Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Sự phát triển một số chỉ tiêu thể lực, thể chất và sinh lí của học sinh dân tộc k mú và dân tộc h mông lưa tuổi 12 15 tại huyện kỳ sơn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.55 KB, 69 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử
dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả

Lâm Nguyên Tuấn


ii
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Ngọc
Hợi và TS. Cao Trường Sinh là những người đã hết lòng tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong tổ ngành Sinh học thực
nghiệm đã giúp đỡ và đóng góp cho em nhiều ý kiến quý báu.
Xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu, các thầy cô giáo ở các trường Trung
học cơ sở huyện Kỳ Sơn đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
Xin chân thành cảm ơn các bậc phụ huynh và các em học sinh các trường
Trung học Kỳ Sơn, cảm ơn các anh chị, bạn bè và những người đã tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Lâm Nguyên Tuấn


iii
MỤC LỤC



MỤC LỤC........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................1
3. Nội dung nghiên cứu.....................................................................................1
4. Những đóng góp mới của đề tài....................................................................2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU......................................3
2.2. Nội dung nghiên cứu................................................................................17
3.1. Sự phát triển các chỉ tiêu thể lực của học sinh dân tộc K’Mú và H’Mông
lứa tuổi 12 - 15................................................................................................22
3.3. Sự phát triển các chỉ tiêu sinh lý của học sinh dân tộc K’Mú..................41
So sánh với TC của bộ Giáo dục, kết quả nghiên cứu 4 chỉ tiêu thể chất của
HS dân tộc H’Mông, K’Mú đều “Đạt”............................................................52
3.5. Biểu hiện hoạt động sinh lý đặc trưng tuổi dậy thì...................................52
3.6. Năng lực trí tuệ của học sinh....................................................................55
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ.............................................................................58
1. Kết luận.......................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................60

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7


Viết tắt
CN
H’Mông
K’Mú
HS
HSSH
NN
TDTT

Viết đầy đủ
Công nghiệp
Hơ Mông
Khơ Mú
Học sinh
Hằng số sinh học
Nông nghiệp
Thể dục thể thao


iv
8
9

THCS
TMDV

Trung học cơ sở
Thương mại dịch vụ



v
DANH MỤC CÁC BẢNG

MỤC LỤC........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................1
3. Nội dung nghiên cứu.....................................................................................1
4. Những đóng góp mới của đề tài....................................................................2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU......................................3
2.2. Nội dung nghiên cứu................................................................................17
3.1. Sự phát triển các chỉ tiêu thể lực của học sinh dân tộc K’Mú và H’Mông
lứa tuổi 12 - 15................................................................................................22
3.3. Sự phát triển các chỉ tiêu sinh lý của học sinh dân tộc K’Mú..................41
So sánh với TC của bộ Giáo dục, kết quả nghiên cứu 4 chỉ tiêu thể chất của
HS dân tộc H’Mông, K’Mú đều “Đạt”............................................................52
3.5. Biểu hiện hoạt động sinh lý đặc trưng tuổi dậy thì...................................52
3.6. Năng lực trí tuệ của học sinh....................................................................55
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ.............................................................................58
1. Kết luận.......................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................60

DANH MỤC CÁC HÌNH

MỤC LỤC........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................1
3. Nội dung nghiên cứu.....................................................................................1
4. Những đóng góp mới của đề tài....................................................................2

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU......................................3
2.2. Nội dung nghiên cứu................................................................................17
3.1. Sự phát triển các chỉ tiêu thể lực của học sinh dân tộc K’Mú và H’Mông
lứa tuổi 12 - 15................................................................................................22
3.3. Sự phát triển các chỉ tiêu sinh lý của học sinh dân tộc K’Mú..................41
So sánh với TC của bộ Giáo dục, kết quả nghiên cứu 4 chỉ tiêu thể chất của
HS dân tộc H’Mông, K’Mú đều “Đạt”............................................................52
3.5. Biểu hiện hoạt động sinh lý đặc trưng tuổi dậy thì...................................52
3.6. Năng lực trí tuệ của học sinh....................................................................55
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ.............................................................................58
1. Kết luận.......................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................60


vi


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tuổi trẻ là tương lai của mỗi quốc gia. Việc quan tâm đến sức khỏe của lứa
tuổi học đường một cách toàn diện cả về Đức - Trí - Thể có ý nghĩa trong việc tạo
ra một đội ngũ có hình thể đẹp, thể lực tốt, trí tuệ thông minh, đáp ứng nhịp độ phát
triển của các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống, đất nước tiến lên trên con đường
hội nhập quốc tế.
Quá trình sinh trưởng và phát triển của trẻ em nói riêng và con người nói
chung, chịu sự chi phối của hệ gen trong mối tương tác với môi trường. Vào những
năm đầu của thế kỷ XXI, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam được nâng lên,
điều này tác động tích cực lên quá trình sinh trưởng, phát triển của trẻ em. Thực tế

cho thấy rằng, trẻ em sống ở những môi trường khác nhau thì khả năng sinh trưởng
và phát triển có nhiều điểm sai khác nhất định về mặt hình thái và sinh lý. Sự khác
nhau đó thể hiện ở các chỉ số cân nặng, chiều cao, vòng ngực. Trong quá trình lớn
lên, khả năng sinh trưởng và phát triển ở các độ tuổi không đồng đều, đặc biệt là giai
đoạn tuổi dậy thì, thời gian này cơ thể có nhiều biến đổi về thể chất và tâm sinh lý.
Hiện nay, các chỉ số sinh học ở trẻ em đã có nhiều thay đổi so với các thập kỷ
trước, đặc biệt những năm gần đây, thế hệ lứa tuổi học sinh có nhiều thay đổi về tốc
độ phát triển cơ thể.
Với đặc điểm bản thân cũng là người đang công tác tại vùng dân tộc miền núi
nên tôi tiến hành đề tài: “Sự phát triển một số chỉ tiêu thể lực, thể chất và sinh lý
của học sinh dân tộc K’Mú và dân tộc H’Mông lứa tuổi 12 - 15 tại huyện Kỳ Sơn,
tỉnh Nghệ An”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần xác định một số chỉ tiêu hình thái, sinh lí ở lứa tuổi 12 - 15 của học
sinh dân tộc K’Mú và dân tộc H’Mông của huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.
- Tìm hiểu sự khác nhau về các tố chất vận động ở các độ tuổi và giữa hai giới
trong cùng một độ tuổi
3. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu và so sánh về một số chỉ tiêu thể lực, thể chất và sinh lý của HS
dân tộc K’Mú và dân tộc H’Mông từ 12 - 15 tuổi.


2
- Chỉ tiêu thể lực: Chiều cao đứng (cm), chiều cao ngồi(cm), cân nặng (Kg),
vòng ngực (cm)....
- Các chỉ số thể lực: Pignet, BMI, chỉ số thân, hệ số cân đối.
- Chỉ tiêu thể chất: Tố chất nhanh, tố chất mạnh.
- Các chỉ số sinh lý:
+ Tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu, tần số thở (lần/phút), thời gian
nín thở tối đa (giây).

+ Sự xuất hiện kinh nguyệt ở trẻ em nữ lứa tuổi dậy thì.
+ Nghiên cứu một số chỉ tiêu trí tuệ có liên quan: trí nhớ, kết quả học tập.
4. Những đóng góp mới của đề tài
- Đánh giá đặc điểm phát triển một số chỉ tiêu thể lực, thể chất, sinh lý và trí
tuệ của học sinh dân tộc K’Mú và dân tộc H’Mông lứa tuổi 12 - 15 tại huyện Kỳ
Sơn, tỉnh Nghệ An và mối tương quan giữa các chỉ tiêu đó nhằm:
+ Làm sáng tỏ sự xuất hiện những đặc trưng của tuổi dậy thì ở trẻ em Việt
Nam nói chung, dân tộc ít người nói riêng.
+ Cung cấp dẫn liệu cho cơ quan nghiên cứu có liên quan tham khảo đề ra các
chủ trương kế hoạch, biện pháp thích hợp nhằm nâng cao thể lực, thể chất, trình độ
phát triển nhận thức khoa học của học sinh nói chung và đồng bào dân tộc nói riêng.
+ Đồng thời có thể sử dụng tham khảo trong việc cải tiến chương trình và
phương pháp giảng dạy nhằm đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu của chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2020 và nâng
cao chất lượng hiệu quả của công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em gắn liền
với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.


3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lí luận về sự sinh trưởng và phát triển theo giai đoạn
1.1.1. Khái niệm về sự sinh trưởng, phát triển
Sinh trưởng và phát triển là những đặc trưng cơ bản của mọi cơ thể sống. Hai
quá trình này xảy ra liên tục từ lúc trứng mới thụ tinh và phát triển phôi thai đến khi
ra đời, trưởng thành, cho đến lúc già, chết đi.
Sinh trưởng (Growth) là một quá trình thay đổi về mặt số lượng, là sự tăng
trưởng về mặt kích thước, khối lượng của toàn bộ cơ thể hay từng bộ phận. Phát
triển (Development) là sự biến đổi về chất, bao gồm: sự biến đổi về hình thái, chức
năng sinh lý, các quy luật hoạt động theo từng giai đoạn của cuộc đời mỗi cá thể

sinh vật.
Sinh trưởng và phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau đôi khi không có sự phân biệt. Sinh trưởng là điều kiện của phát triển; còn
phát triển làm thay đổi sinh trưởng bằng cách thúc đẩy tăng nhanh hay ức chế, kìm
hãm sự sinh trưởng tùy theo từng giai đoạn. Ở giai đoạn phát dục, cơ thể thường lớn
nhanh, biến đổi nhiều; có tính chất nhảy vọt về cả hình thái và chức năng sinh lý.
Đến giai đoạn trưởng thành thì sự sinh trưởng bị chậm lại và đến thời kì lão hóa thì
cơ thể suy thoái [15], [38].
1.1.2. Một số quy luật sinh trưởng và phát triển
Các công trình của C.B.Penxon (1962), M.H.Saternicop (1968), F.Bnedis đã
chứng minh một số quy luật sinh trưởng và phát triển ở con người cũng như động vật:
1.1.2.1. Quy luật sinh trưởng phát triển theo giai đoạn
Sự sinh trưởng và phát triển của cơ thể diễn ra và thay đổi tùy theo từng giai
đoạn của đời sống cá thể. Có giai đoạn tốc độ sinh trưởng, phát triển nhanh; có giai
đoạn tốc độ sinh trưởng phát triển chậm. Ví dụ: trẻ sơ sinh trung bình có chiều dài
50cm - 60cm, nặng 2,5 - 3,5kg. Cuối năm đầu, trẻ cao khoảng 70 - 75cm (tăng
50%), nặng 9 - 10kg. Năm thứ hai, cân nặng tăng 2,5 - 3kg, chiều cao tăng 10 15cm. Các năm tiếp theo cho đến tuổi dậy thì, mỗi năm cân nặng tăng 1,5 - 2kg và
cao thêm 3 - 4cm. Hết tuổi trưởng thành, cơ thể cao khoảng 1,55 - 1,7m và nặng 50
- 60kg. Sau tuổi trưởng thành chiều cao và khối lượng cơ thể không biến đổi nhiều.


4
1.1.2.2. Quy luật sinh trưởng phát triển không đồng đều
Tốc độ sinh trưởng, phát triển của các hệ cơ quan, cơ quan, các mô, thậm chí
cả các tế bào trong cùng một cơ thể là không giống nhau (không đồng đều). Chính
sự không đồng đều đó đã làm cho tỉ lệ các cơ quan, bộ phận ở các giai đoạn khác
nhau là không giống nhau. Ví dụ: trẻ sơ sinh chiều dài đầu bằng ¼ chiều dài cơ thể,
khi trưởng thành chỉ bằng 1/8 cơ thể; chi dưới trẻ sơ sinh chỉ bằng 1/3 cơ thể, đến
khi trưởng thành, chi dưới dài hơn 1/2 cơ thể.
Theo “Hằng số sinh học người Việt Nam” (1982): cân nặng trung bình của cơ

thể trưởng thành (sau tuổi dậy thì) gấp 20 lần cân nặng trẻ sơ sinh; cân nặng các nội
quan (tim, phổi, tuyến nội tiết) tăng 15 lần, xương tăng 30 - 32 lần so với trẻ sơ sinh
[4]. Từ các số liệu đó chúng ta thấy ở tuổi dậy thì các cơ quan đều sinh trưởng, phát
triển mạnh.
Từ các quy luật đó, người ta nhận thấy rằng có thể căn cứ vào các chỉ tiêu hình
thái, thể lực, thể chất như: cân nặng, chiều cao, vòng ngực, chỉ số Pignet, chỉ số
BMI, tố chất nhanh, tố chất mạnh, tố chất dẻo... để đánh giá sự sinh trưởng, phát
triển của một cơ thể.
Với mục đích xác định những đặc tính quan trọng, đặc trưng cho những giai
đoạn khác nhau của sự sinh trưởng, phát triển ở con người, các nhà khoa học đã
chia quá trình sinh trưởng và phát triển thành nhiều giai đoạn và thời kì khác nhau:
phát triển phôi, sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, nhi đồng, thiếu niên, dậy thì, trưởng
thành, trung niên, lão hóa và tử vong. Cơ sở để phân chia các thời kì của giai đoạn
phôi thai là sự phân hóa, biệt hóa tế bào, hình thành các mô và cơ quan. Cơ sở để
phân chia các giai đoạn, thời kì của cơ thể sau khi sinh là các dấu hiệu đặc trưng về
hình thái và sinh lý như: sự mọc răng, sự cốt hóa các phần khác nhau của bộ xương,
hoạt động của các tuyến nội tiết, sự phát triển một số đặc điểm hình thái, sinh lý, sự
biến đổi các đặc điểm tâm lí,...
Các tác giả khác nhau có cách phân chia khác nhau nhưng nhìn chung chênh
lệch không nhiều: trẻ em từ 10 - 11 tuổi là thời kỳ tiền dậy thì (thời kỳ học sinh
nhỏ); từ 12 - 15 tuổi đối với nữ, 13 - 16 tuổi đối với nam là thời kỳ dậy thì (thời kỳ
học sinh lớn). Độ tuổi này thay đổi theo giới tính, chủng tộc, vùng khí hậu, môi
trường sống,... [8], [15], [19], [18], [23].


5
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển
1.1.3.1. Các yếu tố bên trong
* Tính di truyền
Các chủng tộc, dân tộc khác nhau, các chi, dòng họ khác nhau có quá trình

sinh trưởng, phát triển khác nhau. Điều này do cơ sở vật chất của tính di truyền là
hệ gen chi phối. Hai đặc điểm do yếu tố di truyền chi phối dễ nhận thấy nhất là tốc
độ lớn và giới hạn lớn. Ví dụ: các chủng tộc ở châu Âu có tốc độ lớn nhanh hơn và
giới hạn các chỉ số cao hơn so với các chủng tộc ở châu Á, tuổi dậy thì cũng đến
muộn hơn một ít, sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, sự sai khác còn thể hiện ở
những tính trạng như: đặc điểm hình thái, loại hình thần kinh, trạng thái tinh thần,
khả năng tư duy, trí nhớ, nhóm máu...
* Giới tính
Bộ nhiễm sắc thể của nam và nữ (nhất là nhiễm sắc thể giới tính) là khác nhau
nên quá trình sinh trưởng, phát triển của nam và nữ cũng khác nhau, làm xuất hiện
nhiều tính trạng đặc trưng cho giới, phân biệt giữa nam và nữ. Ví dụ: nữ giới
thường dậy thì sớm hơn nhưng tốc độ tăng khối lượng, kích thước cơ thể trong giai
đoạn dậy thì kém hơn nam giới; khi cơ thể có nhiều biến đổi, tâm lí nữ giới thường
có những biểu hiện khác với nam giới như e thẹn, mẫn cảm còn nam giới thường tò
mò, bồng bột.
* Các hoocmon sinh trưởng và phát triển
Sự sinh trưởng, phát triển chịu sự chi phối bởi rất nhiều hoocmon của tuyến
nội tiết. Mỗi hoocmon có một vai trò khác nhau trong từng giai đoạn, đối với từng
cơ quan, bộ phận nhưng sự hoạt động, phối hợp nhịp nhàng của các hoocmon là
điều kiện cần thiết cho cơ thể sinh trưởng, phát triển bình thường, khỏe mạnh.
Ví dụ:
- Hoocmon tiroxin: có tác dụng tăng tốc độ chuyển hóa cơ bản, tăng cường
sinh trưởng.
- Hoocmon sinh dục nữ Oestrogen (oestradiol, oestron, oestriol): có tác dụng:
Điều hòa phát triển các tính trạng sinh dục thứ sinh ở nữ như: mọc lông nách,
lông mu, giọng nói thanh, vú phát triển, mông to ra, ...
Kích thích nang trứng phát triển, gây rụng trứng.
Ở nồng độ cao cùng với Progesteron ức chế tuyến yên tiết FSH, LH.



6
Kích thích niêm mạc dạ con dày lên, tích máu.
- Hoocmon Progesteron: có tác dụng:
Ức chế tuyến yên tiết FSH, LH → ức chế trứng chín và rụng.
Kích thích niêm mạc dạ con dày lên, tích máu chuẩn bị cho phôi phát triển.
- Hoocmon Testosteron: có tác dụng:
Điều hòa phát triển các tính trạng sinh dục thứ sinh ở nam như: mọc râu, lông
nách, lông mu, giọng nói trầm, cơ phát triển,...
Kích thích hệ cơ, xương phát triển.
Kìm hãm tuyến yên tiết LH.
1.1.3.2. Các yếu tố bên ngoài (môi trường)
Mỗi sinh vật cũng như mỗi cá thể con người đều sinh ra, lớn lên, hoạt động
trong một môi trường nhất định. Môi trường bao gồm các yếu tố bao quanh cơ thể
và tác động qua lại đối với cơ thể. Môi trường là phạm trù rất rộng, có thể chia
thành môi trường tự nhiên (bao gồm môi trường không khí, môi trường đất, môi
trường nước, môi trường sinh vật) và môi trường xã hội (chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa, giáo dục,...). Tất cả các yếu tố môi trường đó đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Do đó, sinh vật sống
trong các môi trường khác nhau có quá trình sinh trưởng, phát triển khác nhau.
Ví dụ:
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ em ở vùng gần xích đạo thường có xu
hướng dậy thì sớm hơn vùng xa xích đạo.
Trẻ em tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin (qua phim ảnh, sách báo, internet,
những người xung quanh như bạn bè khác giới và ngay cả cùng giới,...) thường dậy
thì sớm hơn những trẻ em hạn chế về giao lưu.
Trẻ em sống trong điều kiện đầy đủ, ăn uống giàu chất dinh dưỡng, chất kích
thích thường dậy thì sớm hơn trẻ em sống trong điều kiện khó khăn, ăn uống nghèo
chất dinh dưỡng [11], [15], [23].
1.1.4. Đăc điểm tâm lí lứa tuổi 12 - 15
So với học sinh cấp tiểu học, phổ thông trung học cơ sở học tập chiếm vị trí

nhiều hơn và các em gặp một loạt hoàn cảnh mới: nhiều môn học mới, phải thực
hiện yêu cầu không phải của một giáo viên mà nhiều giáo viên, học sinh phải hoạt
động độc lập với khối lượng công việc tăng một cách đáng kể và các em có một địa


7
vị mới trong gia đình và trường học. Đối với các em bắt đầu cố gắng muốn tự lập,
điều này có quan hệ đặc biệt đến sự phát triển thái độ có ý thức đối với hoạt động
của mình. Nguyện vọng đó sẽ giúp các em tích cực hơn trong hoạt động, nâng cao ý
thức trách nhiệm, phát triển sự sáng tạo trong hoạt động. Tuy nhiên nếu giáo dục
không đúng thì tính độc lập trong tư duy của các em phát triển theo chiều hướng
không đúng sẽ dẫn đến kết quả không tốt (học đòi, cáu kỉnh, thô lỗ, hỗn láo, hút
thuốc lá, sống “vô chính phủ” và dễ dàng mắc phải những tệ nạn xã hội – đặc biệt là
ở lứa tuổi cuối cấp học phổ thông trung học cơ sở.
Hứng thú của các em xuất hiện thêm nhiều nét mới so với học sinh cấp I.
Hứng thú đã được xác định rõ rệt hơn, mang tính chất bền vững, sâu sắc và phong
phú hơn. Hứng thú của các em rất năng động, các em sẵn sàng đi vào lĩnh vực tri
thức mình ưa thích. Do vậy việc giảng dạy TDTT cũng như các môn học khác đóng
vai trò chủ yếu trong vấn đề này. Giờ học TDTT sẽ tạo cho các em hiểu được ý
nghĩa, vai trò của TDTT đối với cá nhân và xã hội, giúp các em tự giác tích cực
trong tập luyện trong giờ chính khóa và hoạt động ngoại khóa. Song chất lượng
giảng dạy và nhân cách giáo viên có ảnh hưởng mạnh đến sự nảy sinh và phát triển
hứng thú của các em đối với môn học (thầy này dạy thì mình thích học môn học đó,
còn thầy khác dạy thì mình không thích nữa).
Một đặc điểm nữa là hứng thú nhận thức đối với môn học ngày càng phân hóa,
được thể hiện khi các em đam mê một lĩnh vực tri thức nào đó thì coi thường các
giờ học những môn mà các em không thích. Lứa tuổi này các em rất thích hoạt động
các môn thể thao khác nhau và thường quan tâm đến các sự kiện thể thao xảy ra,
buồn khi đội mình thích bị thua, vui khi đội đó thắng.
Do hứng thú phát triển rộng rãi nên thầy giáo và cha mẹ phải hướng và điều

chỉnh hứng thú sao cho phù hợp để hướng dẫn các em hoạt động có hiệu quả.
Lứa tuổi này xúc cảm diễn ra tương đối mạnh mẽ nên các em dễ bị kích động,
kém tự chủ. Nhưng các em có những mối quan hệ bạn bè thân thiết, gần gũi nhau
trên cơ sở có cùng chung hứng thú, cùng thống nhất trong một hoạt động nào đó (đá
bóng, chơi các trò chơi…) và các em thường tạo thành nhóm bạn thân thiết hàng
ngày.
Như vậy tuổi học sinh phổ thông trung học cơ sở là tuổi quá độ nên cũng là
giai đoạn rất sinh động, các em phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt, toàn bộ nhân


8
cách đang trên con đường “rẽ”, vì vậy cá tính của các em có rất nhiều cái chưa bền
vững và mong muốn thử sức mình theo các phương hướng khác nhau, nên nhân
cách của các em phức tạp hơn và nhiều mâu thuẫn hơn học sinh cấp tiểu học. Do
vậy cần phải thường xuyên quan sát và giáo dục cho phù hợp trên cơ sở dựa trên
tính tích cực, phát huy tính sáng tạo, biết điều chỉnh và tổ chức hoạt động cho các
em, tạo điều kiện phát triển tốt khả năng của các em.
1.1.5. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 12 - 15
1.1.5.1. Hệ thần kinh
Não bộ đang thời kỳ hoàn chỉnh, hoạt động của thần kinh chưa ổn định, hưng
phấn chiếm ưu thế vì vậy khi học tập các em dễ tập trung tư tưởng, nhưng nếu thời
gian kéo dài, nội dung nghèo nàn, hình thức hoạt động đơn điệu, thần kinh sẽ nhanh
chóng mệt mỏi và dễ phân tán sức chú ý. Do hoạt động thần kinh linh hoạt đó là
điều kiện dễ dàng hình thành phản xạ có điều kiện. Do vậy nội dung tập luyện phải
phong phú, phương pháp giảng dạy tổ chức giờ học phải linh hoạt, không cứng nhắc
đơn điệu, giảng giải và làm mẫu có trọng tâm chính xác đúng lúc, đúng chỗ. Ngoài
ra cần tăng cường hoạt động thể dục thể thao ngoài giờ và các hình thức vui chơi
khác để làm phong phú khả năng hoạt động và phát triển các tố chất thể lực một
cách toàn diện.
1.1.5.2. Hệ vận động

Hệ xương đang trong giai đoạn phát triển mạnh về chiều dài. Hệ thống sụn tại
các khớp đang đòi hỏi điều kiện tốt để phát triển và hoàn thiện, do vậy giáo dục thể
chất có tác dụng tốt đến sự phát triển của hệ xương nhưng phải chú ý đến tư thế,
đến sự cân đối trong hoạt động để tránh sự phát triển sai lệch của hệ xương và kìm
hãm sự phát triển chiều dài. Đặc biệt đối với các em gái xương chậu chưa được phát
triển hoàn thiện nên dễ bị lệch lạc nếu quá trình hoạt động vận động không hợp lý.
Hệ cơ của các em phát triển chậm hơn sự phát triển của hệ xương, hệ cơ chủ
yếu phát triển về chiều dài, thiết diện cơ chậm phát triển nhưng đến tuổi 15 – 16 thì
thiết diện cơ phát triển nhanh đặc biệt là các cơ co, cơ to phát triển nhanh hơn các
cơ duỗi và cơ nhỏ. Do sự phát triển không đồng bộ, thiếu cân đối nên các em không
phát huy được sức mạnh và chóng mệt mỏi. Vì vậy trong giáo dục thể chất cần chú
ý đến tư thế, đến sự cân đối trong hoạt động để tránh sự phát triển sai lệch của hệ
xương và kìm hãm sự phát triển chiều dài.


9
1.1.5.3. Hệ tuần hoàn
Tim phát triển chậm hơn so với sự phát triển mạch máu, sức co bóp còn yếu,
khả năng điều hòa hoạt động của tim chưa ổn định nên hoạt động quá nhiều, quá
căng thẳng sẽ chóng mệt mỏi. Vì vậy, tập luyện TDTT thường xuyên sẽ ảnh hưởng
tốt đến sự hoạt động của hệ tuần hoàn, sự hoạt động của tim dần dần được thích ứng
và có khả năng chịu đựng với khối lượng lớn sau này. Nhưng trong quá trình tập
luyện TDTT cần phải đảm bảo nguyên tắc tăng dần yêu cầu trong giáo dục thể chất,
tránh hoạt động quá sức và quá đột ngột.
1.1.5.4. Hệ hô hấp
Phổi của các em phát triển chưa hoàn thiện, phế nang còn nhỏ, hệ cơ hô hấp
chưa phát triển, dung lượng phổi còn bé, vì vậy khi hoạt động các em thở nhiều, thở
nhanh nên chóng mệt mỏi.
Ở lưa tuổi phổ thông trung học cơ sở, các em đang trong giai đoạn phát triển
dậy thì (gái sớm hơn trai 1 - 2 tuổi) do phát triển đột biến của một số tuyến nội tiết

gây ra sự mất ổn định nên một số chức năng của các hệ thống cơ quan và tâm lý đều
có sự khác biệt rõ ràng dần.
Ví dụ : các em gái buồng trứng bắt đầu phát triển, xuất hiện kinh nguyệt và
thường rối loạn cấu tạo của xương mỏng và xốp, mỡ dưới da nhiều, lồng ngực hẹp,
dung lượng phổi nhỏ, khả năng hoạt động tuần hoàn và hô hấp… đều kém hơn các
em trai.
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Xuất phát từ nhu cầu thực tế và lợi ích cuộc sống của con người, việc nghiên
cứu các chỉ tiêu phát triển hình thái, sinh lý, trí tuệ của con người nói chung và trẻ
em nói riêng đã được tiến hành từ rất sớm trên thế giới. Cuốn sách đầu tiên viết về
sự tăng trưởng chiều cao con người của Stocller được xuất bản tại Đức năm 1729.
Tác giả đã nghiên cứu học sinh quý tộc trường Carxchile. Sau đó là hàng loạt các
công trình khác của Mondiere (1875), Beegon (1902), Thondihee (1903), Herman
(1937), Freemon (1971),... đã nghiên cứu sự phát triển hình thái và trí tuệ trẻ em ở
các lứa tuổi và địa phương khác nhau.
Năm 1948, Tổ chức Y tế thế giới vì sức khỏe cộng đồng ra đời đã nghiên cứu,
đánh giá sự phát triển của trẻ em thông qua hai chỉ số chiều cao, cân nặng và đã có
nhiều đóng góp đáng kể trong việc chăm sóc sức khỏe trẻ em.


10
Những năm 1960 nhiều nhà khoa học đã phát hiện ra hiện tượng “gia tốc” phát
triển cơ thể ở trẻ em lứa tuổi học đường và nhận thấy trẻ em có sự gia tăng các chỉ
tiêu hình thái so với các trẻ em cùng lứa tuổi những thập kỉ trước đó. Các tác giả đã
có những giả thiết khác nhau để giải thích hiện tượng này, điển hình là thuyết
“Thành thị hóa” của Rudder.
Trong cuốn “Giải phẫu sinh lý và vệ sinh trẻ em”, A.N Kabanop và A.
Trabopxcaia đã tổng hợp nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả và bản thân.
Các tác giả cho rằng: Trước khi trở thành người lớn, trẻ em phải trải qua nhiều giai
đoạn phát triển quan trọng, nhiều năm cần sự giúp đỡ của người trưởng thành, cấu

tạo và hoạt động của các cơ quan trong cơ thể cũng như nhu cầu cơ thể, những phản
ứng của cơ thể đối với điều kiện bên ngoài đều được thay đổi. Để tạo nên những
điều kiện tốt nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của trẻ em, để dạy dỗ và giáo dục
trẻ em một cách đúng đắn thì cần phải nắm vững những đặc trưng của từng giai
đoạn phát triển của trẻ để có biện pháp tác động thích hợp [18].
Kabanop (1972) nghiên cứu thấy rằng: Sự tăng thể lực và thể chất ở trẻ em
ngoài sự quyết định bởi yếu tố di truyền thì nó còn liên quan chặt chẽ đến chế độ
dinh dưỡng, sự luyện tập và chế độ chăm sóc của gia đình và xã hội [19].
Xukhomlinxki – nhà sư phạm nổi tiếng của Nga cho rằng: Khả năng vận động,
kĩ năng, kĩ xảo ở con người nói chung, học sinh nói riêng được hh nh thành trong đời
sống cá thể, điều đó có ư nghĩa phải trải qua quá tŕnh luyện tập. Quá tŕnh vận động
nói chung, tập thể dục thể thao nói riêng có vai trò quyết định đối với sự phát triển
toàn diện của con người. Đặc biệt, lứa tuổi thanh thiếu niên chỉ có một cơ thể khỏe
mạnh, một thân hình cường tráng, phát triển cân đối thì hệ thần kinh mới nhạy bén,
phản xạ mới linh hoạt.
Philipôven (1975) đã chứng minh rằng hoạt động điện não đồ ở trẻ em có
nhiều dao động so với người lớn, đặc biệt là sóng bê-ta ở tuổi dậy thì, biên độ sóng
đạt tới 4 – 5 micro Vôn, tần số 10 – 12 Hz (nhanh hơn ở người lớn).
1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái, sinh lý ở các lứa tuổi được
tiến hành từ những năm 30 của thế kỉ XX tại Ban nhân học thuộc Viện Viễn Đông
Bắc Cổ. Kết quả nghiên cứu được công bố tập trung trong 9 số kỉ yếu phân khoa
Nhân học (1936 – 1944) gồm nhiều loại kích thước của các đoạn thân thể theo tuổi


11
và thành phần khác nhau, đặc biệt là kích thước của bộ xương người Việt Nam hiện
đại.
Sau ngày miền Bắc giải phóng và nhất là sau ngày đất nước thống nhất, các
công trình khoa học thuộc mọi lĩnh vực được đẩy mạnh và thu được nhiều thành tựu

to lớn. Trong các nghiên cứu về chỉ tiêu hình thái ở người lớn, Đỗ Xuân Hợp và
Nguyễn Quang Quyền có một số công trình có tính hệ thống và toàn diện như:
“Hằng số sinh học người Việt Nam” (1967), “Bàn về những hằng số giải phẫu nhân
học người Việt Nam và ý nghĩa đối với y học” (Một số chuyên đề y học, 1967). Các
chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa đã được nhiều tác giả nghiên cứu, nổi bật trong đó là
“Hằng số sinh học người Việt Nam” – công trình đúc kết nhiều năm nghiên cứu của
các tác giả Trịnh Bỉnh Dy, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Phạm Khuê, Lê Thành Uyên, Lê
Quang Long,... (1975); “Về những thông số sinh học người Việt Nam” của Trịnh
Bỉnh Dy, Đỗ Đình Hồ, Phạm Khuê, Nguyễn Quang Quyền, Lê Thành Uyên (1982);
“Sinh lý thần kinh trẻ em” của Tạ Thúy Lan (1992)... [5], [9], [22].
Bên cạnh hàng loạt công trình nghiên cứu về người lớn, có không ít công trình
nghiên cứu về trẻ em và học sinh Việt Nam như: “Hằng số phát triển trẻ em Việt
Nam” của Chu Văn Tường; “Phát triển thể lực ở trẻ em dưới 7 tuổi”; “Một số hằng
số của trẻ em Việt Nam” của Chu Văn Tường và Nguyễn Công Khanh (Báo cáo tại
Hội nghị Hằng số sinh học người Việt Nam, 1972).
Tuy nhiên, từ đó đến nay với khoảng thời gian tương đối dài, điều kiện môi
trường tự nhiên và xã hội có nhiều biến đổi, nhất là sau ngày đất nước hoàn thành
thống nhất, đã mở ra một địa bàn mới, những đối tượng mới cho việc nghiên cứu
hình thái, sinh lý cũng như sinh hóa ở nước ta. Nhiều công trình của nhiều tác giả
đã thực hiện trên khắp đất nước như các công trình nghiên cứu của Trường Đại học
Y khoa TP Hồ Chí Minh dưới sự chủ trì của Nguyễn Quang Quyền: “Các chỉ tiêu
phát triển hình thái của trẻ em và người lớn Tây Nguyên” (1980 – 1990); “Các chỉ
tiêu hình thái, sự phát triển thể lực và thể chất của trẻ em và học sinh miền đồng
bằng, thành phố Vinh và miền núi Nghệ An” của Nghiêm Xuân Thăng, Nguyễn
Ngọc Hợi, Ngô Thị Bê, Hoàng Thị Ái Khuê; “Nghiên cứu sự phát triển hình thái,
thể lực của học sinh 6 – 17 tuổi ở Thừa Thiên Huế” của Lê Đình Vấn (2002);... Đặc
biệt đề tài cấp Nhà nước “Đặc điểm sinh thể, tình trạng dinh dưỡng của người Việt
Nam và biện pháp nâng cao chất lượng sức khỏe” do Trường Đại học Y Hà Nội chủ



12
trì mang mã số KX07 đã góp phần to lớn vào việc nghiên cứu con người Việt Nam
[36].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về sự phát triển thể lực, thể chất của trẻ
em, còn có rất nhiều đề tài đi sâu nghiên cứu sự phát triển trí tuệ, tư duy của trẻ gắn
liền với quá trình phát triển sinh lý, đặc biệt là sự phát triển của bộ não của trẻ.
Các công trình của Hoàng Xuân Hinh (1971), Phạm Hoàng Gia (1977), Trần
Cường, Trọng Thủy (1989) [33], Tạ Thúy Lan (1993) [22] đã cho thấy sự phát triển
năng lực trí tuệ và tư duy của trẻ qua nhiều giai đoạn. Năng lực tư duy trừu tượng
gắn liền sự phát triển vốn từ của trẻ. Vốn từ của trẻ phát triển thuận lợi nhất từ 2 – 3
tuổi. Muốn cho trẻ phát triển vốn từ chúng ta cần cho trẻ tiếp xúc nhiều với thế giới
xung quanh.
Nhiều tác giả đã sử dụng các hình thức trắc nghiệm trí thông minh để nghiên
cứu khả năng hoạt động trí tuệ của trẻ. Cho đến nay, một số hình thức test trí tuệ đã
và đang được thích nghi hóa và sử dụng ở Việt Nam. Hai cơ sở quan trọng nhất
trong lĩnh vực này là Viện tâm sinh lý lứa tuổi thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam và Trung tâm nghiên cứu trẻ em Hà Nội với nhiều đề tài trọng điểm. Trong
các loại hình trắc nghiệm đó, trắc nghiệm Gille, trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn
của Ra-ven (Test Ra-ven) đã được ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả (Võ Văn Toàn
– 1995, Trần Trọng Thủy – 2001, Võ Thị Chí, Lưu Thị Minh Trí – 2001). Test Raven được xây dựng trên cơ sở hai thuyết: thuyết tri giác hình thể tâm lý học
Ghetxytan và thuyết “tâm phát sinh” của Speaman. Sau nhiều lần chuẩn hóa vào các
năm 1954, 1956 đến năm 1960, test Ra-ven được UNESCO chính thức sử dụng để
chuẩn hóa trí tuệ của con người. Đây là loại hình trắc nghiệm phi ngôn ngữ được
dùng để đo năng lực tư duy trên bình diện rộng nhất và được sử dụng rộng rãi trên
nhiều đối tượng. Số liệu thu được cho phép chuyển đổi thành chỉ tiêu đánh giá trí
tuệ tổng quát. Có thể nói Test Ra-ven là công cụ sắc bén cho việc đánh giá mức độ
phát triển trí tuệ [7], [34], [35].
Ở Nghệ An đã có các công trình về hình thái và sinh lý của học sinh Tiểu học
và Trung học của Nguyễn Ngọc Hợi, Nghiêm Xuân Thăng, Ngô Thị Bê,... chủ yếu
nghiên cứu về đặc điểm hình thái và thể lực [13].



13
1.4. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.4.1. Tỉnh Nghệ An
1.4.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, trên tuyến giao lưu Bắc Nam và đường xuyên Á Đông - Tây, cách thủ đô Hà Nội 300 km về phía Nam.
Theo đường 8 cách biên giới Việt - Lào khoảng 80 km và biên giới Lào - Thái Lan
gần 300 km. Nghệ An hội nhập đủ các tuyến đường giao thông: đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ, đường không và đường biển. Bên cạnh đường biên giới dài 419 km
và 82 km bờ biển, tỉnh còn có sân bay Vinh, cảng Cửa Lò, kết cấu hạ tầng đang
được nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới đã tạo cho Nghệ An có nhiều thuận lợi
trong giao lưu kinh tế - xã hội với cả nước, khu vực và quốc tế.
b. Đặc điểm địa hình
Nghệ An nằm ở phía Đông Bắc của dãy Trường Sơn, có độ dốc thoải dần từ
Tây Bắc đến Đông Nam. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 1.648.729 ha, trong đó miền
núi chiếm 3/4 diện tích, phần lớn đồi núi tập trung ở phía Tây của tỉnh. Dải đồng
bằng nhỏ hẹp chỉ có 17% chạy từ Nam đến Bắc giáp biển Đông và các dãy núi bao
bọc. Địa hình của tỉnh bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi dày đặc và những dãy núi
xen kẽ, vì vậy gây không ít trở ngại cho sự phát triển giao thông và tiêu thụ sản
phẩm.
c. Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính chuyển tiếp của khí hậu
miền Bắc và miền Nam. Số giờ nắng trong năm từ 1.500 - 1.700 giờ, bức xạ mặt
trời 74,6 Kalo/cm2, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 0C, cao nhất là 430C và
thấp nhất là 20C, lượng mưa trung bình năm là 1.800 - 2.000 mm. Tuy nhiên, hàng
năm Nghệ An còn phải chịu ảnh hưởng của những đợt gió Tây Nam khô nóng và
bão lụt lớn. Do địa hình phân bố phức tạp nên khí hậu ở đây cũng phân dị theo tiểu
vùng và mùa vụ.

1.4.1.2. Các dân tộc miền núi ở tỉnh Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh lớn thứ 4 nước ta; tỉnh có miền núi chiếm 3/4 diện tích tự
nhiên của tỉnh - Là nơi cư trú của 6 tộc người, nơi có nhiều tài nguyên sinh học,


14
khoáng sản có giá trị và có vai trò quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Theo số liệu điều tra dân số năm 1989 - 1999, ngoài bộ phận người Kinh, ở
miền núi Nghệ An có 5 dân tộc thiểu số, xét theo số lượng cư dân từ cao xuống thấp
là: Dân tộc Thái có 265.591 người, gồm 3 nhóm: Thái địa phương, Thái Tày
Mường (còn gọi là Thái Hàng Tổng), Thái Mán Thanh và Thái Tày Kháng.
Các nhóm nói trên đều cư trú xen cài trên 9 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương,
Con Cuông, Quỳ Châu, Quế Phong, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn và 3
xã của huyện Quỳnh Lưu.
Đồng bào Thái ở Nghệ An tự gọi mình là “Pú Táy”, có vùng gọi là “Cốn Táy”.
Dân tộc thổ có 56.262 người gồm 5 nhóm: Cuối, Kẹo, Họ (còn gọi là Mon Ha), Đan
Lai – Lý Hà và Tày Poọng. Các nhóm: Cuối, Kẹo, Họ cư trú ở 3 huyện phía bắc là:
Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp. Các nhóm: Đan Lai, Lý Hà và Tày Poọng cư trú ở 2
huyện phía nam là Con Cuông và Tương Dương. Các nhóm Thổ nói trên không
những cư trú biệt lập và cách xa nhau mà phần lớn phong tục tập quán cũng khác
nhau, đặc biệt là không hiểu được tiếng nói của nhau để giao tiếp. Việc xếp các
nhóm trên vào một dân tộc, đồng bào không thoả mãn lắm. Đây là một thực tế cần
được quan tâm đúng mức.
Dân tộc Khơ Mú có 24.305 người, dân tộc H’Mông có 22.747 người. Cả 2 dân
tộc này có mặt ở các huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong. Còn 307 người
dân tộc Ơ Đu hiện còn cư trú ở một vài xã ở các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương.
Nhìn một cách tổng thể bức tranh cư trú, ta thấy các dân tộc thiểu số ở Nghệ
An cư trú trên 3 vùng cảnh quan với các đặc thù và sắc thái khác nhau: Vùng thấp,
thung lũng, vùng rẻo giữa và vùng rẻo cao. Vùng thấp - thung lũng là nơi cư trú tập

trung của các dân tộc Thái với kinh tế truyền thống ruộng nước và nương rẫy. Vùng
cảnh quan rẻo giữa là địa bàn cư trú của các dân tộc Khơ Mú, Thổ. Vùng rẻo cao là
nơi cư trú của các dân tộc H’Mông, ơ Đu. Tính phong phú và đa dạng trên của bức
tranh tộc người, cũng là sự đa dạng của hoạt động kinh tế của các loại hình tổ chức
xã hội cổ truyền trong các điều kiện môi trường tự nhiên khác biệt mà nó đã đóng
vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, nhất là sự phát triển về văn hoá.


15
1.4.2. Huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
Kỳ Sơn là huyện miền núi vùng cao nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An,
cách thành phố Vinh hơn 300km.
Kỳ Sơn có đường biên giới với nước bạn Lào dài 192 km; ba hướng Bắc, Tây
và Nam giáp 3 tỉnh: Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Pôlykhămxay và 5 huyện của Lào.
Phía đông giáp với huyện Tương Dương.

Hình 1.1. Bản đồ hành chính huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
+ Tổng diện tích (ha): 209.434
+ Diện tích đất nông nghiệp (ha): 3.349
+ Diện tích đất lâm nghiệp (ha): 78.540
+ Diện tích đất chưa khai thác (ha): 125.402
- Đơn vị hành chính:
Toàn huyện có 21 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn, bao gồm 01 thị trấn là
Thị trấn Mường Xén và các xã: Mỹ Lý, Bắc Lý, Keng Đu, Đoọc Mạy, Huồi Tụ,
Mường Lống, Na Loi, Nậm Cắn, Bảo Nam, Phà Đánh, Bảo Thắng, Hữu Lập, Tà
Cạ, Chiều Lưu, Mường Típ, Hữu Kiệm, Tây Sơn, Mường Ải, Na Ngoi, Nậm Càn.
Toàn bộ 20 xã của huyện Kỳ Sơn đều thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm
trong Chương trình 135 giai đoạn II của Chính phủ.

- Dân số - Dân tộc:



16
+ Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2008, dân số toàn huyện có 11.867
hộ với 67.755 nhân khẩu, gồm chủ yếu 5 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn là:
dân tộc H'Mông 24.392 người, chiếm 36%; Khơ Mú 22.495 người, chiếm 33,2%;
Thái 18.362 người, chiếm 27,1%; Hoa: 20 người, chiếm 0,03%; Kinh 2.486 người,
chiếm 3,67%.
+ Mật độ dân số trung bình: 32 người/km2.
+ Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,43%.
- Lao động:
+ Tính đến cuối năm 2008, toàn huyện có 30.980 lao động trong độ tuổi, trong
đó có hơn 15.000 lao động là nữ.
+ Số lao động qua đào tạo là 250 người.
- Kinh tế - Xã hội:
+ Tốc độ tăng trưởng bình quân: 13,44%
+ Thu ngân sách trên địa bàn: 2.250 triệu đồng
+ Tỷ trọng NN-CN-TMDV: 29,23% - 34,67% - 36,1% (Số liệu thống kê cuối
năm 2008)
Tính đến cuối năm 2008, toàn huyện còn 7.424 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 62,56%
so với tổng số hộ dân trên địa bàn huyện. Trong năm 2009 thực hiện xóa thành công
81,20% số nhà tạm trên địa bàn huyện với 2134 nhà trên tổng số 2628 nhà.


17
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành trên 640 học sinh lứa tuổi từ 12 - 15 tuổi (lớp 6 - lớp 9) ở
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Mỗi lứa tuổi lấy 160 học sinh (80 nam, 80 nữ) trong đó:
- 80 học sinh dân tộc dân tộc K’Mú của THCS Bảo Nam

- 80 học sinh dân tộc H’Mông của trường THCS Nậm Cắn
Đối tượng nghiên cứu ở trạng thái khỏe mạnh, không có dị tật về hình thể và
các bệnh mãn tính.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử, môi trường sống của cư dân dân
tộc K’Mú, H’Mông thuộc huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.
Sự biến đổi một số chỉ tiêu hình thái và thể lực, thể chất của học sinh dân tộc
dân tộc K’Mú và H’Mông từ 12 - 15 tuổi ở một số trường THCS tại huyện Kỳ Sơn,
tỉnh Nghệ An:
- Các chỉ tiêu hình thái: chiều cao đứng, chiều cao ngồi, cân nặng, vòng ngực
trung bình.
- Các chỉ tiêu thể lực: BMI, Pignet, chỉ số thân, hệ số cân đối
- Các chỉ tiêu thể chất: tố chất nhanh, tố chất mạnh, tố chất dẻo.
Sự biến đổi các chỉ tiêu sinh lý ở lứa tuổi từ 12 – 15:
- Tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu.
- Tần số thở
- Thời gian nín thở tối đa
- Sự xuất hiện kinh nguyệt ở trẻ em nữ.
- Năng lực trí tuệ, kết quả học tập của học sinh.
- Một số biểu hiện tâm sinh lý đặc trưng: bệnh hay quên, sao nhãng học tập,
phân tán tư tưởng…
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra
Điều tra qua các tài liệu lịch sử, khoa học, kinh tế, giáo dục của địa phương.
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu


18
Chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên, không định hướng (trừ các đối tượng
có đặc điểm không đủ điều kiện và tiêu chuẩn nghiên cứu). Chọn mẫu theo hệ

thống: hệ thống trường, hệ thống tuổi, tương quan thích hợp giữa các độ tuổi, giữa
các vùng có đặc trưng khác nhau về điều kiện môi trường, xã hội. Phương pháp tính
tuổi: tuổi HS được tính bằng cách: (Lấy thời điểm nghiên cứu - năm sinh của các
em) ± 6 tháng [5].
Ví dụ: để tính tuổi của một học sinh sinh vào tháng 03/2002 ta tính như sau:
Tháng 02/2014 - Tháng 03/2002 = 11 năm 11 tháng. Vì 11 tháng > 6 tháng (được tính
là nửa tuổi nên làm tròn lên 1 năm). Như vậy tuổi của em học sinh này là 12 tuổi.
2.3.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu hình thái
- Cân trọng lượng cơ thể P (kg): dùng cân y tế có độ chính xác đến 0,1kg.
- Đo chiều cao đứng T (cm): đo bằng thước dây có vạch chia độ chính xác đến
0,1cm, học sinh ở tư thế đứng nghiêm. Đo từ gót chân sát mặt đất lên đến đỉnh đầu
qua 4 điểm chạm thước: chẩm, lưng, mông, gót.
- Đo chiều cao ngồi (cm): học ở tư thế ngồi thẳng người trên ghế, mắt nhìn
phía trước, mông và vai trên mặt phẳng thẳng đứng theo sát mép ghế ngồi, bàn chân
chạm vuông góc với cẳng chân, cẳng chân vuông góc với hai đầu gối chụm. Đo
khoảng cách từ mặt ghế đến đỉnh đầu.
- Đo vòng ngực Pt (cm): học sinh ở tư thế đứng thẳng, mắt nhìn thẳng, đo theo
chu vi phẳng đi qua mũi ức, chú ý đối với phụ nữ. Đo khi thở ra hít vào và lấy trị số
trung bình.
2.3.4. Công thức tính các chỉ số thể lực
- Xác định chỉ số khối cơ thể (BMI):
Công thức:
Trong đó:

BMI =
P: cân nặng (kg)
H: chiều cao đứng (m)

Việc đánh giá thể lực theo chỉ số BMI được quy định như sau :
BMI < 18,5: gầy

18,5 ≤ BMI ≤ 22,9: vừa
BMI

23: béo

- Chỉ tiêu Pignet (theo Sermeep, 1986).
Công thức:

I = T - (P + Pt)


19
Trong đó:

T: chiều cao đứng (cm)
P : cân nặng (kg)
Pt : vòng ngực trung bình (cm).

Việc đánh giá thể lực theo chỉ số Pignet được quy định như sau:
I < 23 : Thể lực cực tốt.
23 ≤ I ≤ 28,9 : Thể lực rất tốt.
29 ≤ I ≤ 34,9 : Thể lực tốt.
35 ≤ I ≤ 41 : Thể lực trung bình.
41,1 ≤ I ≤ 47: Thể lực yếu.
I ≥ 47,1 : Thể lực kém.
- Chỉ số thân:

B *100
CST = T


Trong đó: B: chiều cao ngồi (cm). T: chiều cao đứng (cm)
Nếu :

CST ≤ 50,9 : Loại thân ngắn.

51 ≤ CST ≤ 52,9 : loại thân vừa.
CST ≥ 53 : loại thân dài
- Hệ số cân đối : K =

T −B
T

Nếu K từ 0,87 đến 0,92 được coi là cơ thể phát triển cân đối, ngoài khoảng đó
được xem là phát triển không cân đối.
2.3.5. Phương pháp xác định các chỉ tiêu thể chất.
2.3.5.1. Nằm ngửa gập bụng
- Yêu cầu dụng cụ: Đệm cao su hoặc ghế băng, chiếu cói, trên cỏ bằng phẳng,
sạch sẽ.
- Yêu cầu kỹ thuật động tác: Người được kiểm tra ngồi chân co 90 0 ở đầu gối,
hai bàn chân áp sát sàn. Một học sinh khác hỗ trợ bằng cách hai tay giữ phần dưới
cẳng chân, nhằm không cho bàn chân người được kiểm tra tách ra khỏi sàn.
Cách tính thành tích: Mỗi lần ngả người, co bụng được tính một lần. Tính số
lần đạt được trong 30 giây.
2.3.5.2. Bật xa tại chỗ
- Yêu cầu dụng cụ: Thảm cao su giảm chấn, kích thước 1 x 3 m (nếu không có
thảm có thể thực hiện trên nền đất, cát mềm). Đặt một thước đo dài làm bằng thanh


×