Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

nhu cầu công tác xã hội chuyên nghiệp với chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.64 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐỒNG THÁP
KHOA GIÁO DỤC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
ĐỀ TÀI

NHU CẦU CÔNG TÁC XÃ HỘI
CHUYÊN NGHIỆP VỚI
CHÍNH SÁCH BẢO ĐẢM XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:

NGÔ GIA THẾ

SINH VIÊN THỰC HIỆN:

LỚP:

PHẠM PHÚC KHÁNH

CÔNG TÁC XÃ HỘI 2005

ĐỒNG THÁP - 2007


MỤC LỤC
I. Dẫn nhập
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................trang 02
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................03
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................................03


4. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................04
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................04
6. Phương pháp nghiên cứu và giả thiết đề tài.....................................................04
II. Nội dung
1. Khái niệm về gia đình và giáo dục gia đình ....................................................05
2. Giáo dục con cái trong gia đình truyền thống..................................................07
3. Giáo dục con cái trong gia đình hiện đại..........................................................12
4. Những khác biệt trong giáo dục con cái của gia đình
truyền thống và gia đình hiện đại .....................................................................14
5. Những vấn đề cần quan tâm khi giáo dục
con cái trong xu thế mới....................................................................................16
III. Kết luận

2


DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Căn cứ theo tình hình của đất nước, Đảng đã đề ra quyết tâm “xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”1 với mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” 2, và đường
lối là “tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an
ninh”3…Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta cũng đã chủ trương “cùng với
việc đẩy mạnh phát triển kinh tế cần phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đó là
hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta”4.
Trên thực tế, nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước
còn đang trong tình trạng chậm phát triển, gánh nặng chiến tranh còn khá nặng nề…

Đặc biệt là xã hội đang ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi Đảng và Nhà
nước phải gấp rút giải quyết. Trong đó vấn đề bảo đảm xã hội - an sinh xã hội đang là
vấn đề mà Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Bởi việc bảo đảm xã hội không chỉ
thể hiện mặt bằng phát triển của xã hội mà còn thể hiện bản chất ưu việt củamột đất
nước “của dân, do dân và vì dân”. Mặc dù ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa cho đến nay, vấn đề thực hiện chính sách bảo đảm xã hội cũng như
chính sách xã hội nói chung đều rất được chú trọng nhưng chúng ta còn gặp rất nhiều
khó khăn cả về lí luận và thực tiễn, bởi hoàn cảnh của đất nước nhìn chung vẫn chưa
thể có đủ năng lực và điều kiện để giải quyết tốt các vấn đề liên quan đế bảo đảm xã
hội, nhất là trong bối cảnh đất nước như hiện nay. Do đó, việc thực hiện chính sách
bảo đảm xã hội là vấn đề bất thiết của nước ta hiện nay…
Bên cạnh đó, ở góc độ chuyên môn thì việc thực hiện chính sách bảo đảm xã
hội có liên quan khá chặt chẽ đến công tác xã hội (mặc dù công tác xã hội đang là
một khoa học khá mới mẽ ở nước ta), bởi nhân viên công tác xã hội là tác nhân quan
trọng trong việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội. Ở nước ta, từ khi ngành công
tác xã hội được đào tạo trở lại (vào năm 1992) đã cho thấy rằng xã hội đã và đang rất
cần những nhân viên có chuyên môn ngành này. Thế nhưng, dù có mối liên hệ mắc
xích với việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội, hoạt động công tác xã hội trong
lĩnh vực này vẫn còn ở hình thức tiềm năng, dưới dạng manh nha và thậm chí còn
được xem như là “hoạt động từ thiện”. Thực tế này cho thấy hoạt động công tác xã
hội trong việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội cần phải có một cái nhìn đúng
hơn, cần phải thấy được tầm quan trọng của việc ứng dụng chuyên môn về công tác
xã hội trong việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội.
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn đó đã giúp cho người viết mạnh dạn chọn đề
tài “nhu cầu công tác xã hội chuyên nghiệp với chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta
1

Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu lần 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 20.
Văn kiện đại hội đại biểu lần 9, đã dẫn, tr 22.
3

Văn kiện đại hội đại biểu lần 9, đã dẫn, tr 24.
4
Văn kiện đại hội đại biểu lần 9, đã dẫn, tr 33.
2

3


hiện nay” với một niềm tin rằng đề tài sẽ mang lại nhiều điều lí thú cho bạn đọc, và
tất nhiên trong quá trình tìm hiểu vấn đề thật khó tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong bạn đọc đóng góp ý kiến để vấn đề của chúng ta được rõ ràng hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong cuốn “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9”, Đảng cộng sản
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 có dành một phần nhỏ đề cập đến
vấn đề xã hội, trong đó có trình bày việc thực hiện chính sách xã hội - chính sách bảo
đảm xã hội. Tuy nhiên, vấn đề chỉ được trình bày một cách chung chung, ngắn gọn.
Trong cuốn “An sinh xã hội và các vấn đề xã hội”, Nguyễn Thị Oanh (chủ biên) và
các tác giả, ĐH Mở bán công TP. Hồ Chí Minh, 1997, có một phần đề cập đến vấn đề
an sinh xã hội. Với cấp độ tổng quát, sự hình thành các vấn đề xã hội, an sinh xã hội,
mối liên hệ giữa an sinh xã hội và công tác xã hội…, cùng với mục đích tham khảo
cho chuyên ngành công tác xã hội nên không thể hiện được rõ vấn đề chúng ta cần
tìm hiểu (về chính sách bảo đảm xã hội, hoạt động công tác xã hội trong chính sách
đó…).
Trong cuốn “Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp”, Phạm Xuân
Nam (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 đã dành 18 trang trình bày về
chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta. Trong cuốn sách này đã trình bày khá rõ về vấn
đề chính sách bảo đảm xã hội, nhưng vẫn không thoát khỏi cái chung chung và đặc
biệt là không thấy nói đến hoạt động công tác xã hội trong chính sách này, cho dù đó
là công cụ quan trọng giúp thực hiện hiệu quả chính sách bảo đảm xã hội…Do vậy,
đề tài “nhu cầu công tác xã hội chuyên nghiệp với chính sách bảo đảm xã hội ở nước

ta hiện nay” trở nên khá mới mẻ, đòi hỏi cần được nghiên cứu, tìm hiểu để hiểu rõ
hơn vấn đề cũng như các vấn đề liên quan đến đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là muốn làm rõ các vấn đề liên quan đến chính sách bảo
đảm xã hội, giúp bạn đọc nhận thấy được tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng của
hoạt động công tác xã hội đối với chính sách bỏa đảm xã hội ở nước ta hiện nay.
4. Nhiệm vụ đề tài
Tìm hiểu về chính sách xã hội và chính sách bảo đảm xã hội.
Tìm hiểu về công tác xã hội và hoạt động công tác xã hội trong chính sách bảo
đảm xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu, giả thiết đề tài
Trong khi nghiên cứu đề tài người viết chủ yếu sử dụng phương pháp phân
tích và tổng hợp.
Trong giới hạn tìm hiểu về “nhu cầu công tác xã hội chuyên nghiệp với chính
sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay” với giả thiết đề tài thành công sẽ cung cấp
những thông tin hữu ích làm tư liệu tham khảo cho bạn đọc về vấn đề liên quan đến
đề tài.
6. Cấu trúc đề tài
4


Nội dung đề tài gồm có những phần cơ bản sau:

5


NỘI DUNG
I. Vài nét về công tác xã hội và chính sách xã hội ở nước ta hiện nay.
1. Về công tác xã hội
Theo cuốn “Nhập môn công tác xã hội” do Lê Chí An biên soạn có viết

“Công tác xã hội giúp tăng cường việc thực hiện chức năng xã hội của cá nhân riêng
lẻ hay cá nhân trong các nhóm bằng các hoạt động dựa trên mối quan hệ xã hội của
họ và sự tương tác giữa con người với môi trường, can thiệp ở những điểm tương tác
giữa con người và môi trường của họ. Những hoạt động này bao gồm các chức năng:
phụchội năng lực bị thương tổn, cung cấp nguồn tài nguyên và ngăn ngừa sự lệch lạc
chức năng xã hội; tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống
của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu”5.
Ngoài ra, “Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa
trên nền tảng khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá
nhân, nhóm, cộng đồng) giải quyết vấn đề khó khăn gặp phải, cải thiện hoàn cảnh,
vươn lên hòa nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững” 6…
Như vậy, từ hai khái niệm trên chúng ta có thể hiểu rằng Công tác xã hội vừa
là một khoa học ứng dụng và vừa là một nghề nghiệp chuyên môn, được “hình thành
từ cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 ở Anh, Mỹ” 7, cho đến nay đã phát triển rộng khắp và
trở thành một ngành khoa học, một nghề chuyên môn phổ biến ở nhiều nước trên thế
giới.
Công tác xã hội có một vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại, bởi
công tác xã hội có cơ sở lí luận, nội dung, phương pháp tác nghiệp không ngừng hoàn
thiện cả về phương diện lí thuyết và thực tiễn, với mục tiêu là giúp cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng có “vấn đề xã hội”, bị yếu thế, không đảm bảo một hay một số
chức năng xã hội có thể nhận thức, giải quyết “vấn đề” của chính mình để vươn lên
trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng góp phần ổn định và thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực tế thì công tác xã hội có đối tượng đa dạng và phạm vi tác động rộng lớn, liên
quan đến mọi tầng lớp đan cư, mọi tổ chức ngành nghề trong xã hội. Trong đó có một
số lĩnh vực cần sự quan tâm đặc biệt của công tác xã hội hiện nay như: Công tác xã
hội gia đình và trẻ em; phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo; phòng ngừa tội
phạm và giải quyết các tệ nạn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân; đoàn kết dân tộc, tôn giáo; công tác xã hội
trong học đường, bệnh viện; công tác xã hội với người khuyết tật, người lang thang,
trẻ mồ côi, người già cô đơn, người có vấn đề về sức khỏe tâm thần, người có

HIV/AIDS…
Hiện nay ở nước ta, mặc dù công tác xã hội là một chuyên ngành còn khá mới
với khoảng 20 trường đại học, cao đẳng trong cả nước đào tạo. Tuy nhiên với vị trí và
vai trò rất quan trọng của nó trong xã hội, công tác xã hội đang ngày càng được chú
5

Lê Chí An biên soạn (2006), Công tác xã hội nhập môn, ĐH Mở bán công Tp. Hồ Chí Minh, tr 56.
Nguồn: Giới thiệu Công tác xã hội, 30/ 08/ 2007, www.portal.hnue.edu.vn.
7
Công tác xã hội nhập môn, đã dẫn, tr 7.
6

6


trọng phát triển hơn. Đây có thể xem là một xu hướng tất yếu khi xã hội phát triển,
với những mặt trái đòi hỏi sự giải quyết các vấn đề xã hội một cách triệt để, khoa học
và hiệu quả hơn.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thu được
nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu là cơ
bản, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, đặc biệt là những di chứng, hậu quả
của chiến tranh để lại, những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường,
những rủi ro trong cuộc sống, đất nước ta đã, đang tồn tại và nảy sinh những vấn đề
xã hội như: sự nghèo đói của một bộ phận không nhỏ dân cư; sự gia tăng của tệ nạn
xã hội; tình trạng trẻ mồ côi, trẻ đường phố, trẻ bị xâm hại, những người ảnh hưởng
chất độc điôxin; tình hình lây nhiễm HIV/AIDS… Việc thực hiện các chính sách xã
hội trong hệ thống bảo đảm xã hội cũng có những bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu của
xã hội…Điều này đòi hỏi cần phải có đội ngũ làm công tác xã hội chuyên nghiệp.
Trên thực tế nước ta, đội ngũ này vừa thiếu cả về chất và lượng. Hầu như những
người đang làm công tác xã hội trong các cơ sở xã hội ở các cấp, các ngành chưa

được đào tạo đúng chuyên môn, chưa phù hợp với yêu cầu tác nghiệp mà chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm, lòng nhiệt huyết nên khó tránh khỏi những bất cập. Điều này
chứng minh rằng nhu cầu công tác xã hội ở nước ta là rất lớn.
2. Vài nét về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay
Những vấn đề xã hội nảy sinh từ khi con người sinh sống thành cộng đồng và
xã hội loài người càng phát triển thì những vấn đề xã hội ngày càng phức tạp hơn.
Hiện nay, nước ta đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề xã hội làm ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của đất nước như: nghèo đói, thất nghiệp, nhà ổ
chuột…, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải giải quyết để ổn định và xây dựng đất nước
bền vững theo đúng bản chất của dân, do dân và vì dân. Với nhiệm vụ cơ bản như: tái
tạo tiềm năng nhân lực đất nước bằng các chính sách dân số, gia đình, khắc phục tệ
nạn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội…; góp phần xây dựng nền tảng vững chắc của xã
hội với các chính sách như nhà ở, kinh tế…; giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân
tài bằng các chính sách giáo dục, việc làm…Từ đó cho thấy, ‘chính sách xã hội được
xem là sự thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
trên những tư tưởng quan điểm của chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ
chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và
của từng nhóm xã hội nói riêng nhằm tác động trực tiếp vào con người và điều chỉnh
các mối quan hệ lợi ích giữa con người với con người, giữa con nguời với xã hội,
hướng tới mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống
vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân”8.
Việc thực hiện chính sách xã hội ở nước ta hiện nay dựa trên bối cảnh lịch sử,
hoàn cảnh của đất nước đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với đặc điểm từ một xã hội chậm phát triển,
đất nước bị chiến tranh tàn phá…bước sang xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại;
từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường…Do đó, việc
8

Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, HN, tr 11.


7


thực hiện chính sách xã hội ở nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong
giai đoạn hội nhập với thế giới như hiện nay. Chính điều này đòi hỏi Đảng và Nhà
nước phải có một chính sách xã hội hợp lí nhằm phát huy mọi tiềm lực của xã hội,
đảm bảo sự phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước,
hướng đến các giá trị cao hơn, giải quyết và đáp ứng các nhu cầu bức thiết của mọi
công dân nhằm xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn.
Trong thực tế nhiều năm qua Đảng và Nhà nước đã chú trọng vào việc phát
triển kinh tế, ổn định xã hội. Từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói
thành một nước đang phát triển vào loại mạnh trong khu vực Đông Nam Á. Đời sống
nhân dân ngày càng được đảm bảo (GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 640
USD), điều này một phần là nhờ vào việc giải quyết tốt các chính sách xã hội của
Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, vì nước ta đang trong thời kì chuyển đổi, đang phải
đối mặt với rất nhiều vấn đề xã hội còn tồn tại cũng như mới nảy sinh nên việc thực
hiện chính sách xã hội ở nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế do thiếu nguồn
lực,tài nguyên. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải có một tầm nhìn mới về các vấn
đề xã hội cũng như việc thực hiện chính sách xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển của
xã hội, nâng cao mức sống cho người dân.
II. Chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta
1. Chính sách bảo đảm xã hội
“Bảo đảm xã hội” là thuật ngữ được dịch từ tiếng Anh - Social Security và
tiếng Pháp - Sécerité Sociale. Ngoài thuật ngữ “bảo đảm xã hội” chúng ta còn dịch
sang tiếng Việt bằng các thuật ngữ khác như: bảo trợ xã hội, an sinh xã hội, an ninh
xã hội…
Ở đây chung ta dùng thuật ngữ “bảo đảm xã hội”, theo tổ chức Lao động quốc
tế thì “bảo đảm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã
hội do bị ngừng và giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất

nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế, trợ cấp cho
người già neo đơn, trẻ mồ côi…”9. Theo đó, bảo đảm xã hội là “bằng các biện pháp
xã hội khác nhau bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho
người lao động và gia đình khi họ bị giảm hoặc mất đi thu nhập, do bị giảm hoặc mất
khả năng lao động hoặc bị mất việc làm; bảo đảm cuộc sống cho những người có
công với đất nước; bảo đảm đời sống cho những người già cả cô đơn, trẻ em mồ côi,
người tàn tật, những người nghèo khó và những người gặp rủi ro vì thiên tai, địch
họa”10.
Như vậy, chúng ta có thể thấy chính sách bảo đảm xã hội là chính sách mà
Đảng và Nhà nước hoạch định và thực thi nhằm khắc phục những vấn đề khó khăn
cũng như đảm bảo cho nhóm đối tượng chính sách có được một cuộc sống tốt hơn,
đồng thời góp phần làm ổn định và thúc đẩy sự tiến bộ, công bằng xã hội; thể hiện vai
trò, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhóm đối tượng chính sách, thể hiện
9

Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 97.
Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 98.

10

8


truyền thống cũng như bản chất của một đất nước xã hội chủ nghĩa - của dân, do dân
và vì dân. Hơn thế, “chính sách bảo đảm xã hội có mối quạn hệ mật thiết và có mối
tương tác biện chứng với các chính sách xã hội và chính sách kinnh tế - xã hội
khác”11, bởi chính sách bảo đảm xã hội là một bộ phận của chính sách xã hội và chính
sách kinh tế - xã hội khác. Trên thực tế sẽ không có chính sách bảo đảm xã hội vững
chắc khi không có chính sách kinh tế đúng đắn. Một khi thực hiện tốt chính sách kinh
tế sẽ nâng cao đời sống nhân dân, tạo điều kiện về vật chất cho cá nhân tham gia hoạt

động cộng đồng, trong đó có hoạt động bảo đảm xã hội, đồng thời, kinh tế phát triển
thì Nhà nước mới có nguồn thu để thực hiện các chương trình xã hội. Ngược lại,
chính sách bảo đảm xã hội (chính sách xã hội nói chung) được thực hiện tốt sẽ góp
phần ổn định xã hội, tạo ra động lực mới để thực hiện thành công các chính sách kinh
tế, khuyến khích người lao động làm việc với năng suất và chất lượng cao, đồng thời
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước nói chung.
Ở nước ta, cùng với sự phát triển của xã hội, chính sách bảo đảm xã hội ngày
càng được bổ sung và hoàn chỉnh hơn về mọi mặt. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay, chính sách bảo đảm xã hội nước ta có ba bộ phận được quan tâm hơn cả đó là:
Bảo hiểm xã hội và chăm sóc y tế cho mọi người lao động trong các thành phần kinh
tế; cứu trợ xã hội cho những người gặp rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống; ưu đãi xã hội
đối với những người có công lao với đất nước. Ngoài ba bộ phận chính kể trên thì
hiện nay trong hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta còn có bộ phận dịch vụ xã hội, đây
có thể xem là bước tiến mới phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện phát triển chung của
đất nước.
1.1. Đối với báo hiểm xã hội và chăm sóc y tế
Đây là bộ phận cơ bản nhất của hệ thống bảo đảm xã hội của mỗi quốc gia. Ở
nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước đã ban
hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện bảo hiểm xã hội: “Sắc lệnh 54/SL (1/11/1945) ấn
định những điều kiện cho công chức về hưu; Sắc lệnh 105/SL (14/06/1946) ấn định
việc cấp hưu bổng cho công chức; Sắc lệnh 76/SL (20/05/1950) ấn định cụ thể hơn
các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công
chức…Những văn bản trên cho thấy Nhà nước ta đã sớm nhận thức và sớm thực hiện
bảo hiểm xã hội theo hình thức hiện đại so với nhiều nước trên thế giới và khu vực,
sớm chứng tỏ là một nhà nước tiên tiến của giai cấp công nhân và người lao động” 12.
Đến năm 1995, “Nghị định 12/CP (26/01/1995) của Chính phủ về việc ban
hành điều lệ bảo hiểm xã hội” 13 và “Nghị định số 93/1998/NĐ-CP (12/11/1998) của
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của điều lệ bảo hiểm xã hội” 14 đã qui
định nhiều vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội, và theo đó việc thực hiện bảo hiểm
xã hội bao gồm 5 chế độ sau: “Chế độ ốm đau; Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp; Chế độ trợ cấp thai sản; Chế độ hưu trí; Chế độ tiền tử. Ngoài ra, người
lao động còn được hưởng chế độ chăm sóc y tế (khám và chữa bệnh) theo Điều lệ bảo
11

Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 104.
Nguồn: www.vi.wikipedia.org.
13
Đã dẫn
14
Đã dẫn
12

9


hiểm y tế. Đặc biệt từ ngày 21/03/2001, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn
được hưởng chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức (Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ)”15.
Trên thực tế, bảo hiểm xã hội có những đặc trưng chủ yếu như: thể hiện sự liên
kết của những người lao động (bằng sự san sẽ thông qua việc đóng góp bảo hiểm xã
hội của mọi người lao động); Việc tham gia bảo hiểm xã hội là bắt buộc trừ trường
hợp ngoại lệ; Nguồn thu bảo hiểm xã hội thông qua sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước. Tiền đóng góp được đưa vào quĩ riêng, không
nằm trong ngân sách nhà nước, để chi trả các trợ cấp và các hoạt động bảo hiểm xã
hội; Quyền hưởng trợ cấp phụ thuộc vào sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm.
Ở nước ta hiện nay, việc thực hiện bảo hiểm xã hội được tiến hành theo hai hình thức:
bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện áp dụng cho hai nhóm đối tượng khác nhau: nhóm
người lao động làm công ăn lương và nhóm người lao động tự do (không có người sử
dụng lao động ổn định). Như vậy, hiện nay căn cứ những gì đang diễn ra ở nước ta thì
bảo hiểm xã hội là một chế định pháp lí nhằm bảo về người lao động bằng cách thông

qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ người lao động, người sử dụng
lao động, cộng với sự hỗ trợ của nhà nước, thực hiện việc trợ cấp vật chất, góp phần
ổn định đời sống cho người tham gia bảo hiểm xã hội và gia đình họ trong các trường
hợp người lao động tham gia bảo hiểm bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo luật định hoặc chết là họ hoặc gia đình mất hoặc
giảm thu nhập bất ngờ.
Ngoài việc đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm xã hội thì hiện nay nước ta còn đang
chú trọng phát triển về chăm sóc y tế cho người lao động. “Trước đây (từ 1992 đến
2002) bảo hiểm y tế tách riêng ra khỏi bảo hiểm xã hội bởi Nghị định 229/HĐBT ban
hành Điều lệ bảo hiểm y tế (ngày 15/08/1992). Hiện nay thì chăm sóc y tế đã được
gộp chung với bảo hiểm xã hội bởi những nét tương đồng nhau”16.
1.2. Đối với cứu trợ xã hội
Đây là bộ phận quan trọng của hệ thống bảo đảm xã hội của một quốc gia.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có thiên tai (bão
lũ…), hơn nữa, liên miên trãi qua chiến tranh chống xâm lược, vì vậy một bộ phận
không nhỏ người dân sống trong tình trạng nghèo túng, khó khăn. tinh thần tương
thân, tương ái của dân tộc Việt Nam sớm nảy nở và phát huy cao độ.
Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã phá kho thóc bị Nhật
chiếm đóng để cứu đói. Sau khi thành lập Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ
Chủ tịch đã xác định rõ phải chống 3 loại giặc, trong đó có giặc đói, phát động
“nhường cơm sẽ áo”, lập “hũ gạo tiết kiệm” trợ giúp những người nghèo khó. Trong
cải cách ruộng đất, người nghèo, tàn tật, cô đơn được chia ruộng, giảm tô…
Từ khi đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trườ có định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhà nước ta càng quan tâm thực hiện các chính sách cứu trợ, bảo trợ xã hội đối với
những người nghèo khó, tàn tật. Cụ thể, nhiều văn bản được ban hành và triển khai
15
16

Đã dẫn
Đã dẫn


10


thực hiện, đặc biệt là từ năm 1995 đến nay như: “Chính sách cứu trợ đối với trẻ mồ
côi, người già không nơi nương tựa: bao gồm trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột
xuất; Chính sách đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số: thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, thành lập tổ chức trợ giúp pháp
lí cho người nghèo, quan tâm đến người lao động nghèo trong quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế…; Chính sách đối với nạn nhân chất độc màu da cam: thành lập quĩ
bảo trợ nạn nhân chất độc da cam…; Chính sách cứu trợ xã hội đối với công chức
nhà nước, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang qua hình thức trợ cấp khó
khăn đột xuất và thường xuyên…”17.
Như vậy, trên thực tế cứu trợ xã hội được thể hiện rõ ở “sự giúp đỡ bằng tiền,
hiện vật hoặc các điều kiện sinh sống khác của cá nhân, cộng đồng và xã hội cho
những thành viên gặp phải những khó khăn rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống, nhằm
giúp họ tránh được mối đe dọa về kinh tế trong cuộc sống thường nhật hoặc giúp họ
vượt qua được khó khăn, khắc phục được hậu quả rủi ro, dần dần ổn định và bảo đảm
cuộc sống lâu dài, sớm hòa nhập vào cộng đồng”18…
1.3. Đối với ưu đãi xã hội
Đây là một bộ phận đặc thù trong hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta. Do phải
trãi qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc mà trong những cuộc chiến này Đảng và Nhà
nước đã phải huy động sức người, sức của của toàn dân để đấu tranh giành độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước. Trong các cuộc chiến này, nhiều cá nhân và gia đình đã
cống hiến xương máu, công sức của mình cho Tổ quốc và trở thành đối tượng có
công với đất nước. Vì vậy mà Nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách ưu đãi xã
hội đối với họ. Ở đây “ưu đã xã hội được hiểu là sự phản ánh trách nhiệm của nhà
nước, cộng đồng và toàn xã hội, là sự đãi ngộ đặc biệt, ưu tiên hơn mức bình thường
về mọi mặt trong đời sống vật chất và tinh thần đối với những người có công lao đặc
biệt với đất nước và đang gặp phải khó khăn tring cuộc sống” 19.

Trên thực tế, cơ chế ưu đãi xã hội là nét riêng trong hệ thống bảo đảm xã hội ở
nước ta, cơ chế này nhằm đảm bảo cho hai nhóm người chủ yếu như sau:
Nhóm người đã có công sức đóng góp cho vận mệnh của đất nước, công cuộc
cách mạng của dân tộc bao gồm: những người đã gắn bó cả cuộc đời mình với sự
nghiệp cách mạng, sự nghiệp của cộng đồng; những người gặp rủi ro trong quá trình
hoạt động cho sự nghiệp chung của cộng đồng. Phần lớn những người thuộc nhóm
này thường bị suy giảm, mất khả năng lao động, khả năng cầu tiến trong điều kiện
cạnh tranh của thị trường trong khi sự đóng góp của họ là vô giá (tính mạng, thân thể,
gia sản…). Việc ưu đãi đặc biệt nhóm người này so với những người lao động bình
thường kể cả những người lao động bất hạnh khác là phù hợp với truyền thống lâu
đời của dân tộc: uống nước nhớ nguồn. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này gồm
có: “Chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia kháng

17

Nguồn: www.vi.wikipedia.org.
Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 102.
19
Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 103.
18

11


chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc gia cam; Chính sách ưu đãi đối với gia đình
liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ cách mạng”20.
Ngay từ thời kháng chiến, sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập,
Nhà nước đã ra nhiều sắc lệnh cho nhóm người này như: “Sắc lệnh 20/SL
(18/02/1947) ban hành chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, qui định
những khoản ưu đãi xã hội đặc biệt như: hưu bổng, thương tật, tử tuất; Sắc lệnh

77/SL (22/05/1950) đều có những chính sách đảm bảo cho quân nhân viên ngành
quân giới bị thương được hưởng quyền lợi giống như quân nhân và quyền lợi ưu tiên
như đối với thương binh…”21. Đến năm 1994, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách
mạng,liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến,
người có công giúp đỡ cách mạng và Pháp lệnh qui định danh hiệu danh dự nhà nước
Bà Mẹ Việt Nam anh hùng đã được công bố đã hoàn thiện chính sách ưu đãi xã hội
về nhiều mặt đối với người có công với cách mạng.
Nhóm đối tượng thứ hai đó là nhóm những người đã và sẽ cung cấp sức lao
động quí báu cho nền kinh tế - xã hội bao gồm những người già đã có quá trình làm
việc, lao động lâu năm, cống hiến sức lao động cho xã hội, những bà mẹ có công sinh
nở, nuôi nấng con trẻ và trẻ em - nguồn sức lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội
trong tương lai lâu dài. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này ở nước ta gồm có:
Chính sách đối với người cao tuổi (Pháp lệnh người cao tuổi); Chính sách đối với bà
mẹ và trẻ em.
Nhìn chung, ưu đãi xã hội là chính sách xã hội lớn và là đặc trưng riêng của
nước ta nhưng ở góc độ là bộ phận của bảo đảm xã hội thì sự ưu đãi nói trên chỉ áp
dụng phần lớn cho nhóm đối tượng thứ nhất (những người có công với cách mạng)
đang gặp phải khó khăn, bất trắc trong cuộc sống. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế
và xã hội như hiện nay ở nước ta, nhà nước đang dần có điều kiện tốt để thực hiện ưu
đãi xã hội cho cả hai nhóm đối tượng kể trên…
Ngoài ba bộ phận chính kể trên, hiện nay nước ta còn đang chú trọng vào dịch
vụ xã hội. Đây cũng là một trong những cơ chế rất quan trọng trong việc bảo đảm xã
hội ở nước ta. Dịch vụ xã hội và trợ cấp bảo đảm xã hội bằng tiền (trợ cấp bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, ưu đãi xã hội,…) là hai mặt của cùng một hành động bảo vệ an
toàn cho xã hội nói chung và cho người lao động nói riêng. Sẽ không thể có hiệu quả
tích cực dù tiền trợ cấp có cao đến đâu mà dịch vụ nghèo nàn không đáp ứng nhu cầu
của người lao động. Dịch vụ xã hội có thể bao gồm các dịch vụ y tế, phòng ngừa y tế
(vệ sinh phòng dịch, y tế dự phòng…), phòng ngừa tai nạn, dịch vụ đối với người tàn
tật (phục hồi chức năng, cung cấp bộ phận giả…), dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, tái
thích ứng nghề nghiệp…Tùy thuộc vào sự phát triển của kinh tế cũng như nhu cầu

của xã hội trong từng thời kì mà dịch vụ xã hội phát triển ở những loại nào nhưng hầu
như quốc gia nào cũng quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ y tế để đảm bảo cho rủi ro
ốm đau lên hàng đầu.

20
21

Nguồn: www.vi.wikipedia.org.
Nguồn: www.vi.wikipedia.org.

12


Việc tổ chức và phát triển dịch vụ xã hội trước tiên phải dựa vào đầu tư từ
ngân sách nhà nước đặc biệt cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đào tạo cán bộ y tế. Tuy
nhiên, nhà nước có thể thu hồi khoản đầu tư này khi sử dụng mạng lưới chăm sóc y tế
không chỉ cho những người lao động được bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội không chỉ
trợ cấp mà còn cung cấp dịch vụ rộng rãi cho người dân trong cộng đồng.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước đến nay, nhà nước ta đã có nhiều
quan tâm đến nhiều nội dung dịch vụ xã hội: tổ chức mạng lưới y tế đến thôn xã, đào
tạo cán bộ y tế, thực hiện y tế dự phòng phòng chống các loại dịch bệnh và bệnh
truyền nhiễm, thực hiện cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí, thực hiện hệ
thống trường dạy nghề để tái thích ứng nghề cho người lao động nói chung, người lao
động thương tật nói riêng. Hiện nay, từ khi thực hiện đổi mới kinh tế, nhà nước ta có
chính sách khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ xã hội bằng các nguồn lực đa
dạng của xã hội, điều này, một mặt làm cho cơ sở vật chất dịch vụ xã hội ngày càng
tốt hơn, mặt khác, nhà nước có thể tâph trung nguồn lực của mình để chăm sóc tốt
hơn cho các đối tượng ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã hội.
2. Nguyên nhân của việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội
Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, những người lãnh

đạo đất nước mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng đến việc
thực hiện chính sách xã hội, trong đó có chính sách bảo đảm xã hội. Với chủ trương
“diệt giặc đói, giặc dốt…” Người đã đề cao việc ổn định xã hội, ổn định đời sống
nhân dân…hướng đến một xã hội có trách nhiệm đối với các thành viên, với sự phát
triển bền vững của đất nước và mức sống cao hơn của nhân dân.
Ngày nay, trong bối cảnh của một xã hội văn minh, bên cạnh những con người
thành đạt vẫn còn rất nhiều những con người đang trong hoàn cảnh khó khăn, có
nhiều “biến cố rủi ro” cần được sự trợ giúp của xã hội để có thể hòa nhập xã hội. Đặc
biệt trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta hiện nay, cùng với sự phát
triển về mặt nhận thức, với bản chất là một nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đòi
hỏi việc thực hiện công bằng xã hội đang rất bức thiết. Bởi sự công bằng xã hội sẽ
mang lại điều kiện và cơ hội phát triển như nhau cho mọi người dân, đặc biệt là nhóm
người yếu thế trong xã hội…
Ngoài ra, nước ta hiện nay đang đứng trước nhiều vấn đề xã hội (cả những vấn
đề tồn tại và mới phát sinh) gây sự ảnh hưởng xấu đến sự phát triển ổn định của xã
hội. Do đó, việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
đất nước phát triển ổn định, bền vững cũng như giúp cho con người có được cuộc
sống thoải mái hơn…
Những vấn đề trên chính là những nguyên nhân cơ bản để Đảng và Nhà nước
hoạch định, thực thi các chính sách xã hội, trong đó có chính sách bảo đảm xã hội.
Đối với việc thực hiện tốt chính sách bảo đảm xã hội tất yếu sẽ tạo điều kiện để tiến
hành các chính sách xã hội khác, đồng thời đó cũng là một yêu cầu thiết yếu đối với
đất nước ta hiện nay - một đất nước đang trên đà phát triển, có số dân đông, bị chiến
tranh tàn phá, nhiều thiên tai,…
13


3. Thực trạng về chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay
Do vị trí địa lí ở nước ta phải chịu nhiều thiên tai mà đặc biệt là lũ lụt gây thiệt
hại cả về người và của rất nặng nề. Hơn nữa nước ta đã trãi qua nhiều cuộc chiến

tranh tàn khốc nên hậu quả mà chiến tranh để lại còn rất lớn đến nay vẫn chưa khắc
phục được. Thêm nữa, hiện nay nước ta đang trong thời kì chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
nề kinh tế đang dần chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã và đang thực
hiện chính sách mở cửa giao thương với các nước bạn…Chính điều này đã mang lại
nhiều ảnh hưởng cho nhân dân trong cả nước (thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, bệnh
tật…). Những điều trên cho thấy nhu cầu đảm bảo xã hội ở nước ta là rất lớn và rất đa
dạng.
Ở nước ta, bảo đảm xã hội được thể hiện rõ qua việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội đối vơớicác đội tượng của chính sách bảo đảm xã hội, “trong 6 năm qua,
từ năm 2000 đến năm 2005, số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội tăng từ 175.355
người lên 416.000 người. Về tỷ lệ so với đối tượng thuộc diện được hưởng tăng từ
36,35% (năm 2000) lên trên 50% (năm 2005). Trong bối cảnh ngân sách Nhà nước
còn khó khăn, số lượng đối tượng xã hội được hưởng chính sách tăng trên 2 lần là sự
cố gắng hết sức của Chính phủ và các địa phương.
Mức trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cồng đồng đã được điều
chỉnh trong 3 lần trong giai đoạn 1994 - 2005: từ số tiền 24 nghìn đồng/tháng lên 45
nghìn đồng và lên 65 nghìn đồng. Và đến năm 2007, mức trợ cấp xã hội được tăng
lên 120 nghìn đồng/tháng. Tuy vậy, hạn chế của chính sách bảo đảm xã hội (trợ cấp
xã hội) trong thời gian qua là vẫn chưa bảo đảm công bằng xã hội trong phạm vi
chung và từng vùng miền”22.
Theo đó, chính sách bảo đảm xã hội đã và đang biểu hiện một số mặt hạn chế
sau:
“Thứ nhất, độ bao phủ đối tượng bảo đảm xã hội (bảo trợ xã hội) tương đối
thấp, trước hết là thể hiện ở tiêu chí xác định đối tượng thụ hưởng chính sách còn quá
khắc khe, chính sách qui định những người được trợ giúp là những đối tượng có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, tiêu chí đặc biệt khó khăn ở đây vô hình trung đã loại bỏ
những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhưng dưới ngưỡng “đặc biệt”. Tiếp theo, có
nhiều đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhưng chính sách bảo đảm xã hội vẫn chưa
với tới được vì nhiều lí do khác nhau, song, chủ yếu vẫn là lí do thiếu nguồn ngân
sách để thực hiện. Ví dụ người già không có lương hưu, không có nguồn thu nhập,

phải sống phụ thuộc vào gia đình, con cháu; phụ nữ đơn thân nuôi con; những người
có thu nhập thấp không đảm bảo được mức sống tối thiểu…
Thứ hai, mức độ tác động của chính sách bảo đảm xã hội đến chất lượng cuộc
sống của các đối tượng xã hội còn rất hạn chế. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các
đối tượng xã hội sống tại cộng đồng chỉ bằng 18% so với tiền lương tối thiểu và cũng
bằng khoảng 17% mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, nếu so với mức sống
tối thiểu (chuẩnnghèo nông thôn) trong giai đoạn hiện nay thì cũng chỉ bằng 32%.
Hầu hết các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội lại là những đối tưưọng sống trong
các gia đình nghèo và với một mức trợ cấp bảo đảm xã hội như vậy thì khó có thể bảo
22

Nguồn: www.vi.wikipedia.org.

14


đảm mức sống tối thiểu nếu như không có sự cung cấp tài chính của gia đình, cộng
đồng và xã hội. Với quan điểm xã hội hóa công tác trợ giúp xã hội là cần thiết và việc
Nhà nước trợ giúp chỉ là một phần, còn phần khác là gia đình, cộng đồng, xã hội,
song cũng cần phải tính đến bảo đảm an toàn cuốc sống cho các dối tượng và gia đình
của họ ở mức tối thiểu. Các mức trợ giúp khác cũng tương tự, rất thấp, không phù
hợp với giá cả thị trường, ngoại trừ chính sách trợ giúp khám chữa bệnh có mệnh giá
mua thẻ bảo hiểm y tế ngang bằng với cac đối tương tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc.
Thứ ba, cơ chế tài chính để thực hiện chính sách bảo đảm xã hội - trợ giúp xã
hội chưa đảm bảo nguồn chi, đặc biệt là các địa phương nghèo, còn nhiều khó khăn
về kinh tế. Theo báo cáo của các địa phương, một số tỉnh thành phố đạt chỉ số bao
phủ ở mức 80% - 90%, trong khi đómotj số tỉnh, thành phố chỉ đạt mức 30% - 40%.
Mặc khác một số địa phương, chủ yếu là cấp huyện, chưa đảm bảo chếđộ trợ cấp xã
hội cho đối tượng bảo đảm xã hội ở mức tối thiểu do nhà nước quy định. Nguyên
nhân chính là cấp huyện, tỉnh thiếu nguồn tài chính để thực hiện các chính sách bảo

đảm xã hội. Vì theo cơ chế phân cấp quản lí tài chính hiện hành, cấp tỉnh, huyện là
cấp chịu trách nhiệm chính trong việc cân đối tài chính cho việc thực hiện chính sách
bảo đảm xã hội và trợ cấp xã hội. Mặc khác theo quy định của Luật Ngân sách, nguồn
kinh phí để thực hiện trợ cấp xã hội được cân đối chung trong mục bảo đảm xã hội,
dẫn đến tình trạng thiếu ngồn để chi cho chính sách bảo đảm xã hội - trợ cấp xã
hội”23.
“Bảng thống kê số lượng đối tượng đuợc trợ cấp xã hội giai đoạn 2000 - 2005”24
(Đơn vị: người)

Đó là trên bình diện chung của chính sách bảo đảm xã hội, còn riêng trong
từng bộ phận của chính sách này về hiện trạng thì có những nét sau:
3.1. Đối bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ở nước ta được thực hiện từ đầu những năm 60 đã thu được
nhiều thành tựu. Các chế độ bảo hiểm xã hội đã góp phần ổn định đời sống của công
nhân viên chức; lực lượng vũ trang; góp phần vào ổn định và giữ vững chính trị xã
hội. Cho đến năm 1997, “nước ta đã có hơn 2 triệu người hưởng trợ cấp hưu và mất
sức lao động (trong đó có trên 1,2 triệu người hưởng trợ cấp hưu). Tuy nhiên trước
đây do cơ chế quan liêu bao cấp nên chỉ thực hiện cho một bộ phận nhỏ người lao
23
24

Đã dẫn

15


động là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang. Hơn nữa, bảo hiểm xã hội ở nước
ta được thực hiện trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, hậu quả chiến tranh
chưa khắc phục hết nên phải xen kẻ với nhiều chính sách khác. Các mối quan hệ
trong bảo hiểm xã hội bị xem nhẹ. Chi phí bảo hiểm xã hội chủ yếu từ nguồn ngân

sách của nhà nước. Điều này dẫn đến sự coi nhẹ và lạm dụng, gây ra sự bất bình đẳng
trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội như: tăng tuổi, tăng thời gian công
tác, tăng lương trước khi nghỉ hưu hay giả mạo hồ sơ giấy tờ…”25
“Số người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tính đến cuối năm ở nước ta”26
1990

1991

1992

1993

1995

Công nhân viên chức hưu trí

638.288

785.117

872.000

900.000

1.030.057

Quân nhân hưu trí

122.441


141.123

154.000

175.000

165.000

Mất sức lao động

239.271

339.047

359.000

366.800

401.081

Tuất

95.666

116.693

182.000

184.000


187.843

Tai nạn lao động

1.535

2.062

3.100

3.680

6.175

3.2. Đối với cứu trợ xã hội
Do điều kiện tự nhiên khắc nhiệt, lại chịu hậu qủa nặng nề từ các cuộc chiến
tranh nên nước ta đang có một bộ phận không nhỏ dân cư luôn ở trong tình trạng
nghèo đói, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải
huy động nhiều nguồn lực để cứu trợ thường xuyên hoặc cứu trợ đột xuất. “Chỉ tính
riêng trong năm năm 1995 tổng thiệt hại do bão lũ gây ra ước tính đã trên 2.100 tỷ
đồng, chưa nói đến thiệt hại về người. Hàng năm Nhà nước phải chi hang ngàn tỷ
đồng để trợ cấp cho các đối tượng cứu trợ xã hội. Chỉ tính riêng năm 1995, kinh phí
dành cho cứu trợ đột xuất của các địa phương là 64 tỷ đồng. Tính đến năm 1997, cả
nước có hơn 80.000 người nhân trrợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên và trên 200.000
người được các địa phương tạo điều kiện sinh sống. Những người không còn khả
năng nuôi sống bản thân như người già cô đơn, người tàn tật…được Nhà nước nuôi
dưỡng trong các cơ sở xã hội. Ngoài ra, Nhà nước cũng đã tiến hành trợ cấp, cứu trợ
xã đột xuất cho các vùng bị thiên tai, bão lũ” 27. Hiện nay, hoạt động cứu trợ xã hội ở
nước ta đã được xã hội hóa dần (có sự tham gia của các doanh nghiệp, đoàn thể phi
chính phủ…), tuy nhiên, các hoạt động cứu trợ vẫn còn nhiều hạn chế như: còn nặng

về giúp đỡ trước mắt, chưa xử lí tận gốc vấn đề, chưa chú ý đúng mức tới việc giúp
đỡ lâu dài, tạo điều kiện cho đối tượng ổn định cuộc sống,hòa nhập cộng đồng; các
hoạt động trợ cấp xã hội còn manh mún, bình quân, chưa huy động được đầy đủ tiền
lực và sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội và toàn nhân dân.

25

Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 106.
Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 106.
27
Đã dẫn
26

16


3.3 Đối với ưu đãi xã hội
Do điều kiện lịch sử mà đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi xã hội ở
nước ta là khá lớn. Tính đến năm 1997 cả nước “có khoảng 2 triệu người đang được
hưởng các trợ cấp ưu đãi xã hội thường xuyên với các mức khác nhau” 28. Ngoài ra
hiện nay, Nhà nước cũng đã và đang chú trọng thực hiện chính sách ưu đãi xã hội cho
người đã, sẽ cung cấp sức lao động cho xã hội mà đặc biệt đó là các bà mẹ và trẻ em.
Tuy nhiên, do điều kiện của đất nước, so với nhu cầu của đối tượng hưởng trợ
cấp ưu đãi xã hội, đặc biệt là những người có công với đất nước thì sự ưu đãi của nhà
nước và cộng đồng vẫn chưa đáp ứng đuợc. Hiện nay vẫn còn một số lượng không ít
các gia đình có công vẫn đang trong tình trạng nghèo, nhiều gia đình thương binh, liệt
sĩ thiếu vốn, thiếu sức lao động để mở rộng sản xuất. Điều này cho thấy cần phải có
cái nhìn biện chứng, phù hợp hơn trong chính sách ưu đãi xã hội, nhất là trong điều
kiện đất nước đang ngày càng tiến bộ và văn minh hơn.
“Số lượng người có công được hưởng trợ cấp ưu đãi xã hội” 29

(tính đến năm 1997)
Đối tượng

Lão thành cách mạng
Gia đình liệt sỹ
Thân nhân liệt sỹ được hưởng trợ cấp
Anh hùng lực lượng vũ trang
Bà mẹ Việt Nam anh hung
Thương binh
Bệnh binh
Người hoạt động kháng chiến
Người có công với cách mạng

Số lượng

6.600
670.000
790.000
1.085
37.154
400.000
192.000
651.000
70.000

Tóm lại, chính sách bảo xã hội ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
đáp ứng được những nhiệm vụ lịch sử của giai đoạn vừa qua, góp phần rất lớn vào
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, góp phần thắng lợi và sự
phát triển của cách mạng Việt Nam cũng như sự tiến bộ vững chắc của đất nước.
4. Một số giải pháp thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả chính sách bảo đảm

xã hội ở nước ta
Từ những thực trạng trong việc thựuc hiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước
ta hiện nay. Để tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách này chúng ta cần:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế chính sách theo hướng từng bước bao phủ toàn bộ
đối tượng xã hội. Chính sách bảo đảm xã hội là một hợp phần quan trọng của hệ
thống chính sách xã hội. Nó tạo nên tấm lưới cuối cùng của hệ thống “lưới an toàn”
để bảo vệ sự an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Ngoài ra, trong sự phát triển
không ngừng về chính trị - xã hội tất yếu sẽ có rất nhiều vấn đề xã hội nảy sinh. Vì
vậy, việc đổi mới cơ chế chính sách là điều tất yếu, tuy nhiên cũng cần phải đổi mới
theo hướng bao phủ toàn bộ các đối tượng bảo trợ xã hội. Để thực hiện tốt định
28
29

Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 107.
Đã dẫn

17


hướng này trong thời gian tới chúng ta cần phải giải quyết tốt hai vấn đề: một là, bổ
sung them đối tượng trợ cấp xã hội cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn như: người có
thu nhập thấp, phụ nữ đơn thân nuôi con…; hai là, rà soát xây dựng lại tiêu chí xác
định đối tượng trợ giúp, trợ cấp xã hội theo hướng linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, loại
bớt những điều kiện quá khắc khe mà quan tâm nhiều hơn đến điều kiện cần để thực
sự bao phủ hết số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn như: tiêu chí xác định người tàn
tật nặng, người cao tuổi hưởng trợ cấp xã hội.
Thứ hai, nâng dần mức trợ cấp, trợ giúp cho phù hợp với quá trình phát triển
kinh tế xã hội và mức sống trung bình của cộng đồng dân cư để chính sách trợ giúp
có sự tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống của đối tưởng bảo trợ xã hội. Nhiệm
vụ hang đầu là đảm bảo mức trợ cấp xã hội hợp lí. Mức trợ cấp hàng tháng phải được

xác định trên cơ sở mức chi tiêu tối thiểu bảo đảm các nhu cầu về vật chất cho đối
tượng (nhu cầu về lương thực - thực phẩm và phi lương thực - thực phẩm) đủ để duy
trì cuộc sống trong một tháng. Tuy mức trợ cấp xã hội không phải chỉ cho một loại
đối tượng bảo trợ xã hội mà cho nhiều đối tượng bảo trợ xã hội khác nhau. Do vậy,
cần xây dựng một “mức chuẩn” trợ cấp xã hội cho đối tượng được hưởng trợ cấp.
Điều này sẽ không bình quân hóa sự trợ giúp mà nó góp phần bảo đảm tính công
bằng xã hội tốt hơn.
Thứ ba, đổi mới cơ chế xác định đối tượng trợ cấp, trợ giúp. Tiến hành tổng rà
soát đối tượng cần bảo trợ xã hội trên phạm vi toàn quốc, lập hồ sơ quản lí đối tượng
tại cộng đồng và hàng năm rà soát lại theo nguyên tắc có sự tham gia của người dân,
của cộng đồng. Từ đó, sẽ có sự chọn lựa đúng đối tượng thuộc diện xét trợ cấp, trợ
giúp cho phù hợp với tình hình của địa phương, đồng thời đơn giản hóa các thủ tục
hành chính để các đối tượng dễ dàng tiếp cận hơn với các chính sách bảo đảm xã hội.
Thứ tư, từng bước hoàn thiện cơ chế tài chính và cơ chế huy động nguồn lực.
Một trong những khó khăn dẫn đến số lượng đối tượng bảo trợ xã hội được thụ
hưởng còn thấp là do cơ chế tài chính chưa rõ ràng. Giai đoạn tới cần xây dựng cơ
chế tài chính phù hợp cho các địa phương thực hiện. Quy định về nguồn ngân sách,
quá trình lập kế hoạch từ dưới lên, trong đó có sự định lượng đối tượng, mức trợ cấp
để bố trí ngân sách tương ứng. Cần đẩy mạnh huy động đa nguồn, nguồn ngân sách
ưu tiên cho thực hiện chính sách trợ cấp, các nguồn huy động và lồng ghép khác tập
trung cho thực hiện các chương trình và dự án trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội.
Như vậy, Nhà nước phải tích cực trong công tác quản lí, đồng thời khuyến
khích các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân trong nước, các tổ chức phi chính phủ tham
gia vào hoạt động bảo đảm xã hội, tăng cường giáo dục, tuyên truyền rộng rãi trong
nhân dân về chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó, nâng
cao trách nhiệm cũng như tính tích cức tham gia các hoạt động bảo đảm xã hội của
người dân, tạo điều kiện để phát triển ổn định xã hội và an sinh đời sống cho mọi
người dân…
III. Nhu cầu công tác xã hội chuyên nghiệp trong các chính sách bảo đảm
xã hội ở nước ta

Công tác xã hội là một thuật ngữ được xem là khá mới mẻ ở nước ta hiện nay
mặc dù đó là một nghề nghiệp chuyên môn, một khoa học ứng dụng đối với cá nhân,
18


nhóm, cộng đồng…nhưng trên thực tế người ta vẫn còn “đồng hóa” công tác xã hội
với một khái niệm quen thuộc “hoạt động từ thiện”.
Hiện nay, nước ta đang bắt đầu chú trọng đến công tác xã hội và “ 30theo đánh
giá của Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Bộ Giáo dục và đào tạo, trong thời gian
từ nay cho đến năm 2010 nước ta cần phải đào tạo được khoảng 45.000 nhân viên
công tác xã hội chuyên nghiệp.
Trên thực tế, công tác xã hội là một khoa học ứng dụng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực về các vấn đề xã hội - tệ nạn xã hội, an sinh và
công bằng xã hội…, mà theo đó nhiệm vụ của công tác xã hội là thúc đẩy sự thay đổi
của xã hội, giải quyết vấn đề về mối quan hệ nhân văn, nâng cao năng lực và giải
phóng con người để nâng cao đời sống cho họ. Nói cụ thể hơn là công tác xã hội
chính là cầu nối, là chất xúc tác giúp cho các cá nhân, nhóm, cộng đồng có vấn đề
khó khăn cần được sự giúp đỡ để tự lực trong cuộc sống và hòa nhập cộng đồng. Đây
cũng chính là những yếu tố cần thiết để thực hiện chính sách bảo đảm xã hội đặc thù
ở nước ta. Thế nhưng hiện nay, lực lượng nhân viên xã hội được đào tạo đúng chuyên
ngành, chuyên môn ở nước ta là rất thiếu. Minh họa cụ thể “ở thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1992 đến 1999 tại trường đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí Minh
đã tổ chức được 8 khóa học với tổng số là 1.143 sinh viên” 31, hay ở Đồng Tháp, từ
năm 2005 đến 2007, đã bắt đầu mở và đào tạo 3 khóa với khoảng trên 125 sinh
viên…Đây là một con số khá ít ỏi so với nhu cầu của các tổ chức xã hội trong và
ngoài nước tại miền Đông và miền Tây Nam Bộ.
Cũng chính bởi những đặc thù của mình mà dường như công tác xã hội có một
mối quan hệ khá khăn khít với chính sách bảo đảm xã hội. Trên thực tế, các chính
sách bảo đảm xã hội rất cần đến các hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp với
những phương pháp, cách thức làm việc mà đem lại hiệu quả cao hơn.

1. Đối với chính sách bảo hiểm xã hội
Bởi công tác xã hội là một nghề nghiệp chuyên môn với phạm vi hoạt động
rộng lớn trên nhiều lĩnh vực. Đối với bảo hiểm xã hội, hiện nay, hoạt động công tác
xã hội chuyên nghiệp trong lĩnh vực này vẫn chưa được phổ biến. Tuy nhiên, chúng
ta đã, đang và sẽ tiếp tục đưa các nhân viên xã hội vào việc thực hiện chính sách này,
đặc biệt là trong lĩnh vực chăm sóc y tế, chăm sóc sức khỏe…Đây là một xu thế tất
yếu bởi với nền kinh tế đang ngày càng phát triển nhu cầu về đảm bảo sức khỏe của
công dân không ngừng tăng. Hơn thế, nhà nước ta đang rất chú trọng đến việc nâng
cao cũng như đảm bảo sức khỏe cho người dân. Do đó, bên cạnh vai trò của các y bác
sỹ, các nhà tâm lí, chuyên viên kĩ thuật thì nhân viên công tác xã hội cũng có tầm ảnh
hưởng rất lớn đối với việc thực hiện chính sách này. Bởi nhân viên công tác xã hội
đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu nguyên nhân………
Như vậy ta có thể thấy sự cần thiết của hoạt động công tác xã hội chuyên
nghiệp trong lĩnh vực này là rất rõ. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác xã hội chuyên
nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều mặt hạn chế bởi thiếu nguồn
30

Nguồn: www.vi.wikipedia.org.
Nguồn: ĐH Mở bán công Tp. HCM (2001), Kỉ yếu hội thảo quốc tế “nghiên cứu, đào tạo và thực hành
CTXH tại Việt Nam: Hiện trạng và tương lai, tr16.
31

19


nhân lực và vai trò của công tác xã hội vẫn chưa có tiếng nói chính thức, quan điểm
còn bất đồng cũng như còn chưa nhiệt tình hợp tác, giúp đỡ khi tiếp cận với cán bộ y
tế nói chung. Điều này làm mất đi tính tích cực của hoạt động công tác xã hội chuyên
nghiệp trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội nói chung. Do đó, việc thúc
đẩy, phát triển hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm xã

hội là một yêu cầu cấp thiết, phù hợp với quá trình phát triển của đất nước ta hiện
nay.
2. Đối với cứu trợ xã hội
Đối với lĩnh vực này hoạt động công tác xã hội có một vai trò rất quan trọng,
đặc biệt là đối với nhóm người là nạn nhân của thiên tai, nhóm người nghèo, trẻ mồ
côi, người già neo đơn, dân tộc thiểu số…
Hiện nay, phần lớn những hoạt động cứu trợ cho nhóm đối tượng thường
mang tính chất từ thiện với sự kêu gọi lòng hảo tâm của các tổ chức để thực hiện việc
cứu trợ tức thời nhằm khắc phục ngay tình trạng khó khăn khẩn cấp cho nhóm đối
tượng (bị bão lũ, nghèo đói…). Đồng thời những hoạt động này thường mang tính
“một chiều” - từ trên xuống và do các tổ chức chuyên môn hoặc không chuyên môn
thực hiện. Chính những điều này đã hình thành cho nhóm đối tượng sự phó thác ỷ lại
và thường thì chỉ mang lại sự thỏa mãn tức thời chứ chưa giải quyết triệt để vấn đề,
chưa chú ý đúng mức đến việc giúp đỡ lâu dài, tạo điều kiện cho đối tượng ổn đinh
cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Hơn thế, hoạt động “cứu trợ xã hội còn ở dạng manh
nha, bình quân và chưa huy động được đầy đủ tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của
toàn xã hội và nhân dân”32.
Từ những yếu tố đó tất yếu sẽ đòi hỏi một hoạt động mang tính chuyên môn,
chuyên nghiệp hơn mà trên hết đó là những người làm công tác xã hội - những nhân
viên xã hội. Bởi nhân viên xã hội được đào tạo chuyên môn, là người sẽ cùng làm
việc với nhóm đối tượng, giúp nhóm đối tượng vượt qua khó khăn (kể cả hoạt động
từ thiện), được nối kết với các nguồn tài nguyên và có điều kiện cũng như khả năng
cần thiết để khắc phục khó khăn tái thiết cuộc sống cũng như hòa nhập cộng đồng.
Với các công việc như hòa nhập cộng đồng, tìm hiểu, đánh giá tiềm năng cộng
đồng…, từ đó xác định ra vấn đề của cộng đồng, nhân viên công tác xã hội có ưu thế
lớn để thực hiện công việc cứu trợ tức thời cũng nhưng tiếp cận và giúp đỡ những
người, nhóm cộng đồng có vấn đề khó khăn tự lực vượt qua và tái thiết lại cuộc sống,
hòa nhập cộng đồng trong thời gian lâu dài. Đây là cơ sở cần thiết để giải quyết triệt
để các vấn đề của xã hội, giảm thiểu cứu trợ mang tính tức thời, tiến đến ổn định cuộc
sống, an sinh cho cộng đồng và phát triển xã hội bền vững. Do đó, trong lĩnh vực cứu

trợ xã hội cũng rất cần các hoạt động chuyên môn của các nhân viên xã hội để không
chỉ giải quyết những khó khăn tức thời mà còn giúp cho nhóm đối tượng, đặc biệt là
người nghèo, người dân tộc thiểu số, người bị thiên tai…có được nguồn tài nguyên
cũng như điều kiện cần thiết để khắc phục khó khăn, vươn lên tự lực trong cuộc sống.
32

Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, đã dẫn, tr 108.

20


3. Đối với ưu đãi xã hội
Như đã trình bày, chính sách ưu đãi xã hội được thực hiện ở hai nhóm đối
tượng chủ yếu là: người có công với cách mạng và người đã, sẽ cung cấp sức lao
động cho xã hội (tiêu biểu là phụ nữ và trẻ em) thì vai trò của công tác xã hội chuyên
nghiệp thể hiện qua việc đấu tranh cho bình đẳng giới, tiếp cập, tham vấn và công tác
với trẻ em đường phố, nghiện ngập…
Thực tế hiện nay, do điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn nhiều khó khăn nên
việc ưu đãi xã hội còn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số…nơi mà chính sách bảo đảm xã hội nói chung vẫn chưa thật sự
được thực hiện triệt để do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Với đòi hỏi phải thật
sự am hiểu, sâu sát, tích cực tìm hiểu nhằm giáo dục, gây ý thức, nhận thức cho cộng
đồng về những vấn đề liên quan đến ưu đãi xã hội.

KẾT LUẬN
21


Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và tương

đối ổn định, GDP bình quân đầu người đạt 640 USD vào năm 2005. Đời sống của đại
đa số nhân dân được cải thiện và không ngừng nâng cao, trong đó có cả nhóm người
là đối tượng của chính sách bảo đảm xã hội. Tuy vậy thu nhập của nhóm đối tượng
của chính bảo đảm xã hội này vẫn có nguy cơ bị tụt hậu so với các nhóm dân cư
khác, nếu không có giải pháp xử lí kịp thời sẽ rất dễ trở thành vấn đề của xã hội bức
xúc.
Quy luật chung của nền kinh tế thị trường là kinh tế tăng trưởng nhanh thì
phân hóa giàu nghèo cũng có xu hướng gia tăng, sự chênh lệch này thể hiện ở mức
thu nhập và mức sống của nhóm dân cư, cao hơn nữa là quyền sở hữu tài sản, tiền
vốn…Mặt khác, với quy luật phát triển không đồng đều, trong xã hội luôn tồn tại một
bộ phận không nhỏ cư dân là người nghèo, trong đó có đối tượng của chính sách bảo
đảm xã hội nói chung, vì họ là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống và
phần lớn do hoàn cảnh khách quan đưa đến; ngược lại, một bộ phận dân cư khác có
điều kiện và cơ hội thuận lợi hơn sẽ giàu lên nhanh chóng và làm cho xã hội có sự
phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một xu thế tất yếu và cũng là nguyên
nhân dẫn đến rất nhiều các vấn đề xã hội đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải nhanh
chóng giải quyết như: việc làm, nhà ở, chế độ trợ cấp…
Kinh tế tăng trưởng, mức sống của đại đa số nhân dân được nâng cao và cải
thiện, mức sống tối thiểu cũng từng bước được nâng cao; do vậy, chính sách, chế độ
bảo đảm xã hội cũng phải trực tiếp góp phần từng bước nâng cao chất lượng cuộc
sống của các đối tượng bảo trợ xã hội, điều này thể hiện ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, nâng dần mức trợ cấp xã hội, bảo đảm mức sống tối thiểu ngày càng
được nâng cao cho các đối tượng, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế và mức
sống trung bình của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, việc xác định chế độ trợ cấp xã
hội, trợ giúp khác phải xuất phát từ nhu cầu thực tế các đối tượng bảo đảm xã hội;
song, phải tính đến khả năng chi trả của ngân sách nhà nước theo mức độ tăng trưởng
của nền kinh tế. Tuy vậy, phải hạn chế đến mức thấp nhất việc tăng đột biến các
khoản chi tiêu cho chính sách xã hội nói chung và chính sách bảo đảm xã hội nói
riêng.
Thứ hai, bản thân việc thực hiện tốt chính sách bảo đảm xã hội nói chung cũng

góp phần quan trọng cho việc giữ vững ổn định xã hội, tạo cơ hội cho phát triển và
duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Kinh tế muốn phát triển và tăng trưởng phải dựa
trên một xã hội ổn định và an toàn. Sự ổn định, an toàn của xã hộicho phép các nhà
đầu tuư yên tâm mở rộng đầu tư sản xuất.
Việc từng bước mở rộng đối tượng bảo đảm xã hội, mở rộng chính sách trợ
cấp xã hội đã tạo điều kiện không nhỏ cho nhóm đối tượng khắc phục khó khăn để
vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Đây là một việc làm rất thiết thực và
phù hợp với nhu cầu của xã hội trong thời buổi như hiện nay.
Tuy nhiên, để chính sách bảo đảm xã hội được thực hiện tốt hơn nữa thì đòi
hỏi cần phải có một đội ngũ nhân viên có trình độ, có chuyên môn, được đào tạo bài
22


bản nhằm phát huy tối đa hiệu quả công việc của chính sách. Mà trên hết, đáp ứng
nhu cầu đó chắc hẵn công tác xã hội chuyên nghiệp là một hướng đi đúng đắn và
thích hợp nhất. Do đó, việc công tác xã hội chuyên nghiệp được đưa vào các hoạt
động xã hội, mà đặc biệt là trong chính sách xã hội nói chung là một điều hết sức cần
thiết. Đây là một xu thế tất yếu nhằm đảm bảo cho một xã hội tiến bộ và công bằng
hơn trong tương lai.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phạm Khắc Chương (chủ biên) và các tác giả (1999), Giáo dục gia đình, NXB

Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
2.


Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.
3.

Maurice Tièche - Nguyễn Hữu Trọng dịch (1990), Giáo dục trẻ con, NXB Tổng

hợp An Giang.
4.

Nguyễn Thị Oanh (1996), Gia đình nhìn từ góc độ xã hội học, ĐH Mở bán công

Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
5.

Odette Lescarret và các tác giả chủ biên (2001), Trẻ em văn hóa giáo dục - Kỉ

yếu hội thảo Việt - Pháp về tâm lí học, NXB Thế giới, Hà Nội.
6.

Hà Văn Tác biên soạn (2006), Giáo trình Gia đình học, ĐH Mở bán công Tp. Hồ

Chí Minh, Hồ Chí Minh.
7.

Viện xã hội học (1986), Tình yêu hôn nhân và gia đình trong xã hội ta, Viện xã

hội học xuất bản, Hà Nội.
8.


Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) và các tác giả (1998), Dân tộc học đại cương,

NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
9.

Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị quốc gia, 2003.

10. Tham khảo từ trang web:


24



×