ như
vậy thường có một thành tố chính và một vài thành tố phụ miêu tả sự vật được nêu ở
thành tố chính. Nó miêu tả chủ yếu bằng con đường so sánh nhưng không hề có từ so
sánh. Thành tố chính thường bao giờ cũng là thành tố gọi tên.
Các ngư cố định định danh thường tập trung với mật độ khá đậm ở khu vực tên gọi các
bộ phận cơ thể con người Một số ít hơn là tên gọi của các sự vật khác hoặc tên gọi của
một trạng thái, thuộc tính.
Cũng như tình trạng của quán ngư, các cụm từ là ngư cố định định danh có nhưng biểu
hiện không đồng đều nhau ở điểm này hoặc điểm khác. Rõ ràng là, nhìn chung, chúng ổn
định cả cấu trúc lẫn ngư nghĩa. Nhưng tính thành ngư thì lại kém, thậm chí kém xa hoặc
rất xa so với nhưng thành ngư chân chính. Tuy nhiên, chúng cũng không phải là từ ghép,
nếu xét về bậc được cấu tạo. Chỉ có điều, việc cơ chế cấu tạo của chúng có phần giống

với các từ ghép chính phục thì chúng ta phải thừa nhận.
Ở nhưng mức độ khác nhau, chúng hiện diện như là đơn vị đứng giưa cụm từ cố địnhthành ngư với từ ghép.
Những hiện tượng trung gian
Việc phân loại các cụm từ cố định tiếng Việt như vừa trình bày trên đây không phải là đã
vạch ra nhưng ranh giới tuyệt đối giưa các loại, và không phải các đơn vị trong mỗi loại
đều thể hiện nhưng thuộc tính thuần khiết của loại. Chúng ta đã thấy là quán ngư ít nhiều
mang tính chất trung gian giưa cụm từ cố định với cụm từ tự do, còn ngư cố định định
danh thì có tính trung gian giưa cụm từ cố định với từ ghép.
Mặc dầu vậy, chúng vẫn là nhưng cụm từ có tính cố định. Chỉ có điều tính cố định đó cao
hay thấp, nhiều hay ít mà thôi.
Có thể coi các cụm từ cố định tiếng Việt có vùng tâm và vùng biên, có đơn vị điển hình
và đơn vị không điển hình. Thành ngư chắc chắn thuộc vùng trung tâm.
Thế nhưng, ngay ở khu vực thành ngư cũng có nhưng đơn vị trung gian được cấu tạo
theo lối thành ngư nhưng tính tự do, kém ổn định vẫn còn rõ nét.
Có nhưng đơn vị đã đạt được tính thành ngư khá cao nhưng tính bền chắc, tính chỉnh thể
về cấu trúc lại còn kém ổn định. Nghĩa là số thành tố cấu tạo nên chúng có thể còn tăng
hay giảm được một cách tuỳ nghi.
Rất nhiều cụm từ cấu tạo theo kiểu thành ngư so sánh, là như thế: Nhức như búa bổ, Đắt
như vàng, Gầy như gọng vó, Buồn như cha chết, Hôi như chuột chù, Bẩn như hủi, Lôi
thôi như ổ chó,...
Ngược lại, có nhưng đơn vị khác, tính ổ định về cấu trúc khá bảo đảm, tức là không thể
thêm bớt các thành tố cấu tạo một cách tuỳ nghi, nhưng tính thành ngư, tính nhất thể về
nghĩa vẫn chưa cao. Nghĩa của cả cụm từ vẫn là nghĩa được hiểu nhờ từng thành tố cộng
lại. Ví dụ: Bàn mưu tính kế, Đi ra đi vào, Buôn gian bán lận, Suy đi tính lại, Nghĩ tới
nghĩ lui, Gìn vàng giữ ngọc, Trăng tủi hoa sầu, Chân mây cuối trời, Than thân trách
phận, Ăn thô nói tục, Yêu trẻ kính già,...
Nhưng đơn vị như thế, đã, đang và chắc sẽ còn được tạo lập trong tiếng Việt. Đó là
nhưng sản phẩm được tạo ra trong đời sống hoạt động ngôn ngư. Trả lời cho câu hỏi
"Chúng có trở thành thành ngư hay không?" thật là khó. Hẳn rằng còn phải qua thời gian,



Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục
qua thực tế sử dụng, qua rất nhiều tác động của các nhân tố trong và ngoài ngôn ngư
nưa,... mới có thể kết luận được.

Câu 8: ý nghĩa ngữ pháp- phương thức ngữ pháp
Định nghĩa phạm trù ngữ pháp: Phạm trù ngư pháp là thể thống nhất của nhưng ý
nghiã ngư pháp, được thể hiện ở nhưng dạng thức đối lập nhau. Chẳng hạn phạm trù số
có 2 mặt đối lập nhau, đó là số ít và số nhiều. Phạm trù thời có các mặt đối lập ở
hiện tại, quá khứ, tương lai.
Ý nghĩa ngư pháp là ý nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngư và được thể hiện bằng
nhưng phương tiện ngư pháp nhất định.Ý nghia ngư pháp mang tính khái quát còn ý
nghĩa từ vựng mang tính cụ thể riêng từng từ.
Ví dụ: Ý nghĩa chỉ "sự vật" của các từ: cái bàn, cái ghế, con gà, đoá hoa, v.v.
Ý nghĩa chỉ "số nhiều" của danh từ tiếng Anh
Các loại ý nghĩa ngư pháp
*Ý nghĩa quan hệ và ý nghĩa tự thân
- Ý nghĩa quan hệ là loại ý nghĩa do mối quan hệ của đơn vị ngôn ngư với các đơn vị
khác trong lời nói đem lại.
Ví dụ: Trong câu: "Nam đánh An.". Từ Nam biểu thị "chủ thể" của hành động đánh,
còn từ An biểu thị "đối tượng". Nếu câu: "An đánh Nam." thì ngược lại.
- Nhưng loại ý nghĩa ngư pháp khác không phụ thuộc vào ý nghĩa ngư pháp như vậy
được gọi là ý nghĩa tự thân.
Ví dụ: Giống đực, giống cái; số ít, số nhiều của danh từ; thì hiện tại, thì quá khứ, thì
tương lai của động từ thuộc vào ý nghĩa tự thân.
Ý nghĩa thường trực và không thường trực (lâm thời)
ý nghĩa thường trực là laoij ý nghĩa ngư pháp luôn đi kèm ý nghĩa từ vựng, có mặt
trong mọi dạng thức của đơn vị

Vd: ý nghĩa chỉ “ sự vật” của danh từ trong các ngôn ngư

Ý nghĩa lâm thời là loại ý nghĩa chỉ thể hiện ở một số dạng thức nhất định của đơn vị.
Ví dụ: Ý nghĩa "thời hiện tại, quá khứ, tương lai" của động từ. Ý nghĩa "số ít, số
nhiều" của danh từ, v.v.

II. PHƯƠNG THỨC NGỮ PHÁP (Grammatical manner)
phương thức ngư pháp là cách thức chung nhất để biểu hiện ý nghĩa ngư pháp.
Vd: trong tiếng Anh dung các phương tiện ngư pháp có hình thức chư viết là s/es để
biểu thị ý nghĩa ngư pháp số nhiều, ed biểu thị ý ghĩa ngư pháp là quá khứ.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

2. Các phương thức ngư pháp phổ biến
2. 1. Phương thức phụ tố (affixation)
Phương thức phụ tố là phương thức dùng phụ tố để biểu thị ý nghĩa ngư pháp.
Ví dụ:
Books, hands, wives, lookers on, v.v.
Ngôi thứ 3 số ít
gets up
S là một phụ tố
Nhưng không thể hiện số nhiều như trong danh từ
- He gets up at 7 a.m every morning.
Lưu ý: Trường hợp này hoàn toàn khác trường hợp phụ tố cấu tạo từ. Phụ tố cấu tạo từ
là dùng phụ tố để tạo ra từ mới với nghĩa mới.
- Có thể mang nghĩa người làm (sau động từ).
Ví dụ: Teacher , worker , singer , v.v.
- Có thể mang nghĩa trừu tượng (sau danh từ).
Ví dụ: neighborhood , childhood , friendship
- Có thể mang nghĩa:đầy đủ, nhiều (sau danh từ).
Ví dụ: hopeful , beautiful , v.v.

Trường hợp "s" trong cách sở hưu không phải phương thức phụ tố, mà nó được xem
là một hư tư.
Ví dụ: The king`s hat, "s" là một hư từ chứ không phải là phụ tố vì ta có thể chen
thêm một vài từ giưa "king" và "s".
Chẳng hạn: The king of England`s hat.
- It is raining now.
- He is always asking questions.
2. 2. Phương thức biến dạng chính tố (infixation)
Phương thức biến dạng chính tố là phương thức biến đổi một phần hình thức ngư âm
của chính tố để biểu hiện ý nghĩa ngư pháp.
Ví dụ: tooth ->teeth
tooth -> danh từ số nhiều
- I ask the dentist to pull out my bad teeth.
- Goose-> geese
- Man> men
- Woman> women
- Mouse > mise
- Ox> oxen
2. 3. Phương thức thay chính tố
Phương thức thay chính tố là phương thức biến đổi hoàn toàn hình thức ngư âm của
chính tố để biểu hiện ý nghĩa ngư pháp.


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Ví dụ: (To)be "là, nguyên thể"
am "là, ngôi thứ nhất, số ít, thì hiện tại"
was "số ít, thì quá khứ"
were "số nhiều, thì quá khứ".
- (To)go "đi, nguyên thể"

goes "đi, ngôi thứ 3, số ít, thì hiện tại"
went "đi, thì quá khứ"
Hoặc trong so sánh hơn, so sánh nhất của tính từ bất quy tắc
Good>better> the best
Little > less> the least
Much/many> more> the most
Hoặc trong so sánh hơn, so sánh nhất của trạng từ bất quy tắc
Well >better> the best
Far>further>the furthest
2. 4. Phương thức trọng âm
Phương thức trọng âm là phương thức dùng trọng âm để phân biệt các ý nghĩa ngư
pháp.
Ví dụ: ímport (sự nhập khẩu - danh từ)
impórt (nhập khẩu - động từ)
íncrease (tăng lên - danh từ)
incréase (tăng lên - động từ)
2. 5. Phương thức lặp
Phương thức lặp là phương thức dùng phép lặp để biểu thị sự thay đổi ý nghĩa ngư
pháp.
Ví dụ: nhà (số ít) -----> nhà nhà (số nhiều)
đêm (số ít)-----> đêm đêm (số nhiều)
2.6. Phương thức hư từ
Phương thức hư từ là phương thức dùng hư từ để thể hiện ý nghĩa ngư pháp.
Ví dụ: nhưng sinh viên, đã đi, sẽ về nhà.
2.7. Phương thức trật tự từ
Phương thức trật tự từ là phương thức sử dụng cách sắp xếp vị trí của các từ trong câu
để thể hiện ý nghĩa ngư pháp.
Ví dụ: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều.
V


c

trạng ngư

8. Phương thức ngư điệu
Ngư điệu được xem là một phương thức ngư pháp khi người ta sử dụng nó để biểu thị
các ý nghĩa tình thái của câu.
Ví dụ: But I`m a worker, I am not a teacher. Are you drunk?


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Câu 9: Các ngôn ngữ đơn lập
Phân loại ngôn ngữ theo loại hình
Cơ sở phân loại
Phân loại các ngôn ngư theo quan hệ loại hình là cách phân loại ngôn ngư theo cấu
trúc và chức năng của chúng. Kết quả phân loại cho ta nhưng loại hình ngôn
ngư. Loại hình ngôn ngữ không phải là một ngôn ngư cụ thể nào, cũng không phải
là một tổng hoặc một tập các ngôn ngư. Loại hình ngôn ngư là tổng thể của nhưng
đặc điểm hoặc thuộc tính về cấu trúc và chức năng vốn có của các ngôn ngư thuộc
nhóm đó, phân biệt nhóm đó với các nhóm ngôn ngư khác. Trong mỗi ngôn ngư có
thể thấy ba nhóm thuộc tính:thuộc tính phổ quát, tức là thuộc tính chung, vốn có
đối với tất cả các ngôn ngư thế giới,thuộc tính riêng biệt là thuộc tính chỉ có ở
ngôn ngư đó, thuộc tính loại hình là thuộc tính đặc trưng cho từng nhóm ngôn ngư
nhất định. Thuộc tính loại hình được dùng làm tiêu chuẩn để quy định vị trí của
một ngôn ngư nao đó trong khi phân loại.
Phương pháp so sánh loại hình
Nếu phương pháp so sánh–lịch sử hướng vào sự phát triển lịch sử của các ngôn
ngư thân thuộc thì phương pháp so sánh–loại hình lại hướng vào hiện tại, vào hoạt
động của kết cấu ngôn ngư. Nhiệm vụ trung tâm của phương pháp so sánh này là

tìm hiểu nhưng cái giống nhau và khác nhau trong kết cấu của hai hoặc nhiều ngôn
ngư. Khi so sánh, người ta có thể xuất phát từ các mặt khác nhau của ngôn ngư như
ngư âm, từ vựng và ngư pháp. Nhưng sự so sánh các cấu trúc ngư pháp có ý nghĩa
to lớn nhất, bởi vì cấu trúc ngư pháp và vốn từ cơ bản là cơ sở của các ngôn ngư,
tạo nên tính tiêng biệt của chúng. Ngư pháp lại bao gồm từ pháp và cú pháp.
Nhưng đặc điểm về cú pháp không bao giờ biểu hiện một cách độc lập với nhưng
đặc điểm về từ pháp. Cho nên trong so sánh loại hình, cấu trúc từ pháp có tầm
quan trọng đặc biệt. Bằng cách so sánh như vậy, người ta có thể rút ra đâu là
nhưng thuộc tính phổ quát (còn được gọi là nhưng phổ niệm ngôn ngư), đâu là
nhưng thuộc tính riêng biệt và đâu là nhưng thuộc tính loại hình. Căn cứ vào
nhưng thuộc tính loại hình người ta chia các ngôn ngư thế giới thành các nhóm loại
hình khác nhau.

Tiêu biểu cho loại hình này là tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Thái, các tiếng MonKhmer, v.v... Đặc điểm chính của loại hình này là:
- Từ không biến đổi hình thái. Hình thái của từ tự nó không chỉ ra mối quan hệ
giưa các từ ở trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của các từ. Qua hình thái,


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

tất cả các từ dường như không có quan hệ với nhau, chúng thường đứng ở trong
câu tương tự như đứng biệt lập một mình. Chính xuất phát từ đặc điểm này mà
người ta gọi loại hình này là "đơn lập".
- Quan hệ ngư pháp và ý nghĩa ngư pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ và trật
tự từ. Ví dụ:
Dùng hư tư:

cuốn vở – những cuốn vở
đọc


– sẽ đọc
đã đọc
đang đọc

Dùng trật tự tư: cửa trước – trước cửa
cá nước – nước cá
nhà nước – nước nhà
- Tính phân tiết. Trong các ngôn ngư này, các từ đơn tiết làm thành hạt nhân cơ
bản của từ vựng. Phần lớn nhưng đơn vị được gọi là từ ghép, từ phái sinh được cấu
tạo từ các từ đơn tiết này. Vì thế, ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh giới
các hình vị, hình vị không phân biệt với từ và do đó ranh giới giưa đơn vị gọi là từ
ghép và cụm từ cũng khó phân biệt.
- Nhưng từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động... không phân biệt với nhau
về mặt cấu trúc. Tất cả đều được diễn đạt bằng các từ không biến đổi. Ví
dụ: cưa "dụng cụ để xẻ gỗ" và cưa "hành động xẻ gỗ". Chính vì vậy, một số nhà
ngôn ngư học cho rằng trong các ngôn ngư đơn lập không có cái gọi là "các từ
loại".

Bài tập
Có 3 dạng bài tập là:
1: Xác định các nhân tố giao tiếp


Ketnooi.com vì sự nghiệp giáo dục

Các nhân tố giao tiếp: Nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp( hẹp và rộng), muc
đích giao tiếp(chính, phụ ), nội dung giao tiếp, phương tiện giao tiếp.
2.Xác định phương thức cấu tạo từ phân loại theo cấu tạo: Phương thức từ hóa hình
vị, phương thức ghép, phương thức láy.
3. Xác định từ loại: Từ đơn, từ phái sinh, từ phức ( từ láy, từ ghép).



×