BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ KIM DUNG
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY
TRONG TÁC PHẨM “DÂN CHỦ VÀ GIÁO DỤC”
VÀ GIÁ TRỊ VẬN DỤNG TRONG VIỆC ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
2
NGHỆ AN, 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ KIM DUNG
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY
TRONG TÁC PHẨM “DÂN CHỦ VÀ GIÁO DỤC”
VÀ GIÁ TRỊ VẬN DỤNG TRONG VIỆC ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: LL&PPDHBM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Mã số: 601401.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Thế Định
2
3
NGHỆ AN, 2015
3
2
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian qua, tôi đã được sự hướng dẫn tận tình của các thầy giáo,
cô giáo trường Đại học Vinh, tôi xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu nhà
trường, Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục chính trị cùng toàn thể các
thầy cô giáo của trường Đại học Vinh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều
kiến thức chính trị quý báu, hướng dẫn nhiệt tình cho tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Đặc biệt, Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đinh Thế
Định, người đã tận tình dìu dắt, hướng dẫn cho tôi được hoàn thành luận văn
tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn lớp Cao học khóa 21 và gia đình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 9 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Dung
2
3
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn.............................................................................................................2
Mục lục..................................................................................................................3
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
B. NỘI DUNG....................................................................................................10
Chương 1. John Dewey và những tiền đề hình thành tư tưởng giáo dục của
John Dewey........................................................................................................10
1.1. Khái lược về cuộc đời, sự nghiệp, và tác phẩm “Dân chủ và giáo dục” của J.
Dewey......................................................................................................................
1.2. Những tiền đề hình thành tư tưởng giáo dục của J. Dewey.........................22
Chương 2. Nội dung cơ bản của tư tưởng giáo dục John Dewey trong tác
phẩm “Dân chủ và giáo dục”............................................................................35
2.1. Bản chất, mục tiêu và nội dung của giáo dục trong tác phẩm “Dân chủ và
Giáo Dục” của J. Dewey.....................................................................................35
2.2. Quan niệm của J. Dewey về phương pháp giáo dục trong tác phẩm “Dân
chủ và Giáo dục”.................................................................................................45
2.3. Quan niệm về giáo dục trong xã hội dân chủ trong tác phẩm “Dân chủ và
Giáo dục” của J. Dewey......................................................................................51
Chương 3. Giá trị vận dụng quan điểm của John Dewey trong tác phẩm
“Dân chủ và Giáo dục” trong việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay..65
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục ở Việt nam hiện nay.............................65
3.2. Quan điểm của J. Dewey trong tác phẩm “Dân chủ và Giáo dục” với việc
đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay................................................................75
C. KẾT LUẬN...................................................................................................94
D. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.................................96
E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................97
3
4
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh.
Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn” là bút tích bất hủ trên tấm văn bia
Tiến sĩ năm 1484 tại Văn Miếu, suốt hơn 500 năm qua nó tồn tại, nhắc nhở và
minh chứng về vai trò và chính sách đối với người hiền tài của dân tộc vì một lẽ
sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài. Bậc “Vạn thế sư
biểu” của giáo dục Việt Nam xưa Chu Văn An cũng đã từng nhận định: “Xem
trong sử sách, chưa thấy có nước coi thường sự học mà tiến bộ”. Giáo dục chính
là nền tảng phát triển của mỗi quốc gia, trình độ giáo dục luôn được coi là một
trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của một xã
hội, đóng một vai trò quan trọng trong việc “nâng cao dân trí, đào tạo lao động và
bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Đặc biệt đối với một nước vẫn đang còn nghèo
như Việt Nam, muốn đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu thì không còn
cách nào khác là phải đầu tư cho giáo dục, cho đào tạo nguồn lực con người. Giáo
dục là chìa khóa để khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới đang
diễn ra mạnh mẽ chưa từng có, đi cùng với đó là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế và hướng tới nền kinh tế tri thức đã đặt ra một vấn đề trọng yếu
là nếu Việt Nam không muốn bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên
thế giới thì phải coi trọng đến sự nghiệp giáo dục để có một nền giáo dục tiên
tiến, có hiệu quả đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi khắt khe để cạnh tranh,
vươn lên phát triển, và là khâu đột phá quan trọng bậc nhất để vượt qua những
thách thức.
Nhận thức rõ được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới, Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011)
được thông qua tại Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
4
5
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát
triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư phát triển”, giáo dục là động lực phát triển, thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cải cách, đổi mới giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ
hệ thống giáo dục quốc dân trong việc trực tiếp giáo dục và đào tạo ra nguồn
nhân lực trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, cải cách và đổi
mới một nền giáo dục phải dựa trên tính khoa học, phù hợp, không đánh mất bản
sắc dân tộc mà vẫn mang giá trị thời đại, đây thực sự là một yêu cầu không hề dễ
dàng đáp ứng.
Thực tế, cải cách và đổi mới giáo dục nước ta trong nhiều thập kỷ qua đã
có những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, đổi mới giáo dục hiện nay của đất nước
còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, đặc biệt trong xây dựng nền tảng lý luận cho
một triết lý giáo dục, do đó việc tham khảo các nhà triết học giáo dục với triết lý
giáo dục, tiên tiến, đã thành công, được kiểm nghiệm trong thực tiễn, ảnh hưởng
sâu rộng trên thế giới và những giá trị có thể đem vào vận dụng của nó là rất cần
thiết và hữu ích. Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định việc “kế thừa, phát huy
những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của thế giới” là rất quan trọng.
Triết học giáo dục của J. Dewey là một minh chứng tiêu biểu. J. Dewey
(1859 – 1952) là nhà triết học giáo dục lỗi lạc của Hoa Kỳ thế kỷ XX, những
nguyên lý giáo dục của ông hiện nay vẫn như ngọn cờ dẫn đường cho giáo dục ở
Hoa Kỳ - nền giáo dục phát triển hàng đầu, đáng mơ ước của bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới. Do vậy, việc nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những
nguyên lý giáo dục của ông là cần thiết.
Triết học giáo dục của J. Dewey được thể hiện thông qua những tác phẩm
như Trường học và xã hội (The School and Society, 1899), Cách chúng ta nghĩ
5
6
(How We Think, 1910), Kinh nghiệm và giáo dục (Experience and Education,
1938) và đặc biệt trong Dân chủ và giáo dục (Democracy and Education, 1916)
là cuốn sách tập hợp lại “toàn bộ quan điểm triết học” của ông, những tư tưởng
mang tính triết học về giáo dục được ông thể hiện tập trung trong tác phẩm này
một cách toàn diện. Các tác phẩm trên đã đặt nền móng cho tư tưởng giáo dục
tiến bộ không chỉ ở nước Mỹ mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nhấn mạnh
tầm quan trọng đặc biệt của nhà trường và giáo dục nhà trường trong tiến trình
phát triển xã hội, J. Dewey khẳng định, nhà trường là nơi trẻ em được tập dượt
cuộc sống của một xã hội dân chủ với lý tưởng đề cao tự do và phẩm giá của con
người, tính đa dạng trong cá tính và năng lực cá nhân nhằm hòa nhập tốt hơn
vào nên văn hóa chung của nhân loại. Những trải nghiệm giáo dục xuất phát từ
quan niệm về dân chủ trong giáo dục sẽ giúp các cá nhân trở thành những công
dân tích cực của xã hội, tham gia đóng góp tài năng và sức lực của mình vào sự
nghiệp xây dựng một đất nước, đồng thời chủ động trong đời sống của riêng
mình. Đây là điều mà thế hệ trẻ Việt Nam cần học tập và trang bị cho bản thân.
Giáo dục luôn là đề tài hấp dẫn và mang tầm chiến lược lâu dài cho việc
nghiên cứu. Ngày nay, khi toàn xã hội bước vào nền kinh tế tri thức, cạnh tranh
bằng chất xám, vấn đề giáo dục lại được quan tâm đặc biệt hơn nữa ở bất cứ
quốc gia nào thì nghiên cứu nó càng quan trọng hơn. Không còn quá mới mẻ với
độc giả, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một tác phẩm nghiên cứu hệ thống,
thuần túy về tư tưởng giáo dục của J. Dewey mà đặc biệt là tư tưởng giáo dục
trong Dân chủ và giáo dục. Về cơ bản, có những công trình trong nước và nước
ngoài như sau:
Cuốn Mấy trào lưu triết học phương Tây của Phạm Minh Lăng (Nxb. Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1984). Trong tác phẩm này, tác giả đã
đề cập đến thực dụng luận như là một trong ba trào lưu triết học phương Tây
hiện đại.
Cuốn Lịch sử triết học phương Tây và Triết học Mỹ do Bùi Đăng Duy và
6
7
Nguyễn Tiến Dũng đồng tác giả (Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006)
nói đến tư tưởng giáo dục của J. Dewey một phương tiện để hình thành giá trị
đạo đức, xây dựng dân chủ trong xã hội nhưng còn chung chung.
Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX – nửa
đầu thế kỷ XX (Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2008) của Đỗ Minh Hợp,
Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh. Tác phẩm này giới thiệu khái quát về thực
dụng luận và các đại diện tiêu biểu trong hệ thống lịch sử triết học phương Tây
hiện đại.
Triết lý giáo dục của J. Dewey trong Dân chủ và giáo dục ( Luận văn
Thạc sĩ của Thân Thị Hạnh, mã số 60 22 80), trình bày tương đối bao quát và
đầy đủ về triết lý giáo dục của J. Dewey trong “Dân chủ và giáo dục”.
Ngoài ra, các tác giả nước ngoài có Triết học phương Tây hiện đại của
Lưu Phóng Đồng (Nxb. Lý luận chính trị, 2004), Lịch sử triết học và các luận
đề (Nxb. Lao động, Hà Nội, 2004) do Samuel Enock Stumpf, Chân dung những
nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới (Nxb. Thế giới, 2004) của Văn
phòng Giáo dục Quốc tế, UNESCO. Nhìn chung, các tác phẩm này chỉ đề cập
sâu đến chủ nghĩa thực dụng hay toàn bộ hệ thống tư tưởng của J. Dewey.
Như vậy, đã có nghiên cứu về J. Dewey và triết lý giáo dục của ông, tuy
nhiên những nghiên cứu cho thấy tính ứng dụng của những tư tưởng giáo dục đó
và đặc biệt vận dụng Tư tưởng giáo dục của J. Dewey trong “Dân chủ và giáo
dục” trong việc đổi mới giáo dục thì không nhiều.
Với những lý do trên, tác giả chọn làm đề tài: “Tư tưởng giáo dục của J.
Dewey trong tác phẩm “Dân chủ và Giáo dục” và giá trị vận dụng trong việc
đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay” cho nghiên cứu của luận văn thạc sỹ
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là kiến giải và trình bày một cách khái quát nội dung
tư tưởng giáo dục của J. Dewey trong Dân chủ và giáo dục, từ đó rút ra giá trị vận
dụng của tư tưởng này đối với việc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay.
7
8
3. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ những điều kiện, tiền đề, quá trình hình thành tư tưởng giáo dục
của J. Dewey, đặc biệt trong Dân chủ và Giáo dục.
- Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng giáo dục J. Dewey trong Dân
chủ và Giáo dục.
- Xác định những giá trị vận dụng của tư tưởng giáo dục J. Dewey trong
tác phẩm đối với việc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng giáo dục của J. Dewey trong Dân
chủ và Giáo dục, trong đó tập trung vào các nội dung cơ bản: bản chất, nội dung
và phương pháp giáo dục, nhấn mạnh đến phương pháp giáo dục vì có liên hệ
đến phần vận dụng cho việc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của nghiên cứu được khai triển trên nền tảng các quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của
Đảng về vấn đề giáo dục và đào tạo con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp như
phương pháp nghiên cứu tác phẩm kinh điển, phương pháp logic – lịch sử,
phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu như tư tưởng giáo dục của J. Dewey trong Dân chủ và Giáo dục có
nhiều giá trị thì sự nắm vững và vận dụng tư tưởng đó vào đổi mới giáo dục Việt
Nam hiện nay sẽ đưa đến kết quả.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần giới thiệu một cách có hệ thống
những tư tưởng giáo dục của J. Dewey trong Dân chủ và Giáo dục, từ đó đóng
8
9
góp thêm tri thức vào mảng nghiên cứu về J. Dewey – triết học giáo dục cũng
như triết học chính trị xã hội của ông tại Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn gợi mở một vài giá trị vận dụng tư tưởng giáo
dục của J. Dewey trong Dân chủ và Giáo dục đối với việc đổi mới giáo dục Việt
Nam hiện nay, để qua đó có thể làm tài liệu mang tính tham khảo cho việc xây
dựng nền giáo dục phù hợp ở nước ta, cho những nghiên cứu tiếp về vấn đề này,
cho học sinh, sinh viên và một số môn khoa học xã hội khác,…
9
10
B. NỘI DUNG
Chương 1
JOHN DEWEY VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY
1.1. Khái lược về cuộc đời, sự nghiệp, và tác phẩm “Dân chủ và Giáo dục”
của J. Dewey
1.1.1. Khái lược về cuộc đời, sự nghiệp của J. Dewey
J. Dewey sinh ngày 20/10/1859 trong một gia đình bán tạp hóa tại thành
phố Burlington, bang Vermont, Hoa Kỳ. Hai năm trước khi xảy ra nội chiến,
trong suốt những năm tháng ấu thơ ông sống cùng cha mẹ tại Lake Champlain.
Cha J. Dewey kinh doanh tạp hóa và là một con chiên ngoan đạo. Người mẹ, trẻ
hơn cha J. Dewey tới 20 tuổi, là người có công không nhỏ trong quá trình định
hình nên tinh thần trách nhiệm cao trong lối sống của nhà triết học.
Năm 1875, J. Dewey vào học ở Đại học Vermount và nhận bằng cử nhân
ở đây vào năm 1879. Sau khi tốt nghiệp, ông đã lần lượt dạy học từ các trường
trung học tới đại học tại Pennsylvania và Vermount, sau đó ông chuyển hẳn sang
nghiên cứu triết học.
Năm 1882, J. Dewey vào học bậc sau đại học ở Đại học Jonh Hopkins –
trường đi tiên phong trong giáo dục sau đại học theo mô hình Đức tại Mỹ. Tại
đây, J. Dewey đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của George Sylvester Morris (1840
– 1889), một nhà duy tâm theo chủ nghĩa Hegel mới trong thời gian giảng dạy ở
đây. Hai năm sau (1884), ông đã lấy bằng tiến sĩ năm 1884 với luận văn Tâm lý
học của Kant.
Thời kỳ 1879 – 1884 có thể coi là thời kỳ bắt đầu sự nghiệp triết học của
J. Dewey dưới sự dẫn dắt của G.S.Morris. Sau khi nhận học vị tiến sĩ, ông theo
G.S.Morris đến đại học Michigan để nhận chức Chủ nhiệm khoa Triết học.
Trong thời kỳ này ông không chỉ say mê nghiên cứu triết học mà còn say mê
10
11
nghiên cứu cả tâm lý học. Việc nghiên cứu tâm lý học lại thúc đẩy J. Dewey
nghiên cứu giáo dục học.
Tại Michigan, cuộc hôn nhân với Alice Chipman đã chuyển hướng niềm
hứng thú của J. Dewey sang giáo dục, đặc biệt đã khiến ông soạn thảo bài viết
My pedagogic creed (Cương lĩnh sư phạm của tôi). Từ đây, J. Dewey bắt đầu
quan tâm đến giáo dục công, Ông là thành viên sáng lập của câu lạc bộ
Michigan Schoolmaster trong nỗ lực thúc đẩy sự hợp tác giữa các trường trung
học công lập với các giảng viên đại học.
Năm 1894 - 1904, J. Dewey chuyển đến Đại học Chicago và giảng dạy tại
đây trong 10 năm. Đây là thời gian quan trọng trong sự nghiệp tư tưởng của ông.
Tại đây ông sáng lập phân khoa giáo dục độc lập của Trường Sư phạm Thực
hành thuộc Đại học Chicago (tháng 1 năm 1896), nơi các lý thuyết và thực
nghiệm giáo dục do tâm lý học và triết học đề xuất có thể được áp dụng và thử
thách. Trường Sư phạm Thực hành thu hút sự chú ý rộng rãi và nâng cao danh
tiếng cho Đại học Chicago như trung tâm đầu tiên của tư tưởng giáo dục tiến bộ.
Những tư tưởng và đề xuất của J. Dewey trong thời gian này đã tác động mạnh
mẽ đến lý thuyết và thực hành giáo dục ở Mỹ. Mọi khía cạnh trong những quan
điểm của ông đều được ngành giáo dục hưởng ứng, theo đó nhà trường cần phải
loại bỏ cách giảng dạy truyền thống, chú trọng nhiều hơn đến cuộc sống thực tế
thay vì quá tập trung vào sách vở như trước đây, không cần quan tâm nhiều tới
truyền đạt tri thức lý luận, nên quan tâm đến đào tạo kỹ năng thực hành. J.
Dewey thường nhấn mạnh khẩu hiệu: giáo dục là cuộc sống, không phải là sự
chuẩn bị cho cuộc sống. Ở trường đại học Chicago, J. Dewey cùng một số người
cùng chí hướng thành lập một trường phái triết học thực dụng mang tên “Trường
phái Chicago” đánh dấu bước chuyển toàn diện của tư tưởng J. Dewey.
Từ năm 1904, J. Dewey về làm việc tại Đại học Columbia. Năm 1929 ông
về hưu. Mặc dù ông tiếp tục giữ cương vị giáo sư danh dự của Đại học
Columbia cho đến năm 1939 – đây là thời kỳ thực dụng luận của ông phát triển
11
12
hưng thịnh nhất; ông vẫn hoạt động cống hiến không ngừng cho đến khi qua đời
vào năm 1952 trong ngôi nhà của mình ở New York.
Có thể nói trong suốt cuộc đời sáng tạo của mình, J. Dewey đã triển khai
một cách mạnh mẽ, say mê tư tưởng triết học của mình. Tài năng của ông thể
hiện ở rất nhiều lĩnh vực, tiêu biểu nhất là trong giáo dục.
J. Dewey là nhà thực dụng rất có ảnh hưởng đến thời đại, không những
vậy ông còn là nhà tâm lý học, nhà xã hội học, một chính khách và là một nhà
giáo dục học vĩ đại. Tư tưởng triết học và sự nghiệp giáo dục đồ sộ của ông bao
trùm đời sống trí tuệ Mỹ suốt thế kỷ XX.
J. Dewey là nhà triết học thực dụng lớn sau Peirce và James. Ông đã có
những cống hiến giúp mở rộng tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng không
chỉ ở nước Mỹ mà còn trên khắp thế giới.
Các tác phẩm gây ảnh hưởng nhất của ông là những tác phẩm bàn về giáo
dục, dân chủ, đạo đức học, tôn giáo và nghệ thuật.
Tác phẩm biểu hiện tập trung tư tưởng của J. Dewey là Lôgic học: Lý
thuyết thẩm tra (Logic: The Theory of Inquinry, 1938), tác phẩm được nhiều
người ưa chuộng nhất là Tái cấu trúc triết học (Reconstruction in Philosophy,
1920), tác phẩm gây được ảnh hưởng nhất là Trường học và xã hội (The shool
and society, 1899). Ngoài ra, ông còn viết nhiều tác phẩm quan trọng khác như:
Chúng ta tư duy như thế nào (How we think, 1910), Dân chủ và giáo dục
(Demonracy and Education, 1916), Nhân tính và ứng xử (Human Nature and
Conduct, 1922), Kinh nghiệm và giáo dục (Experience and Education, 1938),…
Trong những tác phẩm này, J. Dewey đều chủ trương xây dựng một nền
giáo dục dân chủ gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt trong tác phẩm Dân chủ và
giáo dục (Demonracy and Education, 1916). Gần một trăm năm đã trôi qua, tư
tưởng giáo dục của Dân chủ và giáo dục vẫn tiếp tục được các nền giáo dục hiện
đại trên thế giới học hỏi.
12
13
Trong các tác phẩm của J. Dewey tư tưởng triết học chính trị - xã hội là
cơ sở để luận giải rõ hơn quá trình hình thành và diễn biến tư tưởng của J.
Dewey về dân chủ nói chung và dân chủ trong giáo dục nói riêng.
Triết học chính trị và triết học xã hội là hai nhánh rất gần gũi nhau của
triết học. Trên thế giới có nhiều những định nghĩa rất khác nhau về hai nhánh
triết học này. Có học giả cho rằng triết học xã hội nghiên cứu sự tương tác và
các mối liên hệ tồn tại giữa con người với xã hội, hoặc triết học xã hội là triết
học về mối quan hệ giữa con người – xã hội trong đó xã hội là tập hợp các cá
nhân cùng chia sẻ quan điểm thống nhất về cùng một vấn đề. Triết học chính trị
được xem như là nền tảng cho khoa học chính trị, nghiên cứu các vấn đề về bản
chất và quyền lực nhà nước, tự do, công lý, quyền, luật pháp. Nhìn chung đối
tượng nghiên cứu chính của triết học chính trị - xã hội là xã hội con người, các
hành động thực tế của con người trong xã hội, vai trò của cá nhân đối với xã hội
cũng như vai trò của chính phủ đối với cá nhân và các nhóm xã hội.
Triết học chính trị - xã hội của J. Dewey được xây dựng trên nền tảng sự
kết hợp các phạm trù như cá nhân, tự do, kiểm soát xã hội và hiệu quả xã hội,
bên cạnh đó cũng là sự thể hiện cách tiếp cận thực nghiệm của triết gia này dựa
trên phương pháp thẩm tra vào nghiên cứu các vấn đề chính trị - xã hội thực
tiễn. Các khái niệm nền tảng này có mối quan hệ chặt chẽ với quan niệm dân
chủ trong giáo dục của J. Dewey, đồng thời cũng giúp ta luận giải rõ hơn quá
trình hình thành và diễn biến tư tưởng của J. Dewey về dân chủ nói chung và
dân chủ trong giáo dục nói riêng.
1.1.2. Khái quát chung về tác phẩm “Dân chủ và giáo dục” của J. Dewey
J. Dewey sống trong thời đại của Chủ nghĩa tư bản Mỹ phát triển với nền
kinh tế chiếm vị trí to lớn trên thế giới. Lúc này giai cấp tư sản Mỹ đã xây dựng
một nền chính trị tự do, dân chủ trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. Tình
hình châu Âu và Mỹ từ giữa thế kỷ XIX đã có nhiều đổi mới và đang chuyển
mình mạnh mẽ. Với yêu cầu phát triển về văn hóa xã hội đã đòi hỏi một sự phản
13
14
ánh mới trong phương thức tư duy, trong triết học. Và đặc biệt nó đặt ra yêu cầu
phải xây dựng một triết lý giáo dục mới để định hình cho nền giáo dục Mỹ, tạo
điều kiện cho nước Mỹ phát triển.
Từ yêu cầu thực tiễn được đặt ra như vậy ở J. Dewey đã hình thành và
phát triển tư tưởng của mình. Khi bắt đầu xây dựng sự nghiệp triết học dần dần
thúc đẩy ông nghiên cứu về giáo dục. Ông nhận thấy hầu hết các trường học ở
Mỹ khi đó đều đi theo con đường giáo dục truyền thống không còn phù hợp với
một xã hội đang biến đổi dần dần. Việc tìm kiếm một triết lý giáo dục mới trở
thành mối bận tâm của J. Dewey, kích thích sự suy tư của ông về vấn đề này.
Khi giảng dạy triết học và làm trưởng khoa ở Đại học Chicago ông đã đề xuất
những tư tưởng cơ bản của thuyết công cụ làm nền tảng cho triết lý về giáo dục
và đã bắt đầu hình dung ra mô hình trường học phù hợp. Từ những kinh nghiệm
có được khi giảng dạy và sự nghiên cứu nghiêm túc của bản thân, tác phẩm
Dân chủ và giáo dục (Democracy and Education) ra đời là sản phẩm tư tưởng
của J. Dewey về giáo dục, nó là sự chuẩn bị lâu dài của ông khi tư tưởng về giáo
dục đã ở giai đoạn chín muồi.
Dân chủ và giáo dục là một tác phẩm được J. Dewey trình bày hết sức rõ
ràng và súc tích. Thể hiện tư tưởng của mình về vấn đề giáo dục. Tác phẩm dày
hơn 300 trang, bao gồm: Lời nói đầu và 26 chương, J. Dewey ghi rõ nội dung
tiêu đề của mỗi chương.
Tác phẩm được J. Dewey xuất bản vào năm 1916, những năm tháng thuộc
kỷ nguyên tiến bộ của nước Mỹ, vào lúc nước Mỹ đang trong giai đoạn sôi sục
với cuộc cách mạng sản xuất và công cuộc kiến thiết một đất nước hiện đại hóa.
Nhà trường kiểu cũ đã không thể đáp ứng những đòi hỏi đi liền với công cuộc
phát triển của đất nước. “Dân chủ và giáo dục” là biên bản đánh dấu cuộc chia
tay vĩnh viễn với nhà trường cổ truyền.
Tác phẩm của J. Dewey đã được dịch tại rất nhiều nước. Nhật Bản ngay
từ những năm đầu thế kỷ XX đã dịch gần như toàn bộ các tác phẩm cùa
14
15
J.Dewey. Tại Việt Nam, năm 2008 nhà xuất bản Tri thức mới bắt đầu giới thiệu
J. Dewey qua bản dịch tiếng Việt cuốn Democracy and Education (Dân chủ và
giáo dục, bản dịch tiếng Việt của Phạm Anh Tuấn).
Nội dung chính của tác phẩm xoay quanh một triết học giáo dục mới.
Triết học giáo dục này đề cao tính đa dạng trong cá tính cũng như năng lực ở trẻ
em, đề xướng sự phát triển trí tuệ mang tính xã hội và năng lực phán xét ở trẻ
em để chúng có thể tham gia tích cực vào đời sống xã hội vì mục đích chung của
cộng đồng. Theo J. Dewey, trẻ em không thể bị xem là những công dân dự bị để
nhà trường và xã hội buộc phải giáo dục, thuần hóa ở hiện tại để chuẩn bị cho
tương lai theo quan niệm truyền thống. Ngược lại, trẻ em cần được hạnh phúc
ngay trong nhà trường, ngay trong lúc chúng đang sống những tháng năm đẹp đẽ
của tuổi học trò. Cuốn sách chỉ rõ những mục tiêu và phương pháp kiến tạo nền
giáo dục công lập xét từ quan điểm nói trên, và đưa ra đánh giá có tính phê phán
đối với các lý luận về nhận thức và sự phát triển đạo đức trước đó có thể gây cản
trở cho quá trình thực hiện đầy đủ lý tưởng dân chủ. Tác phẩm Dân chủ và giáo
dục ra đời, J. Dewey được xem như là cha đẻ của trào lưu cải cách giáo dục –
đoạn tuyệt với mô hình nhà trường truyền thống và xây dựng một triết lý giáo
dục mới cho nền giáo dục công dân nước Mỹ.
Ngay từ Lời nói đầu của tác phẩm J. Dewey đã viết : “Cuốn sách này là
kết quả của một nỗ lực nhằm phát hiện và trình bày những quan niệm gắn liền
với một xã hội dân chủ, và vận dụng các quan niệm đó vào những vấn đề của
hoạt động giáo dục. Cuốn sách chỉ rõ những mục tiêu và phương pháp kiến tạo
của nền giáo dục công lập xét từ quan điểm nói trên, và đưa ra đánh giá có tính
phê phán các lý luận về nhận thức và sự phát triển của đạo đức. Các lý luận đó
đã được phát biểu trong những điều kiện xã hội trước đó song vẫn tiếp tục có
hiệu lực trong những xã hội mang danh xưng dân chủ và cản trở việc thực hiện
đầy đủ cái lý tưởng dân chủ. Như [nội dung] cuốn sách này sẽ dần dần bộc lộ,
triết lý được trình bày ở đây gắn với sự trưởng thành của dân chủ với sự phát
15
16
triển của phương pháp thực nghiệm trong các môn khoa học, các khái niệm về
tiến hóa của khoa sinh học, và sự tái tổ chức lại nền công nghiệp, đồng thời chỉ
ra những thay đổi trong nội dung và phương pháp của giáo dục do sự đòi hỏi của
những phát triển đó” [5, tr.15].
Với J. Dewey ông đặc biệt nhấn mạnh đến vị trí quan trọng của giáo dục
nhà trường, cho rằng cần phải có một triết lý giáo dục mới trong điều kiện xã hội
đã thay đổi, sao cho nó phù hợp với bước phát triển của xã hội. Không đơn giản
khi J. Dewey đặt tên cho tác phẩm của mình là Dân chủ và giáo dục. Hạt nhân
quan trọng xuyên suốt tác phẩm đó chính là tính dân chủ, một xã hội dân chủ thì
trước hết phải thể hiện ở tính dân chủ trong giáo dục.
Trong tác phẩm J. Dewey đề cập đến việc giáo dục phải gắn với thực tiễn,
chủ trương xây dựng một nền giáo dục học đi đôi với hành, lý thuyết gắn bó
chặt chẽ với thực tiễn. Vậy có cái gì đáng quan tâm đến tác phẩm này vì việc
chủ trương học đi đôi với hành không phải chỉ đến J. Dewey mới có. Ta sẽ thấy
trong Dân chủ và giáo dục, chủ trương này được xây dựng với tinh thần “Giáo
dục chính là bản thân cuộc sống” (Education is life itself).
“Giáo dục chính là bản thân cuộc sống” và do vậy J. Dewey khẳng định
không có giáo dục chung cho tất cả mọi người. Ông đưa ra vai trò, bản chất,
mục tiêu, chức năng của giáo dục cũng như chủ trương xây phương pháp giáo
dục mới. Nhà giáo dục người Mỹ này đã nhấn mạnh đến tính chủ thể và ở đây
người học chính là chủ thể trong hoạt động giáo dục. Hay nói cách khác, giáo
dục phải là một quá trình dân chủ sâu sắc.
Tóm lại, Dân chủ và giáo dục của J. Dewey là một hệ thống quan điểm
khá toàn diện và sâu sắc, nó vẫn còn có những giá trị cho đến ngày nay.
1.2. Những tiền đề hình thành tư tưởng giáo dục của J. Dewey
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ XIX, các nước tư bản chủ nghĩa chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, đặc biệt nước Mỹ đã trải qua những thay đổi to lớn. Đất nước
16
17
dần phát triển và trưởng thành, những biến đổi về tình hình kinh tế đã kéo theo
nhiều sự thay đổi trên các lĩnh vực chính trị,văn hóa, xã hội và khoa học.
Sau cuộc nội chiến (1861 – 1865), chủ nghĩa tư bản Mỹ phát triển một
cách vượt bậc. Nước Mỹ do đặc điểm lịch sử nên không gặp phải sự cản trở của
thế lực phong kiến đã phát triển khá thuận lợi. Mỹ là nước sớm chú trọng đến sự
phát triển khoa học công nghệ nên sớm đầu tư cho việc phát minh khoa học
công nghệ, điều đó cho phép Mỹ có thể áp dụng kĩ thuật tiến tiến nên năng suất
lao động khá cao.
Những điều kiện thuận lợi trên đã cho phép nền kinh tế Mỹ phát triển có
tính đột phá và đạt những thành tựu to lớn. Thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ
tiến bộ trong lịch sử phát triển nước Mỹ. Ngành công nghiệp trở thành đầu tàu
lôi kéo sự đi lên của các ngành khác với quá trình tập trung hóa cao độ và sự
hình thành các tập đoàn công nghiệp và các công ty tập trung. Nông nghiệp với
sự áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ và được sự hỗ trợ của chính
phủ cho đầu ra các sản phẩm, kết hợp với dự án hợp tác nghiên cứu với các
trường đại học, các viện nghiên cứu đã cho ra đời những nông sản phẩm chất tốt
và có khả năng nuôi trồng cao, khiến nông nghiệp không chỉ phục vụ được nhu
cầu của đại đa số người dân trong nước mà còn có thể xuất khẩu. Trong bối cảnh
vận dụng học thuyết kinh tế tự do của Adams Smith (17230-1790), nhà nước
không can thiệp vào các hoạt động kinh tế mà để nền kinh tế tự điều tiết theo
quan hệ cung – cầu và “bàn tay vô hình” của thị trường với niềm tin, nếu chính
phủ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển, hầu hết các tầng lớp cư
dân khác sẽ được hưởng lợi từ sự phát triển đó. Hàng loại các tập đoàn tài chính,
ngân hàng lớn lần lượt ra đời. “Từ năm 1865 đến năm 1894, Mỹ từ nước đứng
thứ tư trên thế giới đã vươn lên hàng đầu về sản xuất công nghiệp” [25].
Tuy nhiên, đó là mặt hiệu quả của nền kinh tế, song song cùng những phát
triển là kéo theo những mâu thuẫn trong nội tại của nó như hiện tượng các ngành
17
18
công nghiệp lần lượt rơi vào tay một số nhà tư bản kếch sù, liên minh với nhau
thành những Tơrớt – một hình thức độc quyền cao và phổ biến ở Mỹ.
Sự phát triển của nên kinh tế trong thời kỳ này cũng đã tác động không
nhỏ tới đời sống chính trị. Đảng Cộng hòa chiếm được lòng tin của dân chúng,
có được sự ủng hộ quan trọng về chính trị trong suốt thời gian cầm quyền. Tuy
nhiên, người dân vẫn tiếp tục mong muốn về một chính quyền dân chủ hơn, hạn
chế các tập đoàn công nghiệp và kiểm soát tư bản độc quyền, giảm tệ nạn ở các
thành phố và thừa nhận các tiêu chuẩn đạo đức của tầng lớp trung lưu, chủ yếu
là đội ngũ lao động “cổ cồn trắng” với số lượng ngày càng đông đảo theo sự
phát triển của các siêu đô thị và mạng lưới công nghiệp dịch vụ đa dạng. Từ
những mong muốn của người dân, mô hình dân chủ ở các tiểu bang dần chuyển
sang hình thức dân chủ trực tiếp. Người dân trực tiếp bầu thượng nghĩ sĩ, thay
cho việc thượng nghị sĩ được cơ quan lập pháp bang lựa chọn. Thời kỳ này,
cũng là thời kỳ phụ nữ được trao quyền bầu cử, là kết quả tích cực cho quá trình
đấu tranh giải phóng phụ nữ kéo dài hàng thập niên ở Mỹ.
Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng một cách mạnh mẽ đã bắt đầu có dấu
hiệu sa sút từ những năm 1920. Ngay sau đó, Nước Mỹ phồn vinh và thịnh
vượng trong hơn một thế kỷ từ thời lập quốc đã bị thử thách nghiêm trọng trong
cuộc Đại suy thoái kinh tế (Great Depression) từ 1929 – 1933. Cuộc suy thoái
gần như đã phá hoại hoàn toàn nền kinh tế Mỹ non trẻ. Hàng loạt thế lực tài
chính hùng mạnh sụp đổ, lạm phát tiền tệ, các ngân hàng vỡ nợ, các tập đoàn
công nghiệp liên tục phá sản, nông sản được sản xuất với số lượng lớn nhưng
không tìm kiếm được đầu ra dần trở nên rẻ mạt, trong khi các hàng hóa khác trở
nên khan hiếm và trở nên hết sức đắt đỏ, hàng trăm người không tìm được việc
làm, đời sống người dân trở nên hết sức khó khăn….
Sự khủng hoảng của nền kinh tế đã tạo ra thử thách lớn đối với bối cảnh
chính trị nước Mỹ lúc này. Khi đó mối quan tâm hàng đầu của nước Mỹ là : làm
sao để thoát khỏi khủng hoảng và khôi phục lại nền kinh tế phát triển thịnh
18
19
vượng như trước đây. Nơi từng được gọi là mảnh đất của những vận hội và niềm
hy vọng giờ đây trở thành miền đất đầy âu lo và tuyệt vọng. Cuộc bầu cử tổng
thống năm 1932 với sự thắng lợi của ứng viên Đảng Dân chủ Franklin Roosevelt
(1882 – 1945) một lần nữa khẳng định niềm tin của người dân Mỹ với những tín
điều về dân chủ. Quá trình thực hiện kinh tế mới (New Deal) của tổng thống
Roosevelt với bản chất từ bỏ chủ nghĩa tư bản phi điều tiết, trở lại kiểm soát hệ
thống kinh tế của đất nước với việc đưa ra hàng loạt cải cách luật pháp bang và
liên bang, tạo việc làm cho thanh niên qua các dự án công cộng, hỗ trợ các
doanh nghiệp, cắt giảm sản lượng và trợ cấp cho nông nghiệp….Việc can thiệp
vào thị trường của chính phủ Mỹ đã dần đưa kinh tế Mỹ trở về quỹ đạo vốn có,
xây dựng một liên minh chính trị vững chắc và thu hút sự quan tâm của người
dân đối với chính phủ. Kết quả là, cuộc suy thoái chính thức kết thúc năm 1941
khi nước Mỹ có ý định tham chiến vào Thế chiến lần thứ hai.
Đây cũng là thời kỳ chứng kiến bước chuyển mình của Mỹ từ một nước
với nền cộng hòa non trẻ sang một nước đế quốc với xu hướng mở rộng tầm ảnh
hưởng ra khu vực Thái Bình Dương và khu vực Mỹ-La tinh với hàng loạt những
quyết sách như mua lại Alaska từ Nga (1867), kiểm soát Puerto Rico, Guam,
Cuba và quần đảo Philippines ( sau khi thắng Tây Ban Nha năm 1898), sáp nhập
quốc đảo Hawaii (1893), xây dựng kênh đào Panama (1914) nhằm đáp ứng
những toan tính về vị trí địa lý…. Đồng thời Mỹ cũng dần từ bỏ thế đứng trung
lập hay còn gọi là chủ nghĩa biệt lập Mỹ trong ngoại giao thời Chiến tranh thế
giới thứ nhất để chính thức bước vào Chiến tranh thế giới thứ hai sau sự kiện
Trân Châu Cảng. Đây cũng là giai đoạn chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới phát
triển như vũ bão dù chịu sự tác động không nhỏ của suy thoái kinh tế, các thế
lực Châu Âu và Nhật Bản cùng cạnh tranh nhằm tranh giành quyền ảnh hưởng
tại Châu Á già cỗi và đầy mệt mỏi trong những ngày tháng cuối cùng của chế độ
phong kiến.
19
20
Văn hóa – xã hội cũng chiu sự tác động không nhỏ do sự biến đổi của nền
kinh tế. Trong trật tự công nghiệp mới, ranh giới thành thị và nông thôn càng trở
nên sâu sắc. Thành phố trở thành trung tâm đầu não quy tụ tất cả các nguồn lực
năng động nhất: doanh nghiệp, tổ chức tài chính, lực lượng lao động….Đại suy
thoái cũng khiến tình trạng phân hóa sâu sắc của nhóm người nghèo và người
giàu nắm giữ phần lớn của cải trong xã hội trở nên nghiêm trọng hơn. Tình trang
bất bình đẳng giới vẫn tiếp diễn khi công nhân nữ chỉ nhận được số lương bằng
¼ công nhân nam và nạn phân biệt chủng tộc cực đoan đối với người Mỹ da đen
vẫn kéo dài dai dẳng cho tới những thập niên 1950 của thế kỷ XX, thời kỳ nở rộ
phong trào đòi quyền công dân cho phụ nữ và người Mỹ gốc Phi ở các bang
miền Nam. Quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Tây với những miền đất của
người da đỏ trong những năm cuối thế kỷ XIX và di chứng của quá trình sử
dụng lao động nô lệ da đen ở các bang phía Nam đã gây nên những xung đột
không đáng có giữa cư dân bản địa và những người khai hoang.
Trong khi đó, tự do tín ngưỡng và tôn giáo vẫn được đảm bảo từ thời lập
quốc. Giáo dục công những năm cuối thế ký XIX đã được triển khai rộng khắp
và miễn phí. Hệ thống giáo dục được xây dựng đảm bảo tiêu chí phổ cập, toàn
diện, chuyên nghiệp và phi tập trung hóa.
Về triết học, chủ nghĩa Heghel mới bùng phát trên đất Mỹ với mục tiêu
khôi phục triết học Heghel nhằm giải quyết vấn đề cũng như thách thức chính trị
- xã hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Điều này đã
có ảnh hưởng không nhỏ tới nền học thuật nước Mỹ trong những năm 1860. Một
thời gian sau, dòng triết học này đã bị triết học thực dụng phê phán và thay thế.
Triết học thực dụng ra đời trong những năm 1871 đến 1874 tại câu lạc bộ
Siêu hình, thuộc đại học Havard do Charles Sanders Peirce (1839 – 1914) và
một số thành viên khác sáng lập. Sau này được William James (1842 – 1910)
phát triển. John Dewey (1859 – 1952) được biết đến là người đã nêu cao ngọn
cờ thực dụng trên hầu hết những khía cạnh của cuộc sống.
20
21
Khoa học kỹ thuật cũng có bước phát triển toàn diện, trong đó có ảnh
hưởng lớn nhất đối với khoa học Mỹ phải kể đến là Thuyết Tiến hóa của
Darwin mà chính chủ nghĩa thực dụng đã lấy lý thuyết này làm căn cứ khoa học.
Như vậy, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, khoa học tự nhiên thì
cũng đòi hỏi khoa học nhân văn cũng phải thay đổi theo. Chính bối cảnh kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội ấy đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự ra đời triết học
chính trị - xã hội của J. Dewey nói chung và sự phát triển những suy tư về dân
chủ trong giáo dục của ông nói riêng.
1.2.2. Những tiền đề tư tưởng
J. Dewey sống trong một giai đoạn chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ
của lịch sử nước Mỹ với những biến động nhất định trên nhiều lĩnh vực từ kinh
tế tới chính trị, văn hóa, xã hội. Điều này đã để lại dấu ấn tương đối rõ nét trong
quá trình vận động và biến chuyển triết học J. Dewey nói chung và chính quan
điểm về dân chủ trong giáo dục của ông nói riêng.
Trong sự hình thành tư tưởng giáo dục của mình, bên cạnh điều kiện kinh
tế - xã hội nước Mỹ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đặt ra, sự cộng hưởng với
tiền đề tư tưởng giúp cho tư tưởng đó trở thành một hệ thống lý luận. J. Dewey
cũng có những tư tưởng kế thừa từ trong nền triết học và đặc biệt là tư tưởng
triết học của Wilhelm von Humboldt và hai bậc tiền bối trong chủ nghĩa thực
dụng đó là Charles Sander Peirce và William James.
Sự ảnh hưởng của Wilhelm von Humboldt đối với tư tưởng giáo dục của
J.Dewey
Wilhelm von Humboldt (1767 - 1835) là một trong những đại biểu của
thời đại Khai sáng Đức. Ông là người đương thời của các hệ thống triết học lớn
của Đức từ Kant đến Heghel. Là người sáng lập ra Đại học Humboldt (Berlin,
Đức). Wilhelm von Humboldt thường được biết đến với tư cách là một nhà giáo
dục, người khởi xướng tư tưởng cải cách giáo dục dưới thời nước Đức bị quân
đội Napoleon chiếm đóng. Hiện nay, những nghiên cứu về Humboldt đồng thời
21
22
cũng coi ông là người đặt nền móng cho nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, chú
giải học và triết học ngôn ngữ. Những tác phẩm chính của Humboldt đã được
dịch sang tiếng Anh bao gồm: Học thuyết và giáo dục con người (Theory of
Human Education) (1789), Các bài luận về Mỹ học I (Essays in Aethetiics I: On
Goethe’s Herrmann und Dorothea) (1799), Nhiệm vụ và Phạm vi của Chỉnh thể
(The spheres and Duties of Government) (1854)…..
Có thể nói, mô hình đại học Humboldt có một ý nghĩa rất quan trọng đến
hệ thống giáo dục đại học thế giới ngày nay. Theo mô hình này đại học không
chỉ là trung tâm đào tạo nhân tài, mà còn là trung tâm khoa học và văn hóa, với
tự do học thuật được coi là quan trọng nhất.
Với Humboldt giáo dục là một tiến trình và kết quả của việc đào luyện cá
nhân từ bên trong. Humboldt đã ra sức đề xướng sự tự do học thuật và phác thảo
một cấu trúc hoàn toàn mới mẻ cho toàn bộ nền giáo dục. Cấu trúc này đã phát
huy tác dụng và còn đầy đủ tính thời sự cho đến ngày nay. Đó chính là công lao
lịch sử của Humboldt. Cụ thể là việc thiết kế nội dung cho hệ thống giảng dạy:
chia làm ba cấp học: tiểu học, trung học và đại học với sự phân biệt rõ rệt ranh
giới và tính chất của mỗi cấp. Trong đó đại học có chức năng nghiên cứu và đào
tạo trí thức dứt khoát không được phép là trường phổ thông cấp 4. Ông nhấn
mạnh đại học phải chia làm hai bộ phận rõ rệt: nghiên cứu và giảng dạy tri thức
trong tính phổ quát của nó và hình thành một cộng đồng khoa học giữa thầy và
trò vì tri thức chỉ có thể có được thông qua tìm tòi, trao đổi, đối thoại. Một điểm
khác nữa trong lý tưởng giáo dục của Humboldt là quan niệm cho rằng còn
người là sinh vật nỗ lực học tập và làm việc suốt đời vì thế việc đào luyện
(bildung) con người là một tiến trình không kết thúc và không thể dừng lại giữa
đường.
Lý tưởng giáo dục của Humboldt xoay quanh từ “bildung” – một từ tiếng
Đức mang rất nhiều hàm ý, thường được dịch ra tiếng Anh đơn giản là
“education”, trong khi thực tế nó gần gũi hơn với từ “formation” hay “paideia”
22
23
trong tiếng Hi Lạp có nghĩa là giáo dục con người, giáo dục nhân tính cho mỗi
cá nhân để cá nhân có thể tham gia vào quá trình cùng chung sống với các thành
viên khác trong xã hội. Trong lý luận giáo dục của mình, ngược lại với quan
điểm của Heghel về nhiệm vụ giáo dục công dân của nhà nước, Humboldt phê
phán mọi nỗ lực của nhà nước và xã hội muốn gò ép cá nhân theo những định
hướng và mục đích của riêng mình. Theo Humboldt, nhiệm vụ chính của nhà
nước là đảm bảo an ninh và tích cực hỗ trợ nhưng không can thiệp quá sâu vào
giáo dục. Ông viết: “Giáo dục sẽ có chất lượng và hiệu quả hơn nếu được mở
rộng ra phạm vi và không ảnh hưởng của những thúc bách bên ngoài” [37]. Ông
khẳng định, vai trò của nhà nước là phải làm cho “giáo dục cá nhân được miễn
phí ở khắp mọi nơi có thể, trước hết là cho các công dân” [37]. Theo ông, không
những phải đảm bảo giáo dục miễn phí cho mọi công dân, nhà nước còn phải
bảo vệ quyền lợi được giáo dục của trẻ em, chống lại những ép buộc vô lý nhằm
hạn chế việc học hành của trẻ em từ phụ huynh theo tinh thần khai sáng của triết
học giáo dục do Rousseau khởi xướng.
Yếu tố trung tâm trong triết lý giáo dục của Humboldt là việc đào luyện
nhân cách một cách toàn diện và khuyến khích phát triển cá tính thông qua việc đào
tạo (văn hóa) tổng quát. Lý thuyết giáo dục tân - nhân bản này kiên quyết không
nhượng bộ trước áp lực của mọi thế lực chính trị và kinh tế, khẳng định nhiệm vụ
then chốt của nhà trường là : đào tạo con người còn nhỏ trở thành con người trưởng
thành chứ không phải đào tạo con ông thợ giày thành ông thợ giày. Theo
Humboldt, con người còn là một sinh thể nỗ lực học tập và rèn luyện suốt đời. Vì
thế, tự học – tự giáo dục (self – education) là một tiến trình không thể kết thúc.
Trong những nỗ lực cải cách giáo dục của mình, với mong muốn tạo sức
mạnh tinh thần cho người Đức, Humboldt đã đề xuất thành lập và trao quyền tự
chủ tài chính cho bộ giáo dục và các trường đại học ở Đức. Tuy nhiên, đề xuất
của ông đã không được thực thi. Cống hiến lớn nhất của ông là thành lập Đại
học Berlin sau này mang tên ông. Mô hình trường đại học Humboldt được xây
23