Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập tình huống môn trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.26 KB, 16 trang )

1
Lời mở đầu:
Như các bạn cũng đã biết hiện nay tại Việt Nam, khi cần giải quyết các tranh chấp trong kinh
doanh và cần dùng đến các quy định của pháp luật thì có 2 hình thức đó là Tố Tụng Tòa Án và
Tố tụng bằng TTTM. Trong đó hình thức tố tụng bằng TTTM đã tồn tại ở VN hơn 50 năm nhung
trên thực tế, có chưa đến 1% các vụ việc tranh chấp thương mại được sử dụng hình thức tố tụng
trọng tài, trong khi hơn 99% còn lại thường được áp dụng theo PP Tố tụng tòa án. Vậy câu hỏi
đặt ra là có điều gì bất cập và khác biệt giữa 2 PP tố tụng này??? Tố tụng Tòa Án thì nhóm thuyết
trình trước đã trình bày cho các bạn, thì bây giờ nhóm 6 xin được trình bày về Tố tụng TTTM ở
VN để cho các bạn có 1 bức tranh sơ bộ về TTTM, từ đó chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng thể
hơn để so sánh với Tố tụng Tòa Án.
Nội dung:
Bài thuyết trình của nhóm gồm có 5 phần được trình bày theo mô hình quy trình của 1 trường
hợp tố tụng bằng TTTM từ đầu đến cuối bao gồm……………………………………. Qua
đónhóm mình sẽ phân tích những nguyên nhân của thực tế trên, trong đó chú trọng tới các quy
định pháp luật về trọng tài thương mại
1.
Lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Ở phần này chúng ta sẽ tìm hiểu các câu hỏi về các hình thức TTTM, phí, điều kiện để
chọn TTV, điều kiện thỏa thuận trọng tài độc lập.
1.1
(TUẤN ANH)Các yếu tố 2 bên tranh chấp xem xét:
Bài làm:
a.
Hình thức của Trọng tài TM:
Việc đầu tiên mà các bên phải thống nhất là hình thức trọng tài được lựa chọn.Các
bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận sử dụng (i) trọng tài vụ việc (ad hoc)
hoặc (ii) trọng tài định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế).
Có 2 hình thức:
Trọng tài vụ việc:
Trọng tài quy chế


Được hiểu là trọng tài hình thức trọng tài được Là trọng tài được thành lập có 1 tổ chức riêng,
lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải có turng tâm riêng, hoặc hiệp hội. Ở VN có các
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể
TTTT như: VIAC,
khi tranh chấp đó đã được giải quyết.
Được lập ra theo yêu cầu của các đương sự
Được thành lập dưới dạng các trung tâm, tổ
chức hoặc hiệp hội
Quy tắc tố tụng được thỏa thuận, Quyền tự
Quy tắc tố tụng trọng tài riêng, một số có Danh
định đoạt của các bên là rất lớn (đây cũng là
sách trọng tài viên riêng
nhược điểm lớn nhất vì dễ bị trì hoãn)
Chi phí thấp và thời gian giải quyết nhanh
Tốn kém nhiều chi phí, quá trình tố tụng bị
kéo dài
Phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên Không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia
vào quá trình tố tụng trọng tài hay không.

-

b.
Phí trọng tài:
Biểu phí trọng tài:
Tổng phí trọng tài (từ ngày 24/03/2014)


2
100.000.000 trở xuống
100.000.001

1.000.000.000

đến

1.000.000.001
5.000.000.000

đến

5.000.000.001
10.000.000.000

đến

10.000.000.001
50.000.000.000

đến

50.000.000.001
100.000.000.000

đến

100.000.000.001
500.000.000.000

đến

15.000.000

15.000.000

+ 7% số tiền vượt quá
100.000.000

78.000.000

+ 4,0% số tiền vượt quá
1.000.000.000

238.000.000

+ 2,5% số tiền vượt quá
5.000.000.000

363.000.000

+ 1,5% số tiền vượt quá
10.000.000.000

963.000.000

+ 1,0% số tiền vượt quá
50.000.000.000
+ 0,4% số tiền vượt quá
100.000.000.000

1.463.000.000
3.063.000.000
+

0,1% số tiền vượt
quá
500.000.000.001 trở lên 500.000.000.000
-

(Nguồn: VIAC)
Phí tòa án:

GIÁ TRỊ TRANH CHẤP KINH TẾ

MỨC ÁN PHÍ

Từ

2.000.000 đồng

40.000.000 đồng trở xuống

Từ trên 40.000.000 đồng đến
400.000.000 đồng

5% của giá trị tranh chấp

Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000
đồng

20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tranh chấp vượt
quá 400.000.000 đồng

Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000

đồng

36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tranh chấp vượt
quá 800.000.000 đồng


3

Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tranh chấp vượt
đồng
quá 2.000.000.000 đồng
Từ trên 4.000.000.000 đồng

112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp
vượt quá 4.000.000.000 đồng.
(Nguồn: văn bản pháp luật)

Ví dụ:
Mức phí của việc giải quyết tranh chấp:
Trị giá vụ tranh chấp
Tòa án
300.000.000
5%*300tr=15tr
500.000.000
20+4%*100=24tr
900.000.000
36+3%*100=39tr
1.500.000.000
36+3%*700=57tr
2.500..000.000

72+2%*500=82tr

-

Trọng tài thương mại
15+7%*200=29tr
15+7%*400=43tr
15+7%*800=71tr
78+4%*500=98tr
78+4%*1.500=138tr

 Nhận xét: Ta thấy mức phí của trọng tài thương mại luôn cao hơn (khoảng gấp 2
lần) so với mức phí của tòa án. Trong khi ở VN chủ yếu là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thì chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài là
khácao.
c.
Tiêu chuẩn trọng tài viên: theo điều 20, luật TTTM:
Đầy đủnăng lực hành vi dân sự;
Trình độ đại học và kinh nghiệm tối thiểu 5 năm; hoặc là chuyên gia có trình độ
chuyên môn trong một số trường hợp đặc biệt và có tính chất chuyên sự.
Thực tế VN:
+ Kinh nghiệm TTV:
30% trọng tài viên chưa từng giải quyết tranh chấp;
67,1% từng giải quyết dưới 10 vụ;
2,9% là đã giải quyết trên 10 vụ tranh chấp.
+ Chất lượng TTV chưa cao ( Khảo sát từ một số DN:
72,6% ý kiến: thiếu kỹ năng giải quyết tranh chấp;
65% ý kiến: thiếu số lượng trọng tài viên;
51,1% ý kiến: TTV viên thiếu kinh nghiệm,
44,7% cho rằng trọng tài viên thiếu trình độ chuyên môn

(TUẤN) Về phía trọng tài: (điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài)

Khi nhận được đơn khiếu nại từ nguyên đơn, trung tâm trọng tài hay trọng tài viên cần
xem xét nhiều yếu tố để quyết định xem có thụ lý khiếu nại hay không. Nếu không đảm
bảo đầy đủ các yếu tố trọng tài viên sẽ hoàn trả hồ sơ vụ kiện lại nguyên đơn. Các yếu tố
gồm có: Thẩm quyền trọng tài, chủ thể tranh chấp, điều kiện thỏa thuận trọng tài có hiệu
lực và tính độc lập của trọng tài.
a.
Thẩm quyền:


4

Theo Điều 2 của Luật TTTM: :
chấp

-

Tranh

-

từ hoạt động
Tranh chấp
đó

trong
động

hạn

tổ

nhất

bên

phát

vi



một

sinh

các

bên

bên
hoạt



(Luật không có giới

mại;

phạm


chức,

các

thương mại;
phát sinh giữa

ít

thương

về

giữa

chủ

thể

bất

nhân

chấp.

tranh

kỳ


đều



thể

thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải
quyết

tranh

tranh

chấp

thương

mại

lệnh


tổ

kinh

trọng

chấp
phát


trong
tài

chức
doanh

miễn
sinh

khi

kinh
mới

vực

hoạt
theo

mại

doanh


từ

đó,

thương


lĩnh



Pháp

2003,

hoặc

quyền

động
chỉ



nhân

lựa

chọn

trọng tài.)
Tranh chấp khác giữa các bên mà
pháp luật quy
định
được giải quyết
bằng trọng tài.

Đặc điểm:
- Mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thêm tranh chấp (có một bên
không có hoạt động thương mại và tranh chấp giải quyết bằng trọng tài theo
luật định).
- Khắc phục một số hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003,tăng thêm
sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật thương mại, Luật đầu tư và luật chuyên ngành.
- Ở VN thì TT chỉ tham gia vào lĩnh vực thương mại, trong khi ở một số các
nước khác thì Trọng tài vẫn tham gia giải quyết các lĩnh vực khác. Ví dụ:
Luật TT của Brazil: TT giải quyết tranh chấp về các quyền tài sản;
Của Trung Quốc thì TT giải quyết các tranh chấp liên quan đến mọi hợp đồng
hoặc quyền sở hữu.
Thụy Sĩ thì TT giải quyết mọi hợp đồng.
1. Tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp
VD: tranh chấp đất đai giữa người dân và doanh nghiệp có thỏa thuận trọng tài
nhưng người dân lại kiện ra tòa án thay vì kiện ra trọng tài
-


5

Theo điều 16 luật trọng tài thương mại thì người tiêu dùng có quyền kiện ra tòa
án hay trọng tài thương mại kể cả khi thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
2. Tranh chấp không có yếu tố người tiêu dùng
Khi kiện ra tòa án nếu không có yếu tố xét tính hợp pháp của thỏa thuận trọng
tài thì tòa án sẽ trả lại đơn cho nguyên đơn, nếu có xét tính hợp pháp và giải
quyết tranh chấp thì tòa án sẽ thụ lý đơn kiện.
3. Tranh chấp khi vừa có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực vừa có thỏa thuận
tòa án
Theo dự thảo hướng dẫn thi hành Luật TTTM năm 2013: 2.1 thì:

Trường hợp giữa các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng
tài, vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì khi phát sinh tranh
chấp một hoặc các bên tranh chấp được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án
để giải quyết tranh chấp.
a) Trường hợp một hoặc các bên tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp trước khi yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét thụ
lý, giải quyết theo thủ tục chung.
b) Trường hợp một hoặc các bên tranh chấp yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh
chấp trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết hoặc vừa yêu cầu Trọng tài vừa yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp cùng một thời điểm thì Tòa án căn cứ quy
định tại Điều 6 Luật TTTM để từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường hợp này,
khi nhận được đơn yêu cầu của các bên, Tòa án xử lý theo quy định tại khoản 2
Điều này.
Điều kiện thỏa thuận trọng tài có hiệu lực
Để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực
cần có đủ các điều kiện sau:

b.

Về mặt đối tượng: Phải đúng đối tượngtheo quy địnhtheo điều 2 Luật TTTM.
Về mặt chủ thể:người xác lập thỏa thuận trọng tài phải có năng lực chủ thể.
Về mặt chủ quan: một thỏa thuận thì trước hết là các bên phải có sự thống nhất
về ý chí. (Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi một trong các bên bị lừa dối, đđe
dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận và có yêu cầu tuyên bố vô
hiệu).
- Về mặt nội dung: thỏa thuận trọng tài không được vi phạm điều cấm của pháp
luật.
- Về mặt hình thức: thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản.
( hoặc:telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định pháp
luật; Qua trao đổi thông tin bằng văn bản;Được luật sư, công chứng viên, hoặc tổ

chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bảng theo yêu cầu của các bên;Dẫn
chiếuhợp đồng, chứng từ…;)
-


6
c. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài:
Tại Điều 19 luật TTTT: Tính độc lập của thoả thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng.Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp
đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả
thuận trọng tài.”

(Nếu thỏa thuận trọng tài được thành lập là một điều khoản trong hợp đồng giữa
các bên thì việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không
thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài)
2.
(VINH, THANH)Khởi kiện
Concept:
- Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp (trái điều cấm và đạo đức xã hội???)
- Luật pháp áp dụng
- Thời hiệu khởi kiện
- Tính độc lập của thỏa
- Thủ tục tố tụng trọng tài (có thể ví dụ= VIAC)
 Bài làm:
a. Điều 4 Luật TTTT có quy định:
 Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
 Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
 Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách
nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

 Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
 Phán quyết trọng tài là chung thẩm.
(Nguyên tắc cốt lõi: nguyên tắc tự nguyên, là do ý chí tự nguyện của các bên đương
sự và trong quá trình tố tụng. Các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa chọn các hình
thức trọng tài mà họ cho là phù hợp trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ
thể, không có sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Điều này
có nghĩa là : sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của
đương sự. Đây là điều mà trong tố tụng tòa án không có.)
b. Luật áp dụng
Tại Điều 14 Luật TTTT có quy định: Luật áp dụng giải quyết tranh chấp:


7
 Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp
luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
 Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do
các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng
trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
 Trường hợp không có quy định cụ thể thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập
quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp
dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
c. Thời hiệu khởi kiện
Tại Điều 33 luật TTTT có quy định: Thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài
Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục
trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
e. Quy trình tố tụng:



8

(nguồn: Quy trình tố tụng TT cùa VIAC)
3.

(SƠN)Phán quyết trọng tài:Nguyên tắc ra phán quyết

- Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
- Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý
kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Phán quyết trọng tài được ban hành ngay tại phiên họp hoặc chậm nhất là 30 ngày, kể từ
ngày kết thúc phiên họp cuối cùng.
Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Đọc thêm: Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm có nghĩa sẽ không bị thay đổi và
có giá trị bắt buộc thi hành. Không giống như Tòa án là nếu không đồng ý với bản án sơ
thẩm, bạn có thể kháng cáo lên Tòa phúc thẩm. Đối với trọng tài một khi phán quyết
trọng tài được đưa ra thì hai bên bắt buộc phải chấp hành.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ
căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi


9
Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài là có căn cứ và hợp pháp.
Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự
nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài, bên được thi hành phán
quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi
hành phán quyết trọng tài.)

4.
(QUANG)Thi hành phán quyết trọng tài
- Nguyên tắc: Theo điều 65 Luật TTTM thì Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện
-

thi hành phán quyết trọng tài.
Quyền yêu cầu thi hành án:Điều 66 luật TTTM:
+ Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không
tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại
Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu
cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
+ Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu
cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi

5.

phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật này.
Luật căn cứ:Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự (Điều 67).
(YẾN, TÙNG)Hủy phán quyết trọng tài:

Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được sự hỗ trợ tích cực của tòa án để quá
trình giải quyết tranh chấp được thực hiện hiệu quả hơn từ giai đoạn chỉ định trọng tài viên để
thành lập hội đồng trọng tài, thay đổi trọng tài viên; khiếu nại quyết định của hội đồng trọng tài
về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được tới việc thu thập
chứng cứ, triệu tập người làm chứng, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài. Tuy nhiên, việc tòa án tuyên hủy quyết định của trọng tài trong nước; Quyết định
trọng tài nước ngoài chưa được công nhận cho thi hành đầy đủ tại Việt Namlà một trong những
nguyên nhân quan trọng làm giảm sút hấp dẫn, uy tín, hiệu quả của hoạt động trọng tài
Thực trạng:

Luật Trọng tài năm 2010 đã hoàn thiện một bước đáng kể về thủ tục tố tụng trọng tài so
với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, giúp cho việc xét xử của trọng tài được khách


10
quan, vô tư và chính xác hơn. Bên cạnh đó, sau 20 năm tồn tại của hệ thống trọng tài, trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm xét xử của đội ngũ trọng tài viên cũng đã được nâng lên đáng kể.Do
vậy, về mặt lý thuyết, chất lượng xét xử trọng tài đang ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên trên
thực tế số lượng phán quyết trọng tài bị hủy lại gia tăng so với trước đây.
(Luật sư Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký VIAC) giai đoạn 2003 -2013, số vụ tranh chấp có
đơn yêu cầu hủy là 12%, số phán quyết trọng tài bị hủy là 34%. Đáng lưu ý là trong giai đoạn
chưa có Luật Trọng tài thương mại, số phán quyết bị hủy chỉ có 25%, nhưng khi có Luật con số
này lên tới 36%
Điều 68 Luật TTTM: Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài
a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận
của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết
trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là
giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm
ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Note: Số lượng các căn cứ để huỷ quyết định trọng tài (Điều 68) về huỷ quyết định trọng
tài trong pháp luật Việt Nam là không nhiều (5 căn cứ). Nhưng thực tế các lý do để huỷ quyết
định trọng tài theo pháp luật Việt Nam là rất rộng, do rất nhiều điều khoản khác đã được dẫn
chiếu đến từ bản thân những căn cứ chính nêu trên.
a.

“Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu”:

Điều 44 luật TTTM
Luật đã quy định bị đơn có quyền khiếu nại quyết định của hội đồng trọng tài về việc

không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nhưng hầu hết chỉ khi thua kiện thì bị đơn mới
đưa ra yêu cầu đối với tòa án để hủy phán quyết trọng tài.
Việc xác định có hay không có thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp đôi khi rất khó


11
-

Ví dụ: Vụ việc thứ hai lại đặt ra vấn đề thỏa thuận trọng tài tồn tại hay không tồn tại. Cụ thể,
Công ty Thiên Nga soạn bản hợp đồng số 18 ngày 5/10/2010, scan chữ ký của ông Vui và dấu
của Công ty Hà Nội vào bản thảo hợp đồng và gửi qua email bản hợp đồng này cho National
Rubber. Công ty Thiên Nga cũng gửi qua email cho Công ty Hà Nội bản dự thảo hợp đồng số 18
nhưng không có chữ ký của ông Vui và dấu của Công ty Hà Nội. Ở đây, hợp đồng số 18 được
xác lập thông qua Công ty Thiên Nga nhưng chủ thể nêu trong hợp đồng là Công ty Hà Nội và
National Rubber. Sau đó, giữa National Rubber và Công ty Hà Nội có tranh chấp và National
Rubber dựa vào Hợp đồng số 18 để khởi kiện Công ty Hà Nội tại trọng tài. Tuy nhiên, phía Công
ty Hà Nội đã cho rằng “không ký Hợp đồng số 18 nên không ký thỏa thuận chọn Trung tâm

-

trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết tranh chấp”.
Tòa án đã hủy phán quyết trọng tài trên với lý do không có thỏa thuận trọng tài.
“Thực tế, Công ty Hà Nội xác nhận họ có mua bán cao su với National Rubber nhưng mua bán
theo L/C chứ không có hợp đồng”. Thông thường, L/C viện dẫn đến một hợp đồng nào đó chứ
L/C không tồn tại độc lập. Nếu L/C mà tòa án đã nêu trên viện dẫn đến Hợp đồng số 18 thì cần
theo hướng Công ty Hà Nội chấp nhận thỏa thuận trọng tài trong Hợp đồng 18 (tức tồn tại thỏa

thuận trọng tài ràng buộc Công ty Hà Nội cho dù Công ty Hà Nội không trực tiếp ký thỏa thuận
trọng tài) và hướng giải quyết này đã được thể hiện rõ tại khoản 1 và điểm d khoản 2 Điều 18
Luật Trọng tài : “Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài
trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng" và "Các hình thức thỏa thuận sau đây
cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản: Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn
bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu

-

tương tự khác".
(trong vụ việc xử lý tranh chấp giữa Công ty Bình Định và công ty Nước và Môi trường. Công ty
Bình Định đã yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với nhiều lý do, trong đó có lý do “không có thỏa
thuận trọng tài”.
Công ty Bình Định cho rằng, từ sau khi UBND tỉnh Bình Định ra quyết định thành lập
BQLDA, thì BQLDA đã trực tiếp ký hợp đồng và thỏa thuận trọng tài với Công ty Nước và Môi
trường, chứ công ty Bình Định không trực tiếp ký thỏa thuận trọng tài với công ty Nước và Môi
trường. Tòa án đã không chấp nhận hủy phán quyết trọng tài trên cơ sở “không có thỏa thuận
trọng tài” là chấp nhận được trong vụ việc này. Do trên thực tế, trong các hợp đồng, BQLDA
đã thể hiện tư cách là “Bên mời thầu” và “Đại diện chủ đầu tư”. Ở đây, bên mời thầu và chủ
đầu tư cũng là công ty Bình Định. Điều đó có nghĩa là BQLDA đã ký hợp đồng và xác lập thỏa


12
thuận trọng tài với tư cách là đại diện của công ty Bình Định. Do đó, chiếu theo Điều 145,146
của Bộ luật dân sự, có thể kết luận rằng thỏa thuận trọng tài do BQLDA ký đã ràng buộc công
ty Bình Định.
Tuy nhiên, nếu BQLDA ký hợp đồng và xác lập thỏa thuận trọng tài với tư cách cá nhân
độc lập, do đó thỏa thuận trọng tài chỉ tồn tại đối với BQLDA (không ràng buộc chủ đầu tư là
công ty Bình Định).)
b. Do thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc

trái với quy định của luật này
VD1: Có nhiều trường hợp, một trong các bên không đồng ý với phán quyết của trọng tài
và kiện Tòa án để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chỉ vì Trọng tài đã không thực hiện đúng thủ
tục tố tụng trọng tài như trong luật này qui định. Chẳng hạn, Công ty S. (Mỹ) yêu cầu tòa hủy
phán quyết của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng với
Công ty C. (Việt Nam). Lý do Công ty S. đưa ra là không được trọng tài tống đạt các tài liệu tố
tụng (do trọng tài gửi tài liệu cho công ty theo địa chỉ ghi trong hợp đồng trong khi công ty đã
thay đổi địa chỉ), công ty S. đã không nhận được tài liệu, thông báo của Trung tâm trọng tài về
vụ kiện này.
VD3: Có trường hợp hội đồng trọng tài gửi thông báo mời các bên đến dự phiên họp giải
quyết tranh chấp, nêu rõ thời gian, địa điểm tổ chức phiên họp, được gửi hợp lệ đến các bên
tranh chấp và các bên đã có mặt đầy đủ. Nhưng sau đó tòa lại tuyên hủy phán quyết trọng tài với
lý do thông báo của hội đồng trọng tài không ghi chữ “triệu tập” mà chỉ ghi là “mời”.
VD4: Hội đồng Trọng tài không triệu tập người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vì quá
trình tố tụng trọng tài chỉ ràng buộc đối với các bên ký thoả thuận trọng tài. Trọng tố tụng trọng
tài không có khái niệm người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như trong tố tụng Toà án.Vì
vậy, Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thế nhưng PQTT bị hủy với lý do Hội đồng trọng tài đã không triệu tập người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan
c. hội đồng trọng tài không khách quan, chứng cứ giả mạo:
Vụ việc xoay quanh việc tranh chấp xây dựng và nộp đơn năm 2010, phán quyết trọng tài
kết luật hai bên bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận, tuy nhiên bị đơn thua kiện, yêu cầu hủy
phán quyết. Theo Quyết định 07/2012/QĐST-TTTM, nguyên tắc cơ bản là phải tuân thủ pháp
luật (Điều 11 Bộ luật Dân sự) và bồi thường thiệt hại (Điều 303-304 Luật Thương mại). Theo
quyết định trên, chúng ta sẽ nhận ra hội đồng trọng tài không khách quan khi Tòa án tự xem xét


13
phán quyết và nhận định mà không xem có khách quan không?.Ngoài ra trong vụ này, Tòa tự kết
luận mà không cần xem chứng cứ đó có giả mạo không, và có quan trọng không.Bên cạnh đó,

thủ tục trọng tài trái với Luật Trọng tài thương mại vì không đưa vào bên có quyền và nghĩa vụ
liên quan? Không có thỏa thuận trọng tài do bị đơn không trực tiếp ký hợp đồng?…

Luật TTTM quy định tòa án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng
tài đã giair quyết tuy nhiên trong thực tế tòa án có quyền nhận định cả nội dung vụ việc, thậm chí
nhận xét cả bằng chứng mà không đưa ra căn cứ thuyết phục.
d.

Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN

- Có nhiều trường hợp, một trong các bên viện dẫn nội dung của phán quyết trọng tài trái với quy
định của Bộ luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư, luật kinh doanh bất động sản…để cho
-

rằng các phán quyết này trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN.
Như thế nào là “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN”? Thông thường, Tòa án cần
phải xác định xem phán quyết trọng tài có trái với qui định của pháp luật VN hay không. Nếu
thấy phán quyết trọng tài trái với một quy định nào đó của pháp luật VN thì Tòa sẽ tiếp tục xem
xét qui định này có được coi là nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN hay không. Việc này rất khó
khăn vì cho đến nay chưa có hướng dẫn thống nhất của TAND Tối cao để xác định trường hợp
nào được coi là “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
VD: Việc áp dụng luật “mỗi nơi một kiểu”
Điều 81 Luật Trọng tài thương mại 2010, đối với các thoả thuận trọng tài ký trước ngày
luật có hiệu lực thì áp dụng pháp luật tại thời điểm ký thoả thuận trọng tài. Tuân thủ quy định
này, Hội đồng Trọng tài đã áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đối với các vụ kiện có
thoả thuận trọng tài ký trước ngày Luật Trọng tài có hiệu lực. Tuy nhiên, Toà đã tuyên huỷ PQTT
này với lý do Hội đồng Trọng tài không áp dụng các quy định của Luật Trọng tài thương mại
2010 vì Phán quyết được tuyên tại thời điểm Luật Trọng tài thương mại 2010 đã có hiệu lực.
(Theo Pháp Luật Việt Nam)
Kết luận:

Việc áp dụng pháp luật có sự khác nhau về cùng một vấn đề giữa hội đồng xét đơn trong
cùng một Tòa án và giữa các Tòa án.


14
Phạm vi hủy còn nặng yếu tố hình thức trong khi các vấn đề mang tính bản chất thì chưa
được thể hiện rõ
Tình trạng huỷ PQTT với những căn cứ không xác đáng
=>đang làm vô hiệu hoá phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và làm giảm uy
tín của hệ thống Toà án Việt Nam trong con mắt của các doanh nghiệp nhất là các nhà đầu tư
nước ngoài.
Đặc biệt, theo quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật TTTM thì quyết định hủy hoặc không
hủy phán quyết trọng tài của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Do đó,
đương sự, Hội đồng trọng tài không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc khiếu nại,
kiến nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tái thẩm đối với phán quyết của Tòa án.
Ngoài vấn đề hủy phán quyết trọng tài, việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam còn những hạn chế như thời gian chậm trễ kéo dài, áp đặt ngược lại
nghĩa vụ chứng minh, cơ sở pháp lý để từ chối công nhận đơn yêu cầu không tuân thủ đúng
Công ước NewYork và Bộ Luật tố tụng dân sự của Việt Nam.
Việt Nam đã tham gia Công ước New York từ năm 1995. Công ước có quy định bên phản
đối việc thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài phải chứng minh với tòa án có thẩm quyền
rằng quyết định của trọng tài thuộc vào một trong các trường hợp không được công nhận bởi tòa
án. Tuy nhiên, khi xây dựng BLTTDS năm 2004, các nhà làm luật lại không quy định nghĩa vụ
chứng minh các trường hợp không công nhận quyết định của trọng tài nước ngoài thuộc về bên
phản đối thi hành như Công ước New York.
Bởi thiếu sót này mà một số thẩm phán cho rằng bên yêu cầu công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài có nghĩa vụ phải chứng minh quyết định đó không rơi vào
các trường hợp không được công nhận theo BLTTDS. Nếu họ không chứng minh được thì tòa
bác yêu cầu.Xuất phát từ cách hiểu đó mà một số quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị từ
chối công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.


 QD 69/2013/QDPT-KDTM
–Wisdom v. Hào Hưng – không công nhận PQTT HKIAC
–Không triệu tập hợp pháp (Điều 370.1.c BLTTDS)
 QD 127/2013/QDKDTM-PT
–Minermet SA v. Intimex – không công nhận PQTT SIAC


15
–Không có năng lực ký hợp đồng, không được thông báo thích đáng về tố tụng trọng tài
–Tòa sơ thẩm công nhận QDTT
–Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa án sơ thẩm.
Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Intimex (TP.HCM) ủy quyền cho chi nhánh tại Hà Nội ký
hợp đồng kinh doanh.Ngày 12-1-2011, chi nhánh này ký hợp đồng mua bán với Công ty Minermet
SA (Thụy Sĩ).
Sau đó có tranh chấp, theo thỏa thuận, Minermet SA đã yêu cầu Trung tâm Trọng tài quốc tế
Singapore giải quyết. Sau khi có quyết định của trọng tài, Minermet SA yêu cầu TAND TP.HCM buộc
Intimex thi hành quyết định.
TAND TP nhận định Intimex không cung cấp chứng cứ chứng minh quyết định thuộc trường hợp
không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Vì vậy, yêu cầu của Minermet SA là có căn cứ
chấp nhận.
Intimex kháng cáo. Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã sửa án sơ thẩm, không công nhận
và cho thi hành quyết định của trọng tài tại Việt Nam. Theo tòa, Intimex chứ không phải Công ty Cổ
phần Xuất nhập khẩu Intimex - Chi nhánh Hà Nội là bị đơn.

Về quy trình của thủ tục công nhận và thi hành, ở Hồng Kông được tiến hành qua hai
bước: Người nộp đơn đơn phương (ex parte) nộp đơn lên tòa án (một thẩm phán và trên giấy) để
xin phép cho thi hành và yêu cầu thực hiện phán quyết; và bị đơn có thể nộp đơn yêu cầu hủy
phán quyết tại một phiên xét xử giữa các bên (inter partes) trong vòng 14 ngày.
Trong khi đó ở Việt Nam có tới 4 bước lần lượt là: Người nộp đơn gửi đơn yêu cầu lên Bộ Tư

pháp 7 ngày để chuyển hồ sơ cho tòa án có thẩm quyền; Tòa án có thẩm quyền có 2 tháng để
xem xét về việc có mở thủ tục xét đơn yêu cầu hay không; Nếu quyết định xét đơn yêu cầu, tòa
án phải mở phiên họp xét đơn trong vòng 20 ngày do hội đồng xét đơn yêu cầu gồm 3 thẩm
phán, Bị đơn được triệu tập tới phiên họp; Quyết định có thể được kháng cáo trong vòng 15 ngày
kể từ ngày ra quyết định.
Chính vấn đề hủy phán quyết trọng tài và việc không công nhận phán quyết trọng tài là
nguyên nhân quan trọng làm cho trọng tài thương mại ít được tin tưởng và lựa chọn khi có tranh
chấp xảy ra do chúng đã lấn át những ưu điểm của trọng tài thương mại như đề cao quyền lựa
chọn của các bên, xét xử không công khai, thời gian ngắn và phán quyết có giá trị chung thẩm.
Trải qua quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua quy trình tố tụng tốn kém
nhiều chi phí và thời gian mà lại phải chịu rủi ro phán quyết của trọng tài bị hủy để rồi phải bắt


16
đầu lại từ đầu thì thật sự khó khăn cho các bên tranh chấp khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh
chấp là trọng tài thương mại.
Ưu điểm
Không công khai
Tính chung thẩm
Thời gian ngắn

Nhược điểm
phí trọng tài cao.
các bên tranh chấp chưa thực sự tin tưởng
không phân định rõ thẩm quyền của trọng tài
và tòa án

Tính linh hoạt, Đề cao ý chỉ tự do thoả thuận Hủy phán quyết trọng tài

của các bên tranh chấp

không công nhận phán quyết trọng tài nước
ngoài ở Việt Nam
Quyền lực của tòa án
=>Nghị quyết hướng dẫn cụ thể về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Qua phân tích về hoạt động trọng tài thương mại thông qua các giai đoạn của quá trình
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài để thấy rõ các nguyên nhân của tình trạng các bên tranh chấp
không ưu thích sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại từ việc phí
trọng tài cao, các bên tranh chấp chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng của trọng tài viên, vai trò
của tòa án đến những bất cập của Luật trọng tài thương mại 2010 từ nội dung đến việc thực hiện
trong thực tế trong đó nổi bật là việc không phân định rõ thẩm quyền của trọng tài và tòa án, các
phán quyết trọng tài bị tòa án hủy nhiều hơn và việc không công nhận phán quyết trọng tài nước
ngoài ở Việt Nam đòi hỏi phải xây dựng 1 Nghị quyết hướng dẫn cụ thể về việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại. Đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao cần có bộ phận theo dõi việc
hủy phán quyết trọng tài để từ đó có sự áp dụng thống nhất trong Tòa án trên toàn quốc.



×