Luận văn
Tổng hợp về hệ thống Tài chính
công và nhận xét hệ thống tài chính
công ở Việt Nam
Mục Lục
Phần 1 - Tổng hợp về hệ thống tài chính công.
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính công
1.1 Tổng quan về Tài chính công
1.1.1 Khái niệm Tài chính công
1.1.2 Đặc điểm của Tài chính công
1.1.3 Chức năng của Tài chính công
1.1.4 Hệ thống Tài chính công
Chương 2 : Quản lý tài chính công
2.1 Khái niệm và đặc điểm của quản lý Tài chính công
2.2 Nội dung cơ bản của quản lý Tài chính công
2.3 Tổ chức bộ máy quản lý Tài chính công
Chương 3: Vai trò của tài chính công
3.1 Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước
3.2 Tài chính công là công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội
Phần 2 – Nhận xét về hệ thống tài chính công ở Việt Nam
Danh mục viết tắt
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CCHC : Cải cách hành chính
NSNN : Ngân sách nhà nước
Lời mở đầu
Tài chính công là một tất yếu đi cùng sự tồn tại của mỗi nhà nước, nó gắn liền với hoạt động
của Nhà nước, vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện được và thực hiện tốt các chức năng
của mình đồng thời là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, Các hoạt động của bộ máy Nhà
nước; phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức tiền tệ trong quá trình tổng phân
phối tổng nguồn lực tài chính quốc gia biểu hiện thông qua các hoạt động thu, chi tiền để hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước và các chủ thể công quyền( quỹ công) nhằm
thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội của nhà nước trong việc cung cấp hàng hoá dịch vụ
công cộng cho xã hội không vì mục đích lợi nhuận
Nhận thức được tầm quan trọng của Tài chính công trong ngân sách nhà nước cũng như những
vai trò của tài chính công, em xin chọn đề tài: “Tổng hợp về hề thống Tài chính công và nhận
xét về hệ thống tài chính công ở Việt Nam”.
Đề tài của em gồm các phần chính sau:
Lời mở đầu
Phần 1 – Tổng hợp về hệ thống tài chính công.
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính công
Chương 2: Quản lý tài chính công
Chương 3: Vai trò của tài chính công
Phần 2 – Nhận xét về hệ thống tài chính công ở Việt Nam.
Kết luận.
Phần 1 - Tổng hợp về hệ thống tài chính công.
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính công
1.2 Tổng quan về Tài chính công
1.2.1 Khái niệm Tài chính công
Khi xem xét hệ thống tài chính quốc dân, dựa vào chủ sở hữu, có thể chia thành Tài chính công
và Tài chính tư. Trong đó hệ thống tài chính tư bao gồm:
+ Tài chính các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tài chính hộ gia đình.
+ Tài chính các tổ chức chính trị-xã hội, nghề nghiệp.
+ Tài chính các doanh nghiệp nhà nước (gồm cả doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ
phi tài chính và doanh nghiệp dịch vụ tài chính). Các doanh nghiệp này mặc dù có nguồn tài
chính thuộc sở hữu nhà nước nhưng hoạt động ở đây chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, không phải
vì lợi ích công cộng, lợi ích toàn xã hội nên khong được xếp vào Tài chính công.
Nếu xem xét về ý nghĩa và phạm vi, thuật ngữ Tài chính công được hiểu là sự hợp thành bởi ý
nghĩa và phạm vi của 2 thuật ngữ: “Tài chính” và “Công”.
• Về thuật ngữ “tài chính”, theo quan niệm phổ biến, tài chính được hiểu là:
- Có biểu hiện bên ngoài là các hiện tượng thu, chi bằng tiền.
- Có nội dung vật chất là các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ.
- Có nội dung kinh tế bên trong là các quan hệ kinh tế – quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị
(gọi là quan hệ tài chính) nảy sinh trog quá trình phân phối các nguồn tài chính trong quá trình
tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ.
• Về thuật ngữ “công” hay “công cộng” :
- Xét về ý nghĩa, thuật ngữ công có thể hiểu trê các khía cạnh:
+ Về quan hệ sở hữu: là sở hữu công cộng.
+ Về mục đích hoạt động: là lợi ích công cộng.
+ Về chủ thể tiến hành hoạt động: là các chủ thể công.
+ Về pháp luật điều chỉnh: là các Luật công.
- Xét về phạm vi, thuật ngữ công có thể được hiểu trên các khía cạnh:
+ Trên phạm vi toàn quốc, toàn xã hội, cả cộng đồng.
+ Trong phạm vi một nhóm người, một tập thể, một tổ chức…
- Trên pham vi cả quốc gia, công cần được hiểu là toàn quốc, toàn xã hội, cả cộng đồng; loại trừ
nghĩa hẹp một nhóm người, một tập thể, một tổ chức.
Vậy Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do nhà nước tiến hành , nó
phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công
nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung
của toàn xã hội.
1.2.2 Đặc điểm của Tài chính công
- Đặc điểm về chủ thể của Tài chính công
Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc sử dụng các quỹ công bởi Tài chính công thuộc
sở hữu Nhà nước
- Đặc điểm về nguồn hình thành thu nhập của Tài chính công
Xét về nội dung vật chất, Tài chính công bao gồm các quỹ công.
Việc hình thành thu nhập của Tài chính công mà đại diện tiêu biểu là NSNN có đặc điểm chủ
yếu là:
Thứ nhất, thu nhập của Tài chính công có thể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, cả trong và
ngoài nước; từ nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau…
Thứ hai, Thu nhập của Tài chính công có thể được lấy về bằng nhiều hình thức và phương
pháp khác nhau.. luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước quy định và mang tính
không hoàn trả là chủ yếu.
-Đặc điểm về tính hiệu quả của chi tiêu Tài chính công
Chi tiêu Tài chính công là việc phân phối và sử dụng quỹ công
Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh ở cơ sở, tầm vi mô, việc dựa vào các chỉ tiêu định
lượng để đánh giá hiệu quả các khoản chi tiêu công sẽ gặp phải khó khăn và sẽ không cho phép
có cái nhìn toàn diện. Hiệu quả của việc sử dụng các quỹ công phài được xem xét dựa trên cơ
sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra mà các việc chi tiêu công
phải đảm nhận.
-Đặc điểm về phạm vi hoạt động
Gắn liền với bộ máy nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước và vai
trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế, phạm vi ảnh hưởng của Tài chính
công rất rộng rãi, Tài chính công có thể tác động tới các hoạt động khác nhau nhất của mọi lĩnh
vực kinh tế - xã hội.
Thông qua quá trình phân phối các nguồn tài chính, Tài chính công có khả năng động viên, tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia vào các quỹ công từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi
lĩnh vực hoạt động, từ mọi chủ thể kinh tế xã hội; đồng thời, bằng việc sử dụng các quỹ công,
Tài chính công có khả năng tác động tới mọi hoạt động kinh tế - xã hội, đạt tới những mục tiêu
đã định.
1.2.3 Chức năng của Tài chính công
-Chức năng tái phân phối thu nhập
Chức năng tái phân phối thu nhập của Tài chính công là khả năng khách quan của Tài chính
công mà nhờ đó, Tài chính công được sử dụng vào phân phối và phân phối lại các nguồn tài
chính trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu công bằng.
Trong đó, chủ thể phân phối là các chủ thể công, đại diện là Nhà nước chủ yếu trên tư cách là
người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối tài chính đã thuộc sở hữu công cộng
hoặc đang là thu nhập của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội mà hà nước tham gia điều
tiết. Công bằng trong phân phối biểu hiện trên 2 khía cạnh là công bằng về mặt kinh tế và công
bằng về mặt xã hội.
-Chức năng điều chỉnh và kiểm soát
Chức năng điều chỉnh và kiểm soát của Tài chính công là khả năng khách của tài chính công để
có thể thực hiện việc điều chỉnh lại quá trình phân phối các nguồn lực tài chính và xem xét lại
tính đúng đắn, tính hợp lý của các quá trình phân phối đó trong mọi lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế quốc dân.
Giữa điều chỉnh và kiểm soát lại gắn bó mật thiết, đều nhằm mục đích cuối cùng là thực hiện
tốt các mục tiêu chiến lược đã đặt ra, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển một cách
cân đối, ổn định và vững chắc. Trên cơ sở kết quả của kiểm tra phát hiện nhưng mất cân đối,
bất hợp lý trong quá trình phân bổ các nguồn tài chính mà tiến hành những điều chỉnh cần thiết
để đảm bảo cho quá trình đó được hợp lý, đúng đắn hơn.
Thứ nhất, đảm bảo cho việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ công được đúng đắn, hợp lý
đạt kết quả tối đa nhất theo các mục tiêu, yêu cầu đã định. Việc bảo đảm đó được thực hiện,
trước hết, nhờ tính tự động của điều chỉnh đối với các quá trình phân bổ trên cơ sở các điều
kiện thực tế và đòi hỏi khách quan của sự phát triển; sau nữa nhờ qua kiểm tra mà phát hiện ra
những bất hợp lý của quá trình phân bổ để có thể hiệu chỉnh lại quá trình đó theo các mục tiêu
và yêu cầu đã định.
Thứ hai, góp phần điều chỉnh quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội khác, đảm bảo cho các hoạt động thu, chi
bằng tiền ở đó thực hiện theo đúng các quy định của chính sách, chế độ Nhà nước.
Các chức năng của Tài chính công là sự thể hiện bản chất của tài chính công. Vận dụng các
chức năng này vào hoạt động thực tiễn, Tài chính công được tổ chức thành một hệ thống bao
gồm nhiều bộ phận khác nhau để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đặc thù, cụ thể hóa các
chức năng chung của tài chính công.
1.2.4 Hệ thống Tài chính công
Hệ thống Tài chính công là tổng thể các hoạt động tài chính gắn liền với việc tạo lập hoặc sử
dụng các quỹ công và cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước nhằm phục vụ và thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ về kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận.
Với việc xác định các tiêu chí đặc trưng của Tài chính công, có thể loại trừ khỏi Tài chính công
các mắt khâu của hệ thống tài chính tư, từ đó có thể đưa ra, tài chính công gồm các bộ phận
cấu thành là:
-NSNN
-Tín dụng nhà nước
-Các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN
-Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước
-Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước
Tùy theo các cách tiếp cận khác nhau, dựa trên các tiêu thức khác nhau có thể có các cách phân
loại khác nhau về hệ thống Tài chính công. Ở đây đưa ra một số cách phân loại sau:
+ Phân loại theo chủ thể quản lý trực tiếp:
Tài chính công tổng hợp tồn tại và hoạt động gắn liền với vịêc tạo lập và sử dụng các quỹ công
nhằm phục vụ cho sự tồn tại, cho các hoạt động của bộ máy nhà nước và để Nhà nước thực
hiện các chức năng kinh tế - xã hội của mình. Có thể nói bên cạnh sự tồn tại của Nhà nước, tài
chính công tổng hợp sự tồn tại là một tất yếu.
Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính được phép thu một số
khoản thu về phí và lệ phí nhưng số thu đó trên thực tế là không đáng kể. Do đó, nguồn tài
chính đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động hầu như là do NSNN cấp. Nguồn tài chính ở đây
được duy trì sự tồn tại của bộ máy hoạt động và để các cơ quan này thực hiện các nghiệp vụ
hành chính hay cung cấp các dịch vụ hành chính công thuộc chức năng của mình.Về quản lý
tài chính của các cơ quan hành chính thì chủ thể trực tiếp quản lý chính là các cơ quan này.
Tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước, là các đơn vị thực hiện cung cấp các dịch vụ xã
hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế
quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu mang tính
phục vụ. Các đơn vị này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – xã hội. Hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế có các đơn vị sự nghiệp của các ngành như: sự nghiệp nông nghiệp, lâm
nghiệp, giao thông, thủy lợi…
Do mang tính chất phục vụ là chủ yếu, ở các đơn vị sự nghiệp số thu thường không lớn và
không ổn định hoặc không có thu. Do đó, thu nhập của hầu hết các đơn vị này chủ yếu do
NSNN cấp toàn bộ hoặ phần lớn. Cá biệt, có một số đơn vị sự nghiệp có số thu khá lớn, Nhà
nước có thể cho các đơn vị này áp dụng chế độ tài chính riêng. Với các dịch vụ kể trên, các chi
tiêu của các đơn vj này chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Cũng giống như cơ quan hành chính, các đơn vị này trực tiếp quản lý tài chính của mình.
+ Phân loại theo nội dung quản lý:
NSNN, theo điều 1 – Luật NSNN, NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện
các chức năng, nhiêm vụ của Nhà nước.
Cũng có thể hiểu NSNN là một hệ thống bao gồm các cấp Ngân sách phù hợp với hệ thống
chính quyền nhà nước các cấp. Tương ứng với các cấp Ngân sách của hệ thống NSNN, quỹ
NSNN được chia thành: quỹ Ngân sách Chính phủ TW, quỹ Ngân sách của chính quyền cấp
tỉnh và tương đương , quỹ Ngân sách của chính quyền cấp huyện và tương đương, quỹ Ngân
sách của chính quyền cấp xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
chính quyền nhà nước các cấp, quỹ Ngân sách lại được chia thành nhiều phần nhỏ để sử dụng
cho các lĩnh vực khác nhau như: phần dùng cho phát triển kinh tế; phần dùng cho phát triển
văn hóa, giáo dục, y tế; phần dùng cho các biện pháp xã hội, an ninh, quốc phòng…
Thu Ngân sách được lấy từ mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau, trong đó Thuế là hình thức
thu phổ biến dựa trên tính cưỡng chế là chủ yếu. Chỉ tiêu của NSNN nhằm duy trì sự tồn tại
hoạt động của bộ máy nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Đặc trưng
cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng NSNN là mang tính pháp lý cao gắn liền với
quyền lực chính trị của Nhà nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Tín dụng nhà nước, bao gồm cả hoạt động đi vay và hoạt động cho vay của nhà nước. Tín dụng
nhà nước thường được sử dụng để hỗ trợ NSNN trong các trường hợp cần thiết.
Thông qua hình thức tín dụng nhà nước, Nhà nước động viên các nguồn tài chính tạm thời
nhàn rỗi của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu tạm thời của các
cấp chính quyền nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chủ
yếu là thông qua việc cấp vốn thực hiện các chương trình cho vay dài hạn. Đặc trưng cơ bản
của các quan hệ tín dụng nhà nước là mang tính tự nguyện và có hoàn trả.
Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc Tài chính công theo cơ chế nhiều quỹ thành và quỹ NSNN
và các quỹ ngoài Ngân sách là phù hợp với việc phân cấp, phân công quản lý kinh tế - xã hội
của Nhà nước. Điều đó đảm bảo phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo của các địa phương,
các ngành các đơn vị quản lý kinh tế - xã hội và là điều kiện thực hiện chuên mon hóa lao động
trong quản lý Tài chính công đảm bảo cho việc quản lý đó được chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn. Va
thực tế trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy quyền tự chủ của các ngành,
các địa phương và các đơn vị cơ sở, thực hiện phương châm đa dạng hóa các nguồn vốn cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh NSNN, các quỹ ngoài ngân sách cũng giữ một vị trí hết
sức quan trọng. Trong những năm qua, các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN đã có tác dụng
tích cực trong việc khai thác , huy động các nguồn lực tài chính từ các chủ thể khai thác, cùng
với quỹ NSNN, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô. Vì
thế, trong chính sách Tài chính công, bên cạnh chính sách Ngân sách, việc nghiên cứu để có
chính sách hợp lý đối với việc quản lý và sử dụng các quỹ ngoài Ngân sách là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên cần lưu ý vấn đề sau:
Vấn đề tổ chức sao cho hợp lý về số lượng và quy mô các quỹ ngoài Ngân sách là điều cần
được tính toán, cân nhắc nhằm tránh phân tán nguồn lực của tài chính công vì nguồn tài chính
để tạo lập các quỹ TCNN ngoài NSNN đều có nguồn gốc ít nhiều từ NSNN
Các quỹ ngoài Ngân sách được quản lý theo các quy định riêng, không chịu sự điều chỉnh trực
tiếp bởi Luật NSNN là một điều gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các
quỹ, làm hạn chế tính đầy đủ, chính xác của việc phân tích đánh giá chi tiêu công, tính hạn chế
minh bạch của ngân sách; đồng thời còn làm khó tránh khỏi sự trùn, lặp về chức năng, nhiệm
vụ của quỹ, làm suy yếu tính hiệu quả của hệ thống quỹ trong việc phối hợp các quỹ ngoài
Ngân sách nhằm hỗ trợ NSNN giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Do đó, xây dựng một
hệ thống khung pháp luật thống nhất điều chỉnh hoạt động của các quỹ ngoài Ngân sách trở
thành đòi hỏi cần thiết và cấp bách.
Chương 2 : Quản lý tài chính công
2.1 Khái niệm và đặc điểm của quản lý Tài chính công
* Khái niệm quản lý Tài chính công
Quản lý Tài chính công là hoạt động của các chủ thể quản lý Tài chính công thông qua việc sử
dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển
hoạt động của Tài chính công nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Quản lý Tài chính công là một nội dung của quản lý tài chính và là một mặt của quản lý xã hội
nói chung, do đó trong quản lý Tài chính công, các vấn đề : chủ thể quản lý, đối tượng quản lý,
công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý cũng là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải
được xác định đúng đắn và nhận thức đầy đủ.
Đặc điểm quản lý tài chính công
- Chủ thể quản lý Tài chính công là nhà nước hoặc các cơ quan nhà nước được Nhà nước giao
nhiệm vụ thực hiện các hoạt động tạo lập và sử dụng các quỹ công
Đối tượng quản lý Tài chính công là các hoạt động của Tài chính công.
Quản lý Tài chính công thực chất là quản lý các quỹ công, quản lý các hoạt động tạo lập và sử
dụng thu chi các quỹ công, do có sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý yếu tố con người với quản lý
yếu tố hoạt động tài chính là đặc điểm quan trọng của quản lý Tài chính công.
-Các phương pháp quản lý Tài chính công
Trong quản lý Tài chính công, các chủ thể quản lý có thể sử dụng nhiều phương pháp quản lý
và nhiều công cụ quản lý khac nhau.
Phương pháp tổ chức được sử dụng để thực hiện ý đồ cuả chủ thể quản lý trong việc bố trí, sắp
xếp các mặt hoạt động của Tài chính công theo những khuôn mẫu đã định và thiết lập bộ máy
quản lý phù hợp với các mặt hoạt động đó của Tài chính công.
Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể quản lý Tài chính công muốn các đòi
hỏi của mình phải được các khách thể quản lý tuân thủ một cách vô điều kiện. Đó là khi các
chủ thể quản lý ra các mệnh lệnh hành chính.
Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi ích vật chất để kích thích tính tích
cực của các khách thể quản lý, tức là tác động tới các tổ chức cá nhân và cá nhân đang tổ chức
các hoạt động Tài chính công.
-Các công cụ quản lý Tài chính công
Hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực Tài chính công được sử dụng để quản lý và điều hành các
hoạt động Tài chính công được xem như một công cụ quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong quản lý Tài chính công, công cụ pháp luật được sử dụng thể hiện dưới các dạng cụ thể là
các chính sách, cơ chế quản lý tài chính; các chế độ quản lý tài chính, kế toán, thống kê; các
định mức, tiêu chuẩn về tài chính, mục lục NSNN…
Cùng với pháp luật, hàng loạt công cụ phổ biến khác được sử dụng trong quản lý Tài chính
công như: các đòn bẩy kinh tế, tài chính; Kiểm tra, thanh tra, giám sát; các tiêu chí đánh giá
hiệu quả quản lý Tài chính công…
Mỗi công cụ kể trên có đặc điểm khác nhau và được sử dụng theo các cách khác nhau nhưng
đều nhằm cùng một hướng là thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động Tài chính công nhằm đạt
tới mục tiêu đã định. Tuy nhiên, do đặc điểm của Tài chính công là luôn gắn liền với quyền lực
của Nhà nước, nên trong quản lý Tài chính công phải đặc biệt chú trọng các phương pháp,
công cụ mang tính quyền uy, mệnh lệnh để đảm bảo tính tập trung, thống nhất. Đó là các
phương pháp tổ chức, hành chính, các công cụ pháp luật, thanh tra kiểm tra. Đây cũng là một
đặc điểm quan trọng của quản lý Tài chính công.
-Nội dung vật chất của Tài chính công
Nội dung vật chất của Tài chính công là các nguồn tài chính thuộc các quỹ công. Tổng số
nguồn lực tài chính đó là biểu hiện về mặt giá trị, là đạu diện cho một lượng của cải vật chất
của xã hội. Về hình thức, các nguồn tài chính này có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản.
Về lý thuyết cũng như thực tiễn, sự vận động của các nguồn tài chính phải ăn khớp với sự vận
động của của cải vật chất mới đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Điều đó càng
có ý nghĩa và cần thiết bởi vì tổng nguồn lực tài chính thuộc các quỹ công chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn lực tài chính của toàn xã hội. Do đó, trong quản lý Tài chính công, không
những phải quản lý nguồn tài chính đang tồn tại cả dưới hình thức tiền tệ, cả dưới hình thức tài
sản, mà còn phải quản lý sự vận động của tổng nguồn lực Tài chính công – sự vận động về mặt
giá trị - trên cơ sở tính toán để đảm bảo cân đối với sự vận động của các luồng của cải vật chất
và lao động – sự vận động về mặt giá trị sử dụng – trong đời sống thực tiễn.
Vậy, kết hợp quản lý hiện vật và quản lý giá trị, đảm bảo sự thống nhất giữa vận động của giá
trị và giá trị sử dụng là một đặc điểm quan trọng khác cần hết sức lưu ý của quản lý Tài chính
công.
2.2
Nội dung cơ bản của quản lý Tài chính công
Quản lý NSNN
-Quản lý quá trình thu của NSNN
Thu NSNN được thực hiện bằng các hình thức: bắt buộc – bao gồm thuế, phí, lệ phí; bán tài
nguyên, tài sản quốc gia, các khoản thu trong các DN nhà nước. Ngoài ra, tùy theo điều kiện cụ
thể của mỗi nước mà còn có các hình thức động viên khác như hình thức trưng thu, trưng
mua… Quản lý quá trình thu NSNN chính là quản lý các hình thức động viên NSNN đó.
Yêu cầu cơ bản của quản lý quá trình thu NSNN là:
+Đảm bảo tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà nước để trang trải
các khoản chi phí cần thiết của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử.
+Đảm bảo khuyến khích thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nguồn thu của NSNN ngày càng
lớn hơn.
+Coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách,
chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Nhằm thực hiện các yêu cầu kể trên, điều quan trọng là cần xác lập được cách thức quản lý và
sử dụng công cụ quản lý thích hợp.
-Quản lý quá trình chi của NSNN
Chi NSNN có quy mô và mức độ rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực, ở mọi địa phương, ở tất
cả các cơ quan công quyền. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, chi NSNN vừa mang
tính không hoàn trả trực tiếp, lại vừa có tính hoàn trả trực tiếp. Vì vậy, việc quản lý các khoản
chi NSNN hết sức phức tạp.
Xét theo yếu tố thời hạn của các khoản chi NSNN, có thể hình dung nội dung cụ thể quản lý
các khoản chi NSNN bao gồm:
+ Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển
+ Quản lý các khoản chi thường xuyên
+ Quản lý các khoản chi trả nợ
+ Quản lý chi dự phòng
Các khoản chi trên được trang trải bằng các nguồn tài chính khác nhau.
Tổng quản lý quá trình chi của NSNN phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
+ Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các cơ quan công quyền thực hiện các nhiệm vụ được
giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước.
+ Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.
+ Gắn nội dung quản lý các khoản chi NSNN với nội dung quản lý các mục tiêu của kinh tế vĩ
mô.
Để thực hiện các yêu cầu trên, điều quan trọng là phải tìm ra những biện pháp quản lý chi
NSNN thích hợp đối với từng khoản chi cụ thể ở từng hoàn cảnh cụ thể. Trong thực tiễn, đối
với từng khoản chi có nhiều biện pháp khác nhau, song biện pháp quản lý chi NSNN chung
nhất là:
+Thiết lập các định mức chi
+Xác định thứ tự ưu tiên các khoản chi của NSNN theo mức độ cần thiết đối với từng khoản
chi trong tình hình cụ thể về phát triển kinh tế, xã hội, về việc thực hiện các chức năng của cơ
quan công quyền
+Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu
cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ
quan có thẩm quyền
+Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực
trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước.
-Quản lý việc thực hiện các biện pháp cân đối thu, chi NSNN
Cân đối thu chi NSNN là một mặt cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, nó vừa là nguyên
nhân vừa là kết quả của mặt cân đối khác trong nền kinh tế quốc dân.
-Quản lý Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là một biện pháp huy động nguồn lực tài chính do Nhà nước thực hiện
thông qua hình thức vay và cho vay đầu tư phát triển kinh tế. Tín dụng nhà nước xuất hiện
nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết tình trạng thâm hụt NSNN và yêu cầu đầu tư phát triển kinh
tế do Nhà nước thực hiện.
- Quản lý dự trữ, dự phòng tài chính của Nhà nước
Việc quản lý dự trữ, dự phòng tài chính của Nhà nước là việc xác lập các định mức trích, hình
thành các quy chế sử dụng; xây dựng chế độ kiểm tra, kiểm soát thích hợp với các đặc điểm
của quỹ dự trữ, dự phòng.
-Phân cấp quản lý NSNN
Là việc phân chia trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý hoạt động của NSNN cho các cấp
chính quyền nhằm làm cho hoạt động của NSNN lành mạnh và đạt hiệu quả cao.
Phân cấp quản lý thu NSNN: Tập trung đại bộ phận nguồn thu lớn ổn định cho Ngân sách TW,
đồng thời tạo cho Ngân sách địa phương có nguồn thu gắn với địa bàn.
Quản lý các Quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN
Các quỹ TCNN ngoài NSNN có nhiều loại khác nhau, đảm nhận các chức năng khác nhau và
có mục đích sử dụng khác nhau.
Đối với loại quỹ TCNN ngoài NSNN đảm nhận chức năng dự trữ, dự phòng nguồn tài chính từ
NSNN – chiếm tỷ trọng lớn – thì việc quản lý chủ yếu là : xác lập các định mức trích hợp lý;
xây dựng quy chế sử dụng quỹ phù hợp với mục đích cụ thể của quỹ; kiểm tra, kiểm soát chặt
chẽ việc tạo lập và sử dụng quỹ theo đúng quy định.
2.3
Tổ chức bộ máy quản lý Tài chính công
Những căn cứ và nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý Tài chính công
Những căn cứ và nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý TCC:
Hoạt động của bộ máy quản lý TCC luôn chịu sự phân phối của tổ chức bộ máy chính quyền
và nội dung, cơ chế hoạt động của các khâu của các khâu của TCC. Từ đó, việc thiết lập bộ
máy quản lý TCC phải dựa trên các căn cứ chủ yếu sau:
-Sự hình thành hệ thống các cấp chính quyền và quá trình thực hiện phân cấp quản lý kinh tế,
xã hội cho các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước.
-Căn cứ vào đặc điểm, nội dung hoạt động từng khâu Tài chính công.
Những nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý TCC:
-Quán triệt nguyên tắc thống nhất, tập trung – dân chủ.
-Thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh
thổ.
-Quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
Chức năng và nhiệm vụ của bộ máy quản lý TCC ở Việt Nam
-Chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài chính:
+Xây dựng các dự án luận, pháp lệnh và dự thảo các văn bản quy phạm khác về lĩnh vực tài
chính – ngân sách, hải quan, kế toán kiểm toán độc lập và giá cả.
+Lập dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW hàng năm, dự toán điều chỉnh NSNN trong
trường hợp cần thiết, quyết toán NSTW, quyết toán NSNN.
+Quản lý thu thuế, phí, lệ phí và thu khác của NSNN.
+Quản lý quỹ NS, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ tài chính khác của nhà nước.
+Quản lý dự trữ quốc gia.
+Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp.
+Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ của quốc gia và
các nguồn viện trợ quốc tế.
+Quản lý nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng và dịch
vụ tài chính.
+Quản lý hoạt động hải quan.
+Quản lý giá.
+Phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ và quản lý thị trường chứng khoán.
+Thực hiện hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ và đại diện của Chính phủ tại các diễn đàn tài chính quốc tế song phương, đa
phương theo sự phân công của chính phủ
+Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra tài chính đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý
của Bộ.
Chương 3: Vai trò của tài chính công
Để có thể đánh giá được vai trò của tài chính công ta căn cứ vào những tác động của nó đối với
toàn bộ nền kinh tế chính trị và xã hội của quốc gia trên nhiều góc độ khác nhau, đó cũng là
căn cứ từ chức năng mà tài chính công đảm nhiệm. Vai trò tổng quát của tài chính công đó là:
Là công cụ tập trung nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ
máy nhà nước, là công cụ của Nhà nước nhằm quản lý kinh tế thị trường. Cụ thể như sau:
3.3 Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước
*
Tài chính công là công cụ đặc lực trong tay nhà nước để có thể huy động các nguồn lực
của quốc gia, và từ những nguồn lực huy động được sử dụng cho các hoạt động của bộ máy
nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Có thể nói rằng đây là vai trò lịch sử của tài chính
công xuất phát từ nội tại của phạm trù tài chính. Một nhà nước ra đời, để có thể tồn tại duy trì
hoạt động và thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình phải có nguồn lực tài chính để chi tiêu,
thực thi các kế hoạch hành động. Đặc biệt trong thời đại kinh tế xã hội phát triển, vai trò của
nhà nước ngày càng chở nên quản trọng thì hoạt động của nhà nước càng thêm phong phú, đa
dạng, nhu cầu chi tiêu của chính phủ do đó mà không ngừng tăng lên cả về quy mô và phạm vi.
Nguồn để phục vụ cho các hoạt động chi tiêu đó ở đâu? Chính là từ thu nhập công. Nhà nước
tập trung các nguồn lực tài chính vào ngân sách nhà nước là chủ yếu, ngoài ra còn tập trung
vào các quỹ tài chính khác của nhà nước. Sau đó thực hiện chức năng phân phối và sử dụng
nhằm duy trì một cách hiệu quả hoạt động của mình và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội.
Tài chính công là công cụ tài chính mà nhà nước sử dụng để thực hiện huy động, tập trung các
nguồn lực tài chính quốc gia ( thu nhập công) nhằm duy trì hoạt động của mình trên các mặt:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Vai trò này được thể hiện cụ thể qua các ý đó tài chính công huy động nguồn lực tài chính cho
hoạt động của nhà nước, nhà nước sử dụng nguồn lực đó trong hoạt động như thế nào?, việc
huy động và phân phối nguồn tài chính đó hợp lý hay chưa?
Tài chính công là công cụ đắc lực để khai thác, động viên và tập trung các nguồn lực tài chính,
đáp ứng đầy đủ kịp thời cho nhu cầu chi tiêu mà nhà nước đã dự tính và phát sinh. Bất cứ nhà
nước nào cũng sử dụng tài chính công trong mọi mô hình tài chính công để phục vụ cho công
việc quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội. Tài chính công được sử dụng để huy động một
phần nguồn tài chính của quốc gia thông qua đóng góp bắt buộc hoặc tự nguyện của các chủ
thể trong nền kinh tế tạo lập quỹ tài chính công. Các nguồn lực tài chính này được nhà nước
huy động từ trong nội bộ nền kinh tế quốc dân và từ nước ngoài, từ mọi hoạt động và mọi
thành phần kinh tế, dưới nhiều hình thức huy động khác nhau( thuế, phí, lệ phí bắt buộc, công
trái..) trong đó thuế là công cụ chủ yếu nhất. Những khoản huy động này có thể mang tính bắt
buộc hoặc tự nguyện hoàn trả hoặc không hoàn trả, tuy nhiên tính không hoàn trả và bắt buộc
là chủ yếu.
* Tài chính công phân phối các nguồn lực tài chính đã được huy động và tập trung hình thành
quỹ công cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước theo những quan hệ tỷ lệ hợp lý. Phân phối sản
phẩm quốc dân theo hướng tích lũy để ổn định và phát triển kinh tế đồng thời cung cấp các
nguồn vốn để thỏa mãn các yêu cầu về hàng hóa và dịch vụ công cộng mà tài chính của khu
vực tư nhân không thể thực hiện được do một số đặc điểm đặc biệt của hàng hóa công. Ngoài
ra phân phối của tài chính công còn đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và
đảm bảo an ninh quốc phòng. Như vậy các quỹ tài chính công vừa đảm bảo duy trì, tăng cường
sức mạnh của bộ máy nhà nước, vừa đảm bảo thúc đầy phát triển kinh tế, thực hiện chức năng
xã hội của nhà nước đối với các lĩnh vực, các đối tượng trong nển kinh tế.
Tài chính công là công cụ để kiểm tra giám sát để bảo đảm cho các nguồn tài chính đã được
huy động một cách hợp lý hay chưa, việc phân phối và sử dụng đã tiết kiệm và đạt hiệu quả
cao nhất không? Từ đó nhà nước sẽ có những biện pháp điều chỉnh, quỹ tài chính của nhà
nước luôn được huy động nhanh nhất, chính xác hợp lý nhất, đảm bảo nguồn lực cho việc duy
trì tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước.
3.4 Tài chính công là công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội
Vai trò này được thể hiện thông qua việc nhà nước đã khai thác, vận dụng các công cụ tài chính
để điều hành nền kinh tế- xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Nền kinh tế đặc biệt là kinh
tế thị trường với những ưu điểm về khả năng sáng tạo ra hàng hoá, dịch vụ phong phú, thực
hiện được sự phát triển thịnh vượng. Về kinh tế, khuyến khích lực lượng sản xuất phát triển,
thúc đẩy quá trình tích luỹ và tập trung. Song bên cạnh đó cũng chứa đựng hàng loạt các
khuyết tật mà bản thân nó không tự giải quyết được như: mất cân đối cung cầu giữa sản xuất và
tiêu dùng gây ra lạm phát, huỷ hoại môi trường tự nhiên, chênh lệch giàu nghèo ngày càng sâu
sắc…chính vì vậy cần thiết phải có sự quản lý điều tiết của nhà nước bằng nhiều công cụ khác
nhau. Trong các công cụ quản lý điều tiết của nhà nước thì công cụ tài chính đóng vai trò quan
trọng chủ yếu.
* Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đầy chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đảm
bảo kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững. Với chức năng phân bổ nguồn lực tài chính thông
qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ công, tài chính công tác động đến việc phân bổ và góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trong toàn bộ nền kinh tế. Công cụ thuế
với các mức thuế suất và ưu đãi khác nhau đối với từng loại sản phẩm ngành nghề vùng lãnh
thổ … tài chính công có vai trò định hướng đầu tư điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế kích thích
hoặc hạn chế phát triển sản xuất kinh doanh theo từng loại sản phẩm. Với việc phân bổ nguồn
tài chính cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư vào các ngành nghề then chốt các công
trình mũi nhọn hỗ trợ tài chính cho các thành phần kinh tế trong các trường hợp
cần thiết như trợ giá trợ cấp … tài chính công góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
sản xuất kinh doanh hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng. Cùng với việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng tài chính công còn có vai trò
quan trọng trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô như : đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý,
duy trì việc sử dụng lao động ở tỷ lệ cao, hạn chế sự tăng giá đột ngột đồng loạt và kéo dài …
Vai trò này được thực hiện thông qua các biện pháp như tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ quốc
gia, quỹ hỗ trợ việc làm điều chỉnh thuế điều chỉnh chi tiêu chính phủ, phát hành trái phiếu …
* Về mặt xã hội : Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã
hội và giải quyết các vấn đề xã hội. Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công
cụ thu, chi của tài chính công để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân, giảm bớt
những bất hợp lý trong phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng và giải quyết các vấn đề xã
hội, đáp ứng được những vấn đề xã hội của nền kinh tế vĩ mô.
Một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế xã hội đó là mức sống
của dân cư, mặt bằng về văn hoá , phúc lợi xã hội. Nhu cầu về các hàng hoá dịch vụ công với
chất lượng cao như: giáo dục, y tế, văn hoá và các dịch vụ xã hội khác ngày càng tăng lên cùng
với sự phát triển của kinh tế, văn minh của xã hội đòi hỏi nhà nước phải tăng cường đầu tư
công. Hằng năm, phân bổ nguồn lực tài chính công để thực hiện các biện pháp trong sự nghiệp
giáo dục đào tạo((phổ cập giáo dục), sự nghiệp y tê( chương trình y tế cộng đồng), sự nghiệp
văn hoá, xã hội được thực hiện thông qua các khoản chi tiêu công. Ngoài ra nhà nước còn có
những khoản chi tiêu công liên quan đến phúc lợi, an sinh xã hội..nhằm nâng cao mức sống của
nhân dân. Kinh tế phát triển tăng trưởng kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền,
vùng dân cư càng gia tăng. Để thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa người
giàu và người nghèo chính phủ sử dụng những chính sách tài chính công thông qua công cụ
thuế và chi tài chính công. Thuế trực thu mà cụ thể là thuế thu nhập cá nhân lũy tiến từng phần
có vai trò điều tiết mạnh thu nhập của những người có thu nhập cao và điều tiết ở mức hợp lý
đối với các cá nhân có thu nhập trung bình hoặc thấp. Bên cạnh đó thuế gián thu như thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng thuế xuất nhập khẩu có vai trò điều tiết thu nhập thực tế có
khả năng thanh toán của dân cư bằng việc đánh thuế cao với hàng hóa dịch vụ cao cấp, đánh
thuế thấp với các mặt hàng dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống dân cư.Với các chính sách trợ
cấp trợ giá chi các chương trình mục tiêu sẽ làm giảm bớt khó khăn của người nghèo những
người thuộc diện chính sách đối tượng khó khăn… thường phát huy tác dụng cao vì đối tượng
xác được hưởng rất dễ xách định. Tuy nhiên điều tiết thu nhập của dân cư cần chú ý duy trì
mức độ chênh lệch vừa phải để tạo điều kiện cho các cá nhân có thu nhập chính đáng được
hưởng thu nhập của mình, không cao bằng thu nhập thông qua phân phối tài chính.
Như vậy, về mặt xã hội, tài chính công là một công cụ quan trọng được nhà nước sử dụng để
khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường, hướng tới việc xây dựng một xã
hội tiến bộ phát triển, văn minh và lành mạnh.
Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định của một nền kinh tế được đánh giá từ nhiều chỉ tiêu như: Đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế một cách hợp lý và bền vững, duy trì lao động ở tỷ lệ cao, thực hiện cân đối cán
cân thanh toán quốc tế, bình ổn thị trường và kiểm soát lạm phát. Để có thể đảm bảo được các
yếu tố trên nhà nước cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp trong đó biện pháp về tài chính là
thực hiện các công cụ là tài chính công cụ thể: tạo lập các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà
nước và sử dụng nó một các linh hoạt nhằm ứng phó với những biến động của nền kinh tế, Quỹ
dự trữ nhà nước, quỹ bình ổn giá là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả. Quỹ dự trữ
xuất nhậop khẩu, quỹ dự trữ ngoại tệ là công cụ nhằm góp phần duy trì sự cân đối của cán cân
thanh toán quốc tế , bình ổn tỷ giá hối đoái. Song song với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tài
chính công, các biện pháp tài chính khác như : Cắt giảm chi tiêu ngân sách, điều tiết tiêu dùng
và đầu tư qua thuế, sử dụng công cụ tín dụng nhà nước và lãi suất…được sử dụng một cách
đồng bộ để kiểm soát một cách chặt chẽ lạm phát, ổn định nề kinh tế vĩ mô. Từ những phân
tích kể trên cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, những sự mất ổn định trong quá trình phát
triển nền kinh tế- xã hội là điều không thể tránh khỏi. Do đó nhà nước cần tăng cường can
thiệp , quản lý và điều tiết của mình là cần thiết và tất yếu nhằm giữ vững sự ổn định của quá
trình phát triển. Trong bối cảnh đó, vai trò của tài chình công càng trở nên quan trọng giúp nhà
nước đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Phần 2 - Nhận xét về hệ thống tài chính công ở
Việt Nam.
Một trong những mục tiêu đối với Việt Nam khi trở thành nước có mức thu nhập bậc trung là
xác định được loại hệ thống hành chính nhà nước và hệ thống tài chính công cần thiết để duy
trì mức thu nhập đó, đảm bảo các chi phí trong khu vực công phù hợp với khả năng chi trả
của người dân và mang lại hiệu quả cũng như tăng cường năng lực phối kết hợp. Trong giai
đoạn chuyển tiếp hiện nay, nắm bắt thông tin về hệ thống tài chính công là vô cùng quan trọng.
Phần này sẽ cung cấp một tổng quan vắn tắt về hệ thống tài chính công và ngân sách tại
Việt Nam tại thời điểm năm 2011, và những gì Chương trình Tổng thể CCHC kiến nghị cần
cải tiến. Do tầm quan trọng của quy mô và chi phí của dịch vụ hành chính công đối với tài
chính công, những ước tính về quy mô và chi phí của khu vực dịch vụ hành chính công
trong năm 2011 cũng được trình bày trong phần này, song song với các kiến nghị thay đổi
của Chương trình Tổng thể CCHC. Cuối cùng, công tác quản lý ngân sách và tài chính đòi
hỏi phải có các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ trong các lĩnh vực như dự báo thu ngân
sách, kế toán, kiểm toán, cùng với công nghệ thông tin và truyền thông và các hạ tầng cơ
sở khác. Thực trạng của các kỹ năng và hạ tầng này vào năm 2011 sẽ được bàn đến, cùng
với các kiến nghị thay đổi của Chương trình Tổng thể CCHC.
Hệ thống kế toán XHCN tại Việt Nam chưa thực sự đề cao vấn đề trách nhiệm giải trình
công, mà chỉ đơn thuần là ghi chép các giao dịch tài chính và lưu giữ chúng phục vụ các
mục đích thống kê và doanh thu. Cũng như những bộ phận khác trong hệ thống Xô-viết, các
kế toán viên chỉ được coi như những người lưu giữ sổ sách, và các quy định pháp luật chỉ
quy định trách nhiệm giải trình, chứ không quy định tính hiệu lực và hiệu quả. Điều này bắt
đầu thay đổi với việc thông qua Luật Ngân sách mới năm 1996. Những cải tiến đạt được
tính đến năm 2011, không kể những cái khác, bao gồm, việc thông qua cuốn Thống kế tài
chính Chính phủ - hình thức phù hợp để cung cấp thông tin về tình hình tài khóa, ấn hành
sổ tay hướng dẫn ngân sách bắt đầu sử dụng cho năm ngân sách 1998, thông qua các quy
định thận trọng về sự đủ vốn, hoạt động cho vay giữa các bên có liên quan, các hoạt động
ngoại hối, thanh tra ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi và các khoản thế chấp, ban hành các
chuẩn mực kế toán và kiểm toán, thực hiện công bố ngân sách bắt đầu từ năm 1998, và yêu
cầu các xã công khai hoạt động ngân sách bên ngoài trụ sở của ủy ban xã. Tuy nhiên, nhiều
thách thức vẫn còn tồn tại, bao gồm sự cần thiết phải có những thông tin đáng tin cậy hơn
và kịp thời hơn về chi tiêu, những cải tiến trong mục chi tiêu được ưu tiên, tái phân bổ chi
tiêu trong từng khu vực để cải thiện kết quả đầu ra, đảo chiều tình trạng suy giảm về thu và
chi kể từ năm 1998 với mức khoảng 4 phần trăm của GDP, và xây dựng một tầm nhìn tài
khóa trung hạn .
Sự suy giảm về thu ngân sách là một trong số các nguyên nhân dẫn tới những quan ngại về
quy mô và chi phí của dịch vụ hành chính công. Trong năm 2011, số lượng cán bộ làm việc
trong khu vực dịch vụ hành chính công vào khoảng 1,3 triệu người, trong đó khoảng
200.000 người làm việc cho Chính phủ trung ương, và 1,1 triệu người làm việc tại cấp tỉnh
và huyện. Con số này không tính đến số cán bộ là công an, những người phục vụ trong
quân đội, cán bộ cấp xã, những người làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, và
những thành viên của Mặt trận Tổ quốc, hội cựu chiến binh, và những đối tượng khác nhận
trợ cấp của Chính phủ. Chi phí về tiền công và tiền lương cho khu vực dịch vụ hành chính
công, bao gồm tất cả những khỏan chi trả bằng tiền mặt, không tính đến các khoản chi trả
bằng hiện vật, và lương hưu trí, ước tính vào khoảng 3,8% GDP, góp phần đưa mức thâm
hụt ngân sách tổng thể lên tới 5% GDP (ADB, 2001; IMF, 2003, 2007).
Chương trình Tổng thể CCHC về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan đơn
vị hành chính và sự nghiệp đã có ba thành tố cần được hoàn thành vào năm 2005. Bộ Tài
chính được giao làm cơ quan chủ trì.Thiết lập các tiêu chí mới trong xây dựng và phân bổ ngân
sách cho các cơ quanhành chính dựa trên đầu ra, chất lượng của các hoạt động, và mức độ hoạt
động.Thực hiện cơ chế khoán chi phí hoạt động cho các cơ quan hành chính.
Thiết lập các cơ chế quản lý tài chính phù hợp với các cơ quan đơn vị sự nghiệp
nhằm đảm bảo tính độc lập và tính tự chủ tương đối của những cơ quan đơn vị đó
trong việc ra quyết định đối với các hoạt động của mình nhằm dần dần giảm bớt các
khoản chi từ ngân sách nhà nước, tiến tới áp dụng cơ chế tự hạch toán tại các cơ
quan đơn vị đó.
Chương trình Tổng thể CCHC không đề cập tới các biện pháp cải tiến quản lý nguồn thu,
mà việc đó được điều chỉnh bởi các quyết định khác. Liên quan đến quy mô và chi phí của
khu vực dịch vụ hành chính công, Chương trình Tổng thể CCHC vạch ra những mục tiêu
dưới đây phải hoàn thành trong năm 2005, với Ban Tổ chức Cán Bộ Chính phủ (sau này trở
thành Bộ Nội vụ) là cơ quan chủ trì:
Hệ thống lương cán bộ công chức sẽ được cải cách một cách cơ bản theo Nghị
quyết Đại hội Đảng Lần thứ 9.
Đến cuối năm 2002, dự án về cải cách tiền lương sẽ hoàn thành để có thể bắt đầu
thực hiện vào năm 2003.
Các Bộ, ngành trung ương, và Ủy ban Nhân dân tỉnh sẽ tiếp tục rà soát chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức, và thực hiện tinh giản biến chế theo Quyết
định số 207/1999/QD-TTg ngày 25/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết
số 16/2000/NQ-Chính phủ ngày 18/10/2000.
Xây dựng và ban hành các chính sách giải quyết đối tượng dôi dư."
Nghiên cứu này sẽ không đi vào chi tiết những vấn đề về các cải cách tiền lương mà chỉ tập
trung xem xét quá trình tăng lương, và các hàm ý đối với chính sách thu và chi ngân sách.
So sánh với một số quốc gia
Phần này so sánh quy mô và chi phí của dịch vụ hành chính công tại Việt Nam với các nước
trong khu vực. Sau đó dựa trên phần nghiên cứu được khái quát trong phần trên đưa ra gợi
ý những gì Việt Nam có thể học hỏi được kinh nghiệm quốc tế.
Tổ
ng số người làm việc trong khu vực chính phủ (tỉ lệ % dân số)
Mức lương TB của lao động chính phủ tính theo cấp số nhân % GDP
Hình 1 cho thấy Việt Nam so sánh như thế nào với các nước trong khu vực vào đầu và giữa
thập niên 1990 dựa trên hai chỉ số thường được sử dụng là là: số người làm việc nói chung
trong khu vực Chính phủ tính theo phần trăm của dân số, và các mức tiền lương bình quân
của Chính phủ trung ương với tư cách là một hệ số nhân của GDP theo đầu người. Số liệu
cho thấy trong khi quy mô đội ngũ cán bộ tương đối lớn, thì tiền lương bình quân lại ở mức
thấp nhất trong khu vực tính theo phần trăm của GDP
Hình 2 cho thấy những thay đổi diễn ra ở Việt Nam và một số nước trong khu vực tính đến
năm 2011. Việt Nam có sự tụt giảm mạnh về số người làm việc cho khu vực chính phủ tính
theo phần trăm của dân số, có lẽ xuất phát từ việc vai trò của chính phủ giảm đi trong một
nền kinh tế thị trường. Cũng có một sự tăng đáng kể về tiền lương tính theo phần trăm của
GDP, có lẽ là một phần là do cạnh tranh tăng lên từ các doanh nghiệp tư nhân để có các kỹ
năng cần có. Khuynh hướng tương tự như vậy cũng diễn ra tại Phi-lip-pin và In-đô-nê-xi-a,
trừ một điều là số người làm việc trong khu vực chính phủ tăng tại In-đô-nê-xi-a. Cải cách
quản lý tài chính công được phác họa trong Chương trình Tổng thể CCHC bao gồm: quản lý
ngân sách theo kết quả hoạt động, khoán ngân sách cho các cơ quan hành chính, và các
cơ chế tự chủ tài chính cho các cơ quan đơn vị sự nghiệp, là khá tương đồng với các mô
hình cải cách quản lý tài chính công như đã bàn tới ở phần trên. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy sự thống trị bền vững của một đảng duy nhất cần tạo cho đất nước một năng lực lớn
để hoạch định và duy trì các ưu tiên, qua đó để giảm thâm hụt ngân sách. Mặt khác, việc
hợp nhất giới tinh hoa trong bộ máy hành chính với bên đảng tại Việt Nam (tức là tất cả cán
bộ cấp cao của Chính phủ đều là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, và Đảng cộng
sản được công nhận là lực lượng lãnh đạo cải cách) có thể làm giảm các triển vọng của cải
cách, do không có lực lượng độc lập nào bên ngoài Đảng và Chính phủ để thúc đẩy cải
cách. Tương tự, kinh nghiệm của các nước khác cho thấy rằng các cải cách ngân sách theo
kết quả hoạt động sẽ khó thực hiện bởi vì nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và việc
thiếu nghiêm trọng một sức ép tài chính đủ mạnh làm động lực thúc đẩy ý chí chính trị. Phần
dưới đây sẽ phân tích việc thực hiện CCHC trong lĩnh vực quản lý tài chính công cho đến
nay để thấy được những dự đoán đó đã được kiểm nghiệm như thế nào.
Hình 2: Các khuynh hướng về quy mô và chi phí của số người làm việc trong khu vực chính
phủ tại Việt Nam, Phi-lip-pin và In-đô-nê-xi-a đầu thập niên 1990 và trong năm 2001
Những tiến bộ đã đạt được
Phần này sẽ xem xét đến mức độ sâu rộng và bao trùm của quá trình cải cách quản lý tài
chính công. Việc này sẽ bao gồm việc phân tích kết quả thực hiện Luật Ngân sách Nhà
nước liên quan đến CCHC và dịch vụ hành chính công, và đánh giá thực chứng rằng những
cải tiến quản lý tài chính công đã góp phần nâng cao kết quả hoạt động của khu vực hành
chính sự nghiệp. Phần này cũng sẽ xem xét đến việc đánh giá nội bộ giữa kỳ cho thấy
những gì và tiến bộ đích thực đạt được là gì.
Các khuynh hướng về quy mô và chi phí của dịch vụ hành chính công và trong thu nhập của
Chính phủ, tính từ năm 2011
Bước đầu tiên là xem xét những thay đổi về quy mô và chi phí của nền công vụ kể từ năm
2011. Chương trình Tổng thể CCHC đã thông qua mục tiêu cắt giảm 15% biên chế, dựa
trên một Nghị định của Thủ tướng Chính phủ và một Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Lần thứ 7 của Đảng. Trong đó cũng có kêu gọi cải tiến và hợp lý hóa tiền
lương. Mặc dù Chương trình Tổng thể CCHC không nêu rõ liệu hai cuộc cải cách này có
dẫn đến một sự thay đổi đích thực về chi phí của khu vực dịch vụ hành chính công hay
không, nhưng báo cáo đánh giá chi tiêu công (PER) được công bố ngay trước đó nêu rõ
mục tiêu tăng tỷ trọng thu ngân sách trong GDP (World Bank, 2000: i). Những kết quả về
quy mô của dịch vụ hành chính công trong giai đoạn 2001-2006 được trình bày trong Hình
Quy mô tổng thể của đội ngũ cán bộ công chức trong giai đoạn này đã tăng 37%, với sự
gia tăng lớn nhất ở mức 45% trong khu vực sự nghiệp. Như vậy, chỉ tiêu giảm biên chế 15%
đã không đạt được. Số liệu về tiền công và tiền lương được trình bày trong Hình 4.
Hình 3: Quy mô của dịch vụ hành chính công, 2001-2006
Nguồn: ADB, 2001 và số liệu do Bộ Nội vụ cung cấp. Cán bộ công chức xã không được coi là
một bộ phận của dịch vụ hành
chính công trong năm 2001, cho nên số liệu về quy mô không có.
Hình 4: Tiền công trung bình trong khu vực Chính phủ tại Việt Nam, 2001-2006
Nguồn: Các báo cáo Điều IV của IMF
Có thể nhận thấy một sự cải tiến đáng kể về tiền lương, tiền công, trong đó tiền công trung
bình đã tăng gấp hơn 3,5 lần, và nhiều hơn gấp hai lần so với hệ số nhân của thu nhập
GDP theo đầu người.
Tổng số người làm việc trong khu vực chính phủ (tỉ lệ % dân số)
Mức lương TB của lao động chính phủ tính theo cấp số nhân % GDP
Hình 5 xem xét đến khuynh hướng về quy mô và chi phí của dịch vụ hành chính công trong
giai đoạn này, có so sánh với hai quốc gia khác trong khu vực. Có thể nhận thấy rõ ràng là
so với tổng dân số, quy mô khu vực dịch vụ hành chính công của Việt Nam chưa có dấu
hiệu thu nhỏ lại, và hiện ở mức thấp hơn Phi-lip-pin (là nước tăng một cách tỷ lệ thuận) và
In-đô-nê-xi-a (là nước vẫn giữ nguyên). Tiền công với tư cách là phần trăm của GDP theo
đầu người ở Việt Nam hiện cao hơn so với hai nước kia.Hình 6 cho thấy các khuynh
hướng ngân sách tổng thể kể từ năm 2001. Việt Nam thành công trong việc hạn chế đà suy
giảm thu ngân sách trước đây, qua đó làm tăng tỷ trọng các khỏan thu và viện trợ trong
GDP từ dưới 22% lên tới trên 27 %, giảm bớt mức thâm hụt ngân sách từ 5% GDP xuống
còn dưới 4%. Khoảng 2/5 số tăng thu ngân sách có được nhờ thu nhập từ dầu lửa. Hình 7
cho thấy các khuynh hướng thu nhập một cách chi tiết hơn, theo đó có một sự gia tăng lớn
trong tỷ trọng thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (được thúc đẩy bởi
doanh thu từ dầu lửa), tăng từ 52 lên 71% tổng thuế thu được trong giai đoạn 2001-2008.
Cũng có mốt sự sụt giảm về tỷ trọng của thuế thương mại mậu dịch trong giai đoạn này,
chủ yếu là do các cam kết WTO và Hiệp định Thương mại Song phương Việt-Mỹ.
Hình 6: Cơ cấu của Ngân sách
Hình 7: Các khuynh hướng trong thu nhập của Chính phủ, 2001-2008