Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thổng tỉnh long an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.01 KB, 98 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

NGUYỄN VĂN TẤN

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG TỈNH AN GIANG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐỒNG THÁP, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

NGUYỄN VĂN TẤN

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG TỈNH AN GIANG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành

: Chính trị học

Mã số

: 60.31.02.01

Người hướng dẫn: PGS.TS ĐOÀN MINH DUỆ

ĐỒNG THÁP, NĂM 2015


3

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS. Đoàn Minh Duệ đã
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như trong suốt
thời gian hoàn chỉnh luận văn thạc sĩ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy (cô) khoa GDCT, Phòng Đào tạo
Sau đại học Trường Đại học Vinh và Đại học Đồng Tháp đã tạo điều kiện tốt
nhất, thuận lợi nhất để giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi chân thành cảm ơn tất cả các em học sinh và Ban Giám hiệu
Trường Phổ thông thực hành sư phạm- Đại học An Giang đã giúp đỡ tôi để
tôi có điều kiện tốt nhất trong suốt quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ của
mình.
Do thời gian và kiến thức có hạn nên luận văn không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót.
An Giang, tháng 04 năm 2015

Học viên

Nguyễn Văn Tấn


4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
A. MỞ ĐẦU............................................................................................1
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...........................................................................6
1.1. Một số khái niệm cơ bản.................................................................6
1.2. Quan điểm của hồ chí minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên học sinh.........................................................................................15
Chương 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG TỈNH AN GIANG ................................................................39
2.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế, xã hội tỉnh an
giang ...............................................................................................................39
2.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông tỉnh An Giang
- thực trạng và những vấn đề đặt ra.................................................................40
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở CÁC

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN AN GIANG HIỆN
NAY ...............................................................................................................65
3.1. Những phương hướng cơ bản ..........................................................65


5
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh An
Giang hiện nay ...............................................................................................70
C. KẾT LUẬN .....................................................................................86
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................89


6
QUY ĐỊNH CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH- HĐH

Công nghiệp hóa- hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long

GDCD


Giáo dục công dân

GD- ĐT

Giáo dục và đào tạo

PTTH

Phổ thông thực hành

THPT

Trung học phổ thông

TNCS

Thanh niên cộng sản


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và
nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người đã cống hiến trọn đời
mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân thống nhất Tổ quốc, người đã làm
rạng rỡ non sông đất nước ta, để lại cho chúng ta và mai sau những di sản bất
diệt về tư tưởng và tấm gương đạo đức sáng ngời cho các thế hệ người Việt
Nam học tập, noi theo.
Trong mọi thời đại lịch sử, thanh niên luôn giữ vai trò, trọng trách to

lớn trong bảo vệ, xây dựng và kiến thiết đất nước. Với tầm nhìn của Hồ Chí
Minh, từ rất sớm Người đã đánh giá rất cao vai trò của thanh niên. Trong tác
phẩm Bản án chế độ thực dân pháp. Hồ Chí Minh viết: “Hỡi Đông Dương
đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người
không sớm hồi sinh” [28; 144]. Theo Hồ Chí Minh vận mệnh của quốc gia
dân tộc cũng một phần nhờ vào thanh niên vì họ là người chủ tương lai của
nước nhà và nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do lực
lượng ấy. Trước lúc về với thế giới người hiền Hồ Chí Minh đã để lại bản Di
chúc bất hủ và không quên căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội
chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên” [41; 612]. Để làm được điều đó, đòi hỏi
phải tăng cường công tác giáo dục toàn diện để tạo ra con người phát triển
toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ. Trong đó, vấn đề giáo dục đạo đức là vấn đề
cực kỳ quan trọng cần nghiêm túc thực hiện vì đạo đức có vai trò vô cùng to
lớn, nó là “gốc của cây”, là “ngọn nguồn của sông suối”, là thước đo lòng cao
thượng của mỗi con người và đạo đức còn tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa
xã hội. Để giáo dục đạo đức hiệu quả cần phải xác định đúng đắn vai trò của


2
chủ thể trong tự giáo dục và tự rèn luyện. Bên cạnh đó, kết hợp giáo dục nhà
trường – gia đình - xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Học sinh trung học phổ thông là lớp thanh niên đang tuổi trưởng thành,
đang phát triển về nhân cách có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ về cá tính, thích
những hoạt động tập thể, ham học hỏi, có chí tiến thủ, có khả năng vươn lên
thực hiện lý tưởng và mục tiêu cao quý của xã hội, là lứa tuổi nhạy cảm với
cái mới, cái đẹp, cái tiến bộ nhưng cũng họ dễ bị ảnh hưởng các thói hư tật
xấu ngoài xã hội. Theo Hồ Chí Minh, trong việc giáo dục và học tập “phải
chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá,
kỹ thuật, lao động và sản xuất” [38; 647]. Như vậy, có thể thấy, thanh niên

nếu được giáo dục đúng và đủ thì họ sẽ say sưa với lý tưởng cao đẹp, rèn
luyện đạo đức trong sáng, phát huy tài năng, khả năng sáng tạo và sẵn sàng hy
sinh cho lý tưởng cao đẹp của quốc gia dân tộc và tránh được những ảnh
hưởng tiêu cực của xã hội hiện đại.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra mục tiêu giáo dục ở
nước ta: Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất
cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả
năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành cho học sinh, sinh viên theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khoá VIII. Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định ở các kỳ Đại
hội sau đó. Tại Đại hội XI Đảng ta tiếp tục chủ trương: “Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện
kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi


3
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và
xã hội” [12; 130- 131].
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên bên cạnh những yếu tố tích cực thì
những mặt tiêu cực của nó là rất lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến mọi giai tầng
trong xã hội. Trong đó, thanh niên, học sinh, sinh viên là người chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất. Điều đó, dẫn đến tình trạng xuống cấp về mặt đạo đức
của thanh niên, học sinh. Ngoài trường học thì học sinh đánh nhau, cư xử
thiếu văn hóa, sử dụng các chất gây nghiện… Trong trường học, hiện tượng

học sinh coi thường nội quy nhà trường, vô lễ với thầy cô, có phản ứng tiêu
cực trước sự nhắc nhở của nhà trường… diễn ra ngày càng phổ biến.
Với thực trạng chung ấy, ở An Giang có một bộ phận không nhỏ thanh
niên học sinh có những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và trong hành vi đạo
đức như: chưa xác định động cơ học tập đúng đắn, thiếu trung thực, còn quay
cóp trong thi cử, vô lễ với thầy cô giáo, vi phạm pháp luật….
Hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, đồng thời, bản thân là một giáo viên hơn ai hết tôi thấy mình cần
phải có trách nhiệm trong việc giáo dục đạo đức theo tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh nhằm hoàn thiện nhân cách cho học sinh đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Với những lý do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: "Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học là rất cần thiết.
2. Mục đích luận văn


4
Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên để phân tích, đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
học sinh THPT An Giang hiện nay.
3. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa và luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
cho thanh niên.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng về công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho học sinh THPT An Giang, đề ra một số giải pháp và phương hướng
cơ bản nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh trong các trường THPT ở Tỉnh An Giang

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thanh niên.
- Đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trong các trường THPT ở
Tỉnh An Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh
qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về đạo đức thanh niên.
- Thực trạng về đạo đức của thanh niên và công tác giáo dục đạo đức
cho thanh niên An Giang hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về giáo
dục và giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


5
Vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích,
tổng hợp, điều tra xã hội học….
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hiện nay. Đưa cuộc vận động học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong môi trường giáo
dục.
- Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp cơ bản để nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT An Giang hiện
nay.

- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu để giáo dục đạo đức cho học
sinh trên địa bàn An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
vào giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Chương 2: Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông tỉnh An Giang
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường
trung học phổ thông trên địa bàn An Giang hiện nay


6
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Đạo đức
Với Hồ Chí Minh, đạo đức là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm,
những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu
đời, đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm,
những phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy, những giá trị đạo
đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. Hơn nữa, những giá
trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho người

thực hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Từ Hồ Chí Minh,
nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và được Người gọi là đạo
đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức mới đã lật ngược các kiểu đạo đức
cũ của giai cấp thống trị, áp bức bóc lột nhân dân lao động. Đạo đức mới
xóa bỏ những chuẩn mực đạo đức phong kiến vẫn luôn luôn trói buộc nhân
dân lao động vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ti
trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong kiến. Đạo đức mới hoàn toàn trái
ngược với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ cực đoan của giai cấp tư sản.
Nó cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu tư sản, kìm hãm con người
trong những lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi, cũng như trong vòng gia
trưởng nhỏ bé. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói: “Có người cho đạo
đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to, đạo


7
đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người ngược đầu
xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng
vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [33; 220]. Người còn nói, “Đạo
đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại,
nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người” [31; 292].
1.1.2. Đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách
mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần
quốc tế trong sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền

tảng của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là
ở hành động, việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét
trong ba mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong ba
mối quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn
mực đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân mình hay
không? Thái độ của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí,
đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với
Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý đối
với công việc hay không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn
diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc


8
công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học
tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở
mọi phạm vi từ gia đình đến ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia
đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là
một cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa
dạng của đời sống xã hội và mỗi con người.
Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý
nghĩa cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, đồng thời Người cũng chỉ
rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông dân,
thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an… Song đối tượng
Người chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng, cán bộ, đảng viên
và thanh niên.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người cho rằng, đối với con
người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa; người cách mạng

phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi
lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn, khó
khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Thực hiện nhiệm vụ cách
mạng, đòi hỏi người cách mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải
dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ “thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang” [37; 601]. Đồng thời, nó còn đòi hỏi sự phấn đấu
không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối
tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong
xã hội ta.


9
Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là
nguyên tắc và thang giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức có tác dụng chi
phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với
cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi
người theo các quan niệm thiện và ác, về cái không được làm và về nghĩa vụ
phải làm.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và đạo đức
cách mạng thanh niên
1.1.3.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn
diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc
công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học
tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở
mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến
quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một

cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng
của đời sống xã hội và của mỗi con người. Từ đó, Hồ Chí Minh khái quát
thành tư tưởng đạo đức mang tên mình.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là đạo đức Việt Nam vừa là đạo
đức cộng sản, vừa mang cốt cách của văn hóa đạo đức phương Đông vừa
mang dáng dấp của đạo đức phương Tây.
Ở phương Tây khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán,
sinh hoạt và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội. Ở phương
Đông, theo các học thuyết về đạo đức của Nho học, đạo có nghĩa là con
đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức là dùng để
nói đến đức nhân, đức tính là biểu hiện của đạo nghĩa, là nguyên tắc của luân
lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống
đặt ra mà con người phải tuân theo.


10
Hồ chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử
dụng, thuật ngữ đạo đức được dùng với 3 nghĩa: rộng, hẹp, và rất hẹp. Nghĩa
rộng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh
hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong các
quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng. Nghĩa hẹp, đạo
đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người trong quan
hệ giữa người với người trong hoạt động sống. Nghĩa rất hẹp đó là hành vi
đạo đức. Hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện quan niệm của cá
nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm
hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù không lặp lại. Hồ Chí
Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối quan hệ cơ bản
của mỗi con người (với mình, với người và với việc) và đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách
mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu
thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong
sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người
cách mạng.
Mặt khác Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức
đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường
tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng
đứng ngoài, đối lập với đạo đức đời thường. Vì vậy không thể bào chữa cho
khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi,
không liên quan gì đến cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của


11
Đảng, của cách mạng, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược
với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh đạo đức mới là đạo đức cách mạng, nó hoàn toàn
khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đó là sự kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức
của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức
Việt Nam. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngửng lên trời” [33; 220]. Đạo đức cũ- đạo đức thực dân phong kiến, là
thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm, trói buộc con người, tàn phá con người. Còn
đạo đức mới đạo đức cách mạng: “Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng
tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí
công vô tư”; “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” là “Vô luận

trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết”, “là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” [37; 609].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”
thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh
giành độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Người
cũng nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống hiến
nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt
đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và
“chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể thiếu
mặt này hay thiếu mặt kia. Như vậy, đạo đức trong quan niệm Hồ Chí Minh


12
được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của
con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những
chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm
về thiện và ác, về cái không được làm và nghĩa vụ phải làm.
1.1.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh
niên học sinh
Tùy theo đối tượng, từng thời điểm, nhất là theo yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung đạo đức cách mạng cho từng
chủ thể đạo đức nhất định. Cũng như đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên, đạo đức cách mạng của thanh niên được Hồ Chí Minh nêu tóm tắt là:
Thanh niên phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng có
thể tóm tắt trong mấy điểm:
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ

quốc, với Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện đâu cần thanh niên
có, việc gì khó có thanh niên làm, gian khổ đi trước, hưởng thu sau mọi người.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không được khoe công,
không được tự phụ.
Đối với thanh niên trong lực lượng vũ trang, theo Hồ Chí Minh, đạo
đức của họ thể hiện ở 5 điều: Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm:
- Trí: Là sáng suốt, biết địch biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết
người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu
của mình để mà tránh.
- Tín: Nói cái gì phải cho tin. Nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho
dân tin, cho bộ đội tin ở mình.
- Nhân: Là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của
mình.


13
- Dũng: Là phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều. Phải
có kế hoạch. Phải kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là
phải có lòng dũng cảm trong công việc.
- Liêm: Là không tham danh vị, không tham sống, không tham tiền, không
tham sắc. Người cán bộ đã dám hy sinh cho Tổ quốc, hy sinh cho đồng bào, hy
sinh vì nghĩa không tham gì hết [31; 259 - 260]
Đối với đoàn viên thanh niên cộng sản, theo Hồ Chí Minh, đạo đức
cách mạng của họ khác các thanh niên bình thường ở chỗ: “Bất kỳ ở cương vị
nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng
một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích
xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó
phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân”.
Ngay đối với thiếu niên, nhi đồng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức

cộng sản chủ nghĩa đối các cháu là chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ
luật…” [39; 543].
Hồ Chí Minh cho rằng: Thanh niên “Phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể…ra sức cần
kiệm xây dựng nước nhà” [38; 530].
Người khuyên thanh niên:
Các sự khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh
nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước. Các việc đáng làm, thì khó mấy
cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được. Ham làm những việc ích quốc lợi dân.
Không ham địa vị và công danh phú quý. Đem lòng chí công vô tư mà đối với
người, đối với việc. Quyết tâm làm gương về mọi mặt: Siêng năng, tiết kiệm,
trong sạch. Chớ kêu ngạo tự mãn… [31; 216 - 217].
Để thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên
làm”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho mỗi thanh niên phương hướng hành động để
từ đó có một hướng đi đúng đắn, sát thực tiễn. Thanh niên đã làm rất nhiều


14
điều quan trọng cho Tổ quốc, nhưng theo Người “Chớ vì thế mà tự cao, tự
đại, phải khiêm tốn, luôn luôn cố gắng hơn mới vượt qua mọi khó khăn để
giành lấy thành tích nhiều hơn”. Người nhấn mạnh: “Thanh niên phải xung
phong đến những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào người khác làm ít kết
quả, thanh niên phải xung phong làm cho tốt…, phải xung phong đến những
nơi khó khăn để xây dựng chủ nghĩa xã hội” [39; 470 - 471]. Xung phong là
đi trước, làm trước để lôi kéo quần chúng chứ không phải là xa rời quần
chúng. Đồng thời, Người phê phán mạnh mẽ những thanh niên chỉ bo bo nghĩ
đến lợi ích riêng của mình, tự tư, tự lợi, tham lam vật chất, ham sung sướng,
tránh khó nhọc, lười biếng, coi thường lao động, xa xỉ, kiêu ngạo…Thanh
niên bao giờ cũng có nhiều ham muốn. Nhưng nếu ham muốn chỉ hướng vào
những dục vọng tầm thường thì sẽ làm cho thanh niên sống không có mục đích

đúng đắn. Người yêu cầu thanh niên phải luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống lười biếng, lãng phí, tham lam…
Trong xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên, người
nhấn mạnh phải chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Người, thanh niên phải dũng
cảm lên án và từ bỏ mọi thói hư tật xấu như lười biếng, suy bì, kèn cựa, tham
ô, lãng phí… Người khẳng định: Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác của đạo
đức cách mạng. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta phải nêu cao tinh thần
làm chủ tập thể, từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Để chống chủ nghĩa cá nhân, Người
luôn căn dặn thanh niên phải thật thà, ngay thẳng, phải cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, phải làm những việc ích nước, lợi dân, phải thương yêu, đoàn
kết, giúp nhau cùng tiến bộ… Để giáo dục thanh niên biết hành động, theo Hồ
Chí Minh phải giúp họ xác định phương hướng đúng, nội dung phải cụ thể,
tinh thần hăng hái tự giác.


15
1.2. Quan điểm của hồ chí minh về giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên học sinh
1.2.1. Vị trí, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên học sinh
Đạo đức chính là vũ khí tinh thần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Với
quan điểm "đạo đức là gốc của người cách mạng", Hồ Chí Minh quan tâm
giáo dục thanh niên không chỉ có tinh thần làm chủ nước nhà mà phải thường
xuyên rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính; chí
công, vô tư. Người khuyên thanh niên "hăng hái, xung phong", có chí tiến
thủ, không ngại khó khăn, không nề nguy hiểm trong công tác, học tập, chiến
đấu. Song, trong cuộc sống, Người căn dặn thanh niên biết yêu thương gia
đình, kính trọng ông bà, cha mẹ, người cao tuổi, nâng đỡ, dìu dắt thiếu nhi,
quý trọng và hiếu thảo với nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân là nội
dung đạo đức mới Bác khuyên nhủ thanh niên cần thực hiện. Người cho rằng,

đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Do đó, thanh niên phải ra sức rèn
luyện đạo đức cách mạng, bởi vì:
"Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” [31; 292].
Trong công cuộc kiến thiết đất nước, Hồ Chí Minh đặc biệt kỳ vọng
vào thanh niên. Nhớ lại năm 1945, khi nước nhà vừa giành độc lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các cháu.


16
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh
niên
Sinh thời, Bác Hồ luôn quan tâm chăm lo mọi mặt cho thanh thiếu niên,
bồi dưỡng cho thế hệ trẻ thành đội hậu bị vững chắc của Đảng. Người luôn
nhắc nhở Đảng và Nhà nước phải giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, văn
hóa, khoa học kỹ thuật, rèn luyện năng lực thực tiễn cho thanh niên… Để thế
hệ trẻ kế thừa và phát triển được những kinh nghiệm của thế hệ già. Trong di
sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo thanh niên, vấn đề cơ bản và
nổi bật là quan điểm giáo dục toàn diện. Trong giáo dục toàn diện, Hồ Chí
Minh luôn coi trọng cả “đức” và “tài” và thường nhấn mạnh mối quan hệ
không thể tách rời của hai mặt đó trong sự hoàn thiện nhân cách con người
mới, để có được một người cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Trong mối quan hệ đức - tài, Hồ Chí Minh coi đức là gốc, là nền tảng
để luyện tài, để xây dựng con người mới: “Cũng như sông có nguồn mới có

nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” [31; 292].
Hồ Chí Minh coi “đức là gốc” nhưng nhìn nhận đức và tài trong mối
quan hệ biện chứng, như hai mặt không thể tách rời trong việc xây dựng một
nhân cách hoàn thiện. Quan điểm đức là gốc được hiểu theo hai khía cạnh:
Thứ nhất, đạo đức là bộ phận cốt yếu nhất của nhân cách. Sự khác nhau
giữa nhân cách này với nhân cách khác, trước hết là sự khác nhau ở mặt đức
của nó, ở hệ thống các phẩm chất xã hội của con người. Chính vì thế đạo đức
là tiêu chí hàng đầu khi xem xét, đánh giá nhân cách của một con người; là
thước đo bản chất người của một con người. Hồ Chí Minh quan niệm: “Tuy
năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng” [35; 508].


17
Thứ hai, đạo đức là cơ sở cho việc định hướng và phát triển năng lực
của mỗi cá nhân, để hoàn thiện nhân cách. Theo Hồ Chí Minh, người thực sự
có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, năng lực để làm
những việc ích quốc lợi dân. Hơn nữa, người có đạo đức thì không bao giờ đố
kỵ mà luôn yêu quý và tiến cử hiền tài. Họ luôn ủng hộ và sẵn sàng nhường
bước cho những ai có tài hơn mình và vượt lên trước.
Đạo đức là thành tố cơ bản của nhân cách, nó được biểu hiện trong lối
sống, trong quan hệ ứng xử. Như vậy nhân cách là sự phát triển về mặt xã hội
của con người. Trong quá trình tham gia hoạt động xã hội, mỗi cá thể luôn
chịu sự tác động có định hướng của xã hội. Qua đó mỗi cá thể tiếp thu và phát
triển những năng lực người đặc trưng, trưởng thành như một nhân cách xã
hội. Mặt khác, mỗi khi nhân các được hình thành, bản thân nó mang tính tích
cực, trở thành chủ thể của các quan hệ xã hội. Với tư cách là chủ thể của các
quan hệ xã hội, con người bằng hoạt động của mình tác động trở lại xã hội.

Trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách, Hồ Chí Minh xem giáo dục là yếu tố giữ vai trò chủ đạo. Người viết:
“hiền dữ phải đâu là tính sẳn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [29; 413]. Vai
trò chủ đạo của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách thể hiện:
- Giáo dục đạo đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm
đạo đức tư tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng
cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người. Qua giáo dục đạo
đức, nội dung các phạm trù, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức được nhận
thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn, góp phần điều chỉnh hành vi của con
người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong việc truyền lại cho những
thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước tạo ra.
Trên cơ sở đó giúp họ nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá


18
trị và ý nghĩa cuộc sống mang tính nhân ái, nhân văn sâu sắc. Giáo dục đạo đức
có vai trò to lớn trong việc nhân đạo hóa con người và đời sống xã hội của con
người, trong việc hình thành, củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp.
- Giáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây
dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho
mỗi đối tượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực
vào việc khắc phục những quan điểm lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị đạo
đức, chống lại các hiện tượng phi đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội,
tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa trong
mỗi nhân cách.
- Giáo dục đạo đức góp phần hình thành thái độ, niềm tin, tình cảm đạo
đức cho mọi người. Là kết quả của giáo dục và rèn luyện, tình cảm đạo đức
cho mọi người, có tác dụng hướng dẫn hành vi con người đạt giá trị đạo đức

cao nhất. Đây chính là sức mạnh tinh thần giúp cho con người vươn tới chân,
thiện, mỹ.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là để hình thành và phát triển nhân cách
cho con người. Do đó giáo dục bao gồm cả dạy người lẫn dạy chữ, trong đó
dạy người là mục tiêu cao nhất. Giáo dục hình thành nhân cách cho con người
có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Con người với nhân
cách hoàn thiện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Sự
nghiệp cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, suy cho cùng là nhằm mục tiêu giải phóng con người, hướng con người
tới chân, thiện, mỹ, làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Mặt khác,
con người có đạo đức, trí tuệ là động lực quan trọng đưa cách mạng đến thắng
lợi. Từ nhận thức đó Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo
đức xã hội chủ nghĩa…Đạo đức xã hội chủ nghĩa là cần kiệm xây dựng nước
nhà” [38; 622].


19
Suốt cuộc đời cách mạng, Bác Hồ đã dành nhiều công sức cho việc đào
tạo, bồi dưỡng các thế cách mạng Việt Nam. Với tấm lòng yêu thương bao la,
với trí tuệ sâu sắc và kinh nghiệm phong phú, Bác Hồ đã dìu dắt thế hệ trẻ,
trực tiếp tổ chức công tác đào tạo thế hệ trẻ và tự mình nêu gương sáng về
mọi mặt cho thanh thiếu niên noi theo. Trước lúc đi xa Bác còn căn dặn lại
cho toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và cần thiết”.
1.2.3. Nội dung giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho
học sinh trong các trường phổ thông trung học
1.2.3.1. Xây dựng lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, yêu nhân
dân
Trong quan hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi người đối với đất nước,

đối với nhân dân, dân tộc mình là quan hệ lớn nhất. Yêu tổ quốc, yêu nhân
dân chính là trung với nước, hiếu với dân là một phẩm chất đạo đức quan
trọng nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để giáo dục đạo
đức cho thanh niên thì phẩm chất này càng không thể thiếu được. Theo
dòng chảy của thời gian, Trung và Hiếu đã thâm nhập vào nước ta và đã
trở thành một trong những chuẩn giá trị của các triều đại phong kiến. Hồ
Chí Minh tiếp nhận Trung - Hiếu ở một tầm nhận thức mới. Người đã gọt
bỏ nội dung cũ của Nho giáo là trung với vua và đưa vào đó nội dung mới.
Hồ Chí Minh yêu cầu "Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách
mạng... Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với
Đảng, với giai cấp" [39; 471]. Trong thư gửi thanh niên ngày 2-9-1965,
Người căn dặn thanh niên: "Phải luôn nâng cao chí khí cách mạng "trung
với nước, hiếu với dân" nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng


×