Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chương Động lực học chất điểm trong bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lí 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.4 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ ĐÌNH HÓA

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI
TẬP PHẦN NHIỆT THPT BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI VẬT LÝ

Chuyên ngành: Lý luận và PPDH môn Vật lí
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:PGS. TS: PHẠM THỊ PHÚ

NGHỆ AN, 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm Thị Phú, người đã
định hướng đề tài và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, phòng Đào tạo Sau
Đại học, khoa Vật lý Trường Đại học Vinh cùng tất cả các thầy cô giáo đã tham gia
giảng dạy trong quá trình đào tạo thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy
học bộ môn Vật lý khóa 21 tại Trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban giám hiệu, tổ Vật lý trường THPT Anh
Sơn 3, Anh Sơn, Nghệ An - nơi tôi đang công tác, đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để
tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp - những
người luôn cổ vũ, động viên để tôi hoàn thành luận văn này.


Nghệ An, tháng 6 năm 2015

Lê Đình Hóa

môc lôc
Bảng 3.1. Bảng kết quả phân phối thực nghiệm...........................................................79


Bảng 3.2. Bảng phân phối tần suất................................................................................79
........................................................................................................................................80
Bảng 3.3. Bảng phân bố tần suất tích luỹ......................................................................80
Bảng 4: Bảng các thông số thống kê toán.....................................................................82


Nh÷ng tõ viÕt t¾t trong luËn v¨n

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

NXB


Nhà xuất bản

SGK

Sách giáo khoa

THPT

Trung học phổ thông

PPDH

Phương pháp dạy học

BGD & ĐT

Bộ giáo dục và đào tạo

HSG

Học sinh giỏi

GDTrH

Giáo dục trung học

TTD

Trước tác động


STD

Sau tác động

KT, KN

Kiến thức kỹ năng

TBKT

Trung bình kiểm tra

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu chung của nền giáo dục Việt Nam là “Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Bồi dưỡng HSG ở các trường THPT là công tác mũi
nhọn, trọng tâm, nó có tác dụng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội
ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần khẳng định thương hiệu của
nhà trường, là một tiêu chí để sở GD & ĐT đánh giá và phân hóa các trường THPT
và giáo viên, một công tác được xã hội rất quan tâm. Mỗi một giáo viên khi tham
gia công tác này đều có nguyện vọng có kỹ năng bồi dưỡng HSG đạt được thành
tích cao.
Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài được khởi đầu từ công tác phát hiện và
bồi dưỡng học sinh giỏi từ các trường THPT chuyên và không chuyên. Đề thực hiện
tốt công tác này ngay từ đầu năm học các trường đã có kế hoạch tuyển chọn học
sinh có năng khiếu vào các lớp chọn và đội tuyển học sinh giỏi. Vì vậy các môn có
đội tuyển học sinh giỏi cần có đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn và tài liệu ôn
tập chu đáo mới có thể thực hiện tốt và hiểu quả cao nhiệm vụ này.

Sử dụng bài tập vật lý là một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng
cao chất lượng bộ môn. Đối với học sinh, giải các loại bài tập vật lý là một trong
những biện pháp phát huy và rèn luyện tính tích cực, tự lực, tư duy thực nghiệm,
phương pháp tư duy khoa hoc... vì khi giải bài tập, giúp hình thành kiến thức và kỹ
năng mới cho học sinh, giúp học sinh đào sâu, mở rộng kiến thức một cách sinh
động, phong phú. Khi giải bài tập học sinh phải thực hiện các thao tác tư duy để tái
hiện kiến thức cũ, tìm ra mối liên hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng, HS
phải phán đoán, suy luận để tìm ra lời giải từ đó phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của HS. Bài tập còn là công cụ hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá kiến thức,
kỹ năng của học sinh trong quá trình học vật lý.
Nhiệt học là phần có nội dung và vị trí đặc biệt trong chương trình vật lý phổ
thông, Nếu học sinh học tốt phần kiến thức này thì có thể giải thích được rất nhiều
hiện tượng trong tự nhiên, hiểu rõ được nguyên tắc vận hành của các thiết bị, động
cơ kỹ thuật trong thực tế . Nếu trang bị cho học sinh hệ thống lý thuyết, những bài
tập luyện tập và sáng tạo nó sẽ tạo tiền đề cho HS phát triển toàn diện được khả
năng của mình. Vì vậy tôi chọn đề tài “Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập


phần nhiệt THPT bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý”
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập phần nhiệt THPT bồi dưỡng học sinh
giỏi vật lý nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát triển tư duy và bồi dưỡng
niềm yêu thích vật lý học cho học sinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Học sinh khá giỏi vật lý lớp 10
+ Bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lý 10 THPT.
- Phạm vi nghiên cứu: Lý thuyết và bài tập phần Nhiệt học trung học phổ thông.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống bài tập luyện tập và sáng tạo đa dạng có nội

dung giáo khoa, nội dung thực tế, nội dung kỹ thuật và sử dụng hợp lý cho bồi
dưỡng HS khá giỏi thì sẽ nâng cao được kiến thức kỹ năng, bồi dưỡng tư duy và
niềm yêu thích Vật lý học cho học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về dạy học phân hoá, bồi dưỡng học sinh giỏi,
học sinh năng khiếu;
- Tìm hiểu thực trạng bồi dưỡng HSG các cấp ở nước ta và tỉnh Nghệ An,
một số trường THPT tại Nghệ An: tài liệu bồi dưỡng, đề thi chọn HSG các cấp,
thực trạng dạy và học,….
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về dạy học bài tập vật lý.
- Nghiên cứu lý thuyết, xây dựng và phân loại hệ thống hóa lý thuyết phần
nhiệt học. Xây dựng hệ thống bài tập dùng cho bồi dưỡng HSG lớp 10, phần
nhiệt học.
- Đề xuất tiêu chí của bài tập bồi dưỡng HSG.
- Xây dựng hệ thống bài tập phần nhiệt học lớp 10 dùng cho bồi dưỡng HSG.
- Xây dựng các phương án dạy học hệ thống bài tập đã xây dựng để bồi
dưỡng HSG Vật lý lớp 10.


- Thực nghiệm sư phạm.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về lý thuyết và bài tập.
+ Xây dựng hệ thống bài tập, bài tập nhiệt học lớp 10.
+ Soạn thảo tiến trình dạy học
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
+ Điều tra, thực trạng ở trường THPT
+ Thực nghiệm sư phạm
- Thống kê toán hoc
7. Đóng góp mới của luận văn

- Về mặt lý luận:
+ Đề tài góp phần đổi mới nội dung và phương pháp trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi theo hướng dạy học – đánh giá – tự đánh giá
- Về thực tiễn:
+ Xây dựng được hệ thống 30 bài tập luyện tập và bài tập sáng tạo đa dạng
có nội dung giáo khoa, nội dung thực tế, nội dung kỹ thuật để bồi dưỡng HSG lớp
10 phần nhiệt học.
+ Thiết kế 3 phương án sử dụng hệ thống bài tập đã xây dựng để bồi dưỡng
HSG: Kiểm tra phát hiện, đánh giá. Bài học luyện tập giải bài tập trên lớp, tự học
ở nhà, cụ thể hóa qua 6 tiến trình dạy học theo ý tưởng của đề tài.
8. Cấu trúc luận văn
Mở đầu.
Nội dung gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn sử dụng bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi
Vật lý (20.trang)
Chương 2: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập phần nhiệt học dùng cho bồi
dưỡng học sinh giỏi Vật lý trường THPT (45 trang)


Chương 3: Thực nghiệm sư phạm (13 trang)
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BÀI TẬP BỒI DƯỠNG HỌC


SINH GIỎI VẬT LÝ
1.1. Mục tiêu giáo dục của nước ta

1.1.1. Mục tiêu chung của giáo dục
Xuyên suốt trong lịch sử nền giáo dục của nước ta từ xưa đến nay, ở bất kỳ
giai đoạn lịch sử nào thì nhiệm vụ chính của nền giáo dục là “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Các nhiệm vụ đó được dàn rộng cho các bậc học,
các loại hình đào tạo khác nhau. Tùy thuộc vào đặc điểm của từng cấp học, từng
loại hình đào tạo mà các nhiệm vụ đó có thể phải thực hiện cả, hay một phần.
Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam lần 2, khoá XI đã chỉ
rõ mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới là: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo
dục nhằm xây dựng những con người gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, giữ gìn
phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu văn hoá nhân loại, phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy
tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức và khoa học và công nghệ hiện đại, có tư
duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức
kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng
vừa chuyên…”.
Dựa vào mục tiêu chung này mà nhà trường THPT đã xây dựng các mục tiêu
và nhiệm vụ cụ thể trong các hoạt động dạy học và giáo dục của nhà trường. Mục
tiêu của hoạt động dạy học Vật lý trong trường THPT cũng không nằm ngoài mục
tiêu chung đã được xác định, dựa vào mục tiêu chung này mà mục tiêu cụ thể của
việc dạy học Vật lý được đề ra.
1.1.2. Nhiệm vụ của dạy học vật lý ở trường phổ thông [23]
a. Trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có hệ
thống, bao gồm:
- các khái niệm vật lý.
- Các định luật vật lý cơ bản.
- Nội dung chính của các thuyết vật lý.



- Các ứng dụng quan trọng nhất của vật lý trong đời sống và trong sản xuất.
- Các phương pháp nhận thức phổ biến dùng trong vật lý.
b. Phát triển tư duy khoa học ở học sinh: Rèn luyện những thao tác hành
động, phương pháp nhận thức cơ bản, nhằm chiếm lĩnh những kiến thức vật lý, vận
dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực tiễn sau này.
c. Trên cơ sở kiến thức vật lý vững chắc, có hệ thống, bồi dưỡng cho học
sinh thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nước, thái độ đối với lao
động, đối với cộng đồng và những đức tính khác của người lao động.
d. Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh, làm
cho học sinh nắm được những nguyên lý cơ bản về cấu tạo và hoạt động của máy
móc được dùng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Có kỹ năng dử dụng những
dụng cụ vật lý, đặc biệt là những dụng cụ đo lường, ký năng lắp ráp thiết bị để thực
hiện các thí nghiệm vật lý, vẽ biểu đồ, xử lý các số liệu đo đạc để rút ra kết luận.
Những kiến thức kỹ nằn đó giúp cho học sinh sau này có thể nhanh chóng thích ứng
với hoạt động lao động sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Những nhiệm vụ trên không tách rời nhau mà luôn luôn gắn liền với nhau,
hỗ trợ lẫn nhau, góp phần đào tạo ra con người hài hòa, toàn diện.
Đối với việc bồi dưỡng HSG môn vật lý ở trường THPT các nhiệm vụ nêu
trên càng phải chú trọng, nâng cao hơn về chất lượng và tính hiệu quả.
1.2. Vấn đề bồi dưỡng học sinh giỏi môn vật lý THPT
Với mục tiêu chung là “Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án phát triển hệ thống
trường THPT chuyên giai đoạn 2010 - 2020, tạo sự chuyển biến rõ nét trong việc
thực hiện nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu, tạo nguồn đào tạo
nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài của đất nước.”
Nhân tài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn vinh của xã hội. Những
nước văn minh đều là những nước bồi dưỡng và sử dụng được nhiều nhân tài.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có những chủ trương mới về công tác bồi dưỡng



học sinh giỏi . Đó là tiếp tục chú trọng xây dựng hệ thống các trường chuyên một
cách hoàn thiện hơn, khuyến khích và tôn vinh các học sinh xuất sắc đạt thành tích
cao. Các em học sinh có năng khiếu có thể được học với chương trình có tốc độ cao
hơn học sinh bình thường… Chính vì thế mà có thể coi công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi là công tác mũi nhọn và trọng tâm. Nó có tác dụng thiết thực và mạnh mẽ nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ các thầy cô giáo, nâng cao chất
lượng giáo dục góp phần khẳng định thương hiệu của nhà trường, tạo ra khí thế
hăng say vươn lên học tập giành những đỉnh cao trong học sinh.
1.2.1. Bồi dưỡng học sinh giỏi - một hình thức dạy học phân hoá [23]
Theo [23] Dạy học phân hóa xuất phát từ sự biện chứng của thống nhất và phân
hóa, từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục đích dạy học, đồng thời khuyến
khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân.
Trong quá trình học tập một bộ môn, có những HS trình độ kiến thức, kỹ năng
và tư duy vượt trội lên trên các HS khác, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ môn học
một cách dễ dàng, đó là những HS giỏi bộ môn đó.
Việc bồi dưỡng HS này một mặt được tiến hành trong những giờ học đồng loạt
bằng những biện pháp phân hóa, mặt khác được thực hiện bằng cách bồi dưỡng tách
riêng diện này trên nguyên tắc tự nguyện.
Bồi dưỡng HSG là việc làm rất quan trọng và cần thiết, cần được thực hiện
bằng biện hình thức dạy học phân hóa thích hợp. Hai hình thức thường tổ chức là:
Nhóm học sinh giỏi ở trường THPT và trường THPT Chuyên.
+ Nhóm HS vật lý:
Gồm những học sinh cùng một lớp hoặc cùng một khối, có năng lực về vật
lý, yêu thích nghiên cứu Vật lý và tự nguyện tham gia bồi dưỡng nâng cao về Vật
lý. Để đảm bảo học sinh không học lệch, nhóm không nhận một học sinh nào
kém về một môn khác, dù rằng có thành tích cao về Vật lý. Trong những buổi
sinh hoạt ngoại khóa, học sinh giỏi vật lý chính là lực lượng nòng cốt của nhà
trường.
Mục đích bồi dưỡng nhóm học sinh giỏi vật lý là:
Nâng cao hứng thú học tập môn vật lý, đào sâu và mở rộng tri thức trong sách

giáo khoa. Giáo viên làm nổi bật vai trò của môn vật lý trong đời sống, bồi dưỡng


tác phong, phương pháp nghiên cứu và thói quen tự học cho học sinh.
Nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi được chú trọng bởi các phần sau:
Nghe thuyết trình những kiến thức bổ sung cho nội khóa, giải các bài tập nâng
cao; học chuyên đề Vật lý; tham quan thực hành và ứng dụng vật lý.
+ Lớp phổ thông chuyên vật lý:
Hiện nay ở nước ta đang tập hợp những học sinh giỏi vật lý ở trường phổ thông
thành những lớp đặc biệt, giao cho một số trường đại học hoặc các trường chuyên
phụ trách. Những lớp này được gọi là những lớp phổ thông chuyên vật lý.
Mục đích của những lớp học này là phát hiện những học sinh có năng lực về
Vật lý, bồi dưỡng các em phát triển tốt về mặt này trên cơ sở giáo dục toàn diện,
góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, một số có thể trở thành
nhân tài đất nước. Để thực hiện tốt mục đích đào tạo lớp chuyên Vật lý,
chương trình các môn học ở các lớp này được Bộ giáo dục và Đào tạo quy định là
chương trình phân hóa phổ thông có thêm một số giờ Vật lý và ngoại ngữ.
Trong đó chú trọng những ứng dụng thực tiễn của Vật lý học, tăng cường một số
yếu tố về lôgic học, bổ sung một số yếu tố về Vật lý học hiện đại…
1.2.2. Bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý
1.2.2.1. Khái niệm học sinh giỏi vật lý
HSG một môn học nào đó là HS đạt và vượt chuẩn kiến thức và kỹ năng của
môn học đó. Đối với môn vật lý, HSG phải là HS nắm kiến thức, kỹ năng của môn
học ở mức độ phân tích, tổng hợp đánh giá. Có tư duy logic, tư duy toán học, tư duy
vật lý tốt, có niềm đam mê vật lý học, tự học, tự tìm tòi sáng tạo.
Ở nước ta trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc phổ thông có hai khái niệm
HSG đó là HSG toàn diện và HSG môn học các cấp. HSG toàn diện là HS có điểm
tổng kết trung bình môn từ 8,0 trở lên trong đó môn toán hặc văn phải trên 6,5
điểm, các môn còn lại trên 5,0 điểm.
HSG môn học các cấp là học sinh đạt và vượt điểm chuẩn trong kỳ thi HSG

môn học của cấp đó tổ chức. Gồm HSG cấp trường, HSG cấp tỉnh, HSG cấp quốc
gia.
Rõ ràng để việc chọn được HSG, tổ chức bôi dưỡng, tổ chức thi thì việc phát


hiện ra HSG từ những dấu hiệu ban đầu là rất quan trọng.
1.2.2.2. Những dấu hiệu của HSG vật lý [28]
Trong quá trình học tập, có những học sinh có trình độ kiến thức, kỹ năng và
tư duy vượt trội lên trên các họ sinh khác, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ môn
học một cách dễ dàng, đó là HSG môn học đó. Các dấu hiệu của HSG vật lý THPT:
- Có năng lực tư duy sáng tạo trong vật lý. HS phải biết phân tích hiện
tượng, sự kiện, biết vận dụng kiến thức đã học để đưa bài toán phức tạp thành bài
toán đơn giản, quy một hiện tượng mới lạ về một hiện tượng quen thuộc đã biết.
Các em không được lúng túng khi gặp một bài toán có dạng mới lạ.
- Có năng lực toán học, HSG phải biết sử dụng các công cụ toán học ( cục
tri, đạo hàm, vi phân, lượng giac, tích phân…) để giải bài tập vật lý.
- Có ký năng thực hành vật lý, trong đề thi HSG các cấp thông thường luôn
có một bài tập lập phương án thí nghiệm. Đay là vấn đề mới. HS phải nắm được
cách sử dụng các dụng cụ thí nghiệm cơ bản, biết chọn dụng cụ cần thiết cho yêu
cầu của phép đo, nắm được nguyên tắc, nội dung lý thuyết để thiết kế phương pháp
đo, phải biết cách đánh giá sai số của phép đo.
- Có thói quen tự học, tự nghiên cứu qua tài liệu, sách, tạp chí bộ môn. Nếu
HS chỉ biết học tập những gì mà giáo viên truyền thụ, không mày mò tự mghieen
cứu thêm qua các tài liệu khác thì khó có thể trở thành một HSG thực thụ.
Thông qua việc giải BTVL giáo viên có thể phát hiện HS có năng khiếu vật
lý qua 4 dấu hiệu trên.
1.2.3.3. Bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý ở trường phổ thông
Bồi dưỡng nhân tài là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nền giáo
dục. Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài được thực hiện từ ngay những cấp học
phổ thông mà trong đó ở phổ THPT là rất rõ nét.

Về cơ cấu tổ chức ở bậc học THPT các tỉnh đều có hệ thống trường chuyên
nhằm tuyển chọn và bồi dưỡng nhân tài cho địa phương, cho đất nước. Ngoài
trường THPT chuyên thì các trường THPT bình thường vẫn thành lập các lớp chọn
theo năng khiếu của học sinh, trong các lớp chọn lại tuyển chọn đội tuyển HSG để


có chế độ bồi dưỡng riêng biệt theo chế độ thời gian và kiến thức.
Hằng năm ở các cấp đều tổ chức các kỳ thi HSG để công nhận danh hiệu
HSG cho học sinh có năng khiếu chuyên môn và qua đó thành lập các đội tuyển để
dự thi các cấp cao hơn như cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia, cấp quốc
tế. Vì vậy việc thành lập đội tuyển HSG và tổ chức bồi dưỡng HSG là một trong
những nhiệm vụ quan trọng ở trường THPT.
Mục tiêu chính của chương trình dành cho HSG và HS tài năng nhìn chung
các nước đều khá giống nhau. Có thể nêu lên một số điểm chính sau đây:
- Phát triển phương pháp suy nghĩ ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí
tuệ của học sinh.
- Bồi dưỡng sự lao động, làm việc sáng tạo
- Phát triển các kĩ năng, phương pháp và thái độ tự học suốt đời
- Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh về sự tự chịu trách nhiệm
- Khuyến khích sự phát triển về lương tâm và ý thức trách nhiệm trong đóng
góp xã hội
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
1.2.3.4. Thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý ở nước ta và tỉnh Nghệ An
Trong những năm gần đây vẫn đề BDHSG đã được Đảng, nhà nước các ban
ngành quan tâm chú trọng. Ở các tỉnh có hệ thống trường chuyên, ở các trương
THPT không chuyên có hệ thống lớp chọn. Hằng năm liên tục có các kỳ thi tuyển
chọn HSG các cấp từ cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia, quốc tế.
Tuy nhiên kết quả đạt được của các kỳ thi HSG của các trường trong cùng
một tỉnh, của các tỉnh trong kỳ thi quốc gia thì hoàn toàn khác nhau. Bởi lẽ để đạt
được thành quả cao của các kỳ thi HSG theo chúng tôi nó phụ thuộc rất nhiều yếu

tố. Từ yếu tố chất lượng học sinh, năng lực của giáo viên, tài liệu bồi dưỡng, các
phương án tổ chức bồ dưỡng, thời gian đầu tư cho việc BDHSG….. Trong số đó thì
việc chọn lựa, biên soạn tài liệu, tổ chức các phương án bồi dưỡng góp một phần rất
quan trọng trong thành công chung của công tác BDHSG.
Trong các đội HSG tuyển HSG dự thi quốc tế nói chung và đội tuyển HSG
Vật Lý nói riêng trong những năm gần đây có thành quả ngày càng tốt. Theo tìm


hiểu của báo tiền phong cho biết: “Theo Cục Khảo thí & Kiểm định Chất lượng, Bộ
GD&ĐT, kết quả Olipic vật lý quốc tế năm 2014 này đã giúp Việt Nam tiếp tục duy
trì ổn định thành tích của các năm 2012, 2013 đồng thời có những chuyển biến, tiến
bộ rất đáng kể. Nếu xếp hạng theo tổng số huy chương thì năm nay Việt Nam xếp
thứ 4 trên tổng số 27 nước tham gia, đứng sau Trung Quốc, Singapore, Đài Loan.
Đây là thành tích cao nhất của các lần tham dự Olympic Vật lí châu Á của
nước ta (năm 2013 Việt Nam chỉ đứng thứ 10 trong bảng xếp hạng theo tổng số huy
chương). Bên cạnh đó, điểm thi của học sinh đoạt huy chương Vàng năm nay (là
em Cao Ngọc Thái, học sinh trường THPT chuyên Phan Bội Châu Nghệ An, đạt
43,75 điểm) xếp thứ 4 theo tổng số điểm từ cao xuống thấp của kỳ thi, chỉ kém học
sinh được điểm cao nhất kỳ thi 1,75 điểm. Đây là thứ hạng cá nhân cao nhất của
đoàn Việt Nam từ trước đến nay (năm 2013, thứ tự xếp theo điểm của hai học sinh
Việt Nam đoạt huy chương Vàng là 13 và 23).
Theo ông Mai Văn Trinh, Cục trưởng Cục Khảo thí & Kiểm định Chất lượng
Giáo dục, Bộ GD&ĐT, kết quả này có nguyên nhân từ những đổi mới căn bản
trong tổ chức tuyển chọn và tập huấn đội tuyển quốc gia dự thi; trong đó, có việc
năm 2014 lần đầu tiên thành lập đội tuyển Vật lí châu Á dựa vào kết quả kỳ thi
chọn đội tuyển Olympic (sàng lọc 2 lần) thay vì dựa vào kết quả kỳ thi chọn học
sinh giỏi quốc gia cùng năm như trước đây (sàng lọc 1 lần) để đảm bảo nâng cao
hiệu quả tuyển chọn, chọn đúng học sinh giỏi vào đội tuyển Olympic”.[31]
Bảng kết quả thi Olimpic Vật Lý quốc tế


Năm thi

Thành tích
HC Vàng

HC Bạc

HC Đồng

2012

2

1

2

2013

2

1

2

2014

3

2


0

Với công tác BDHSG ở tỉnh Nghệ An trong kỳ thi HSG quốc gia thì những
năm gần đây đội tuyển HSG Vật Lý của tỉnh Nghệ An luôn nằm trong tốp đầu của


cả nước cụ thể thành tích HSG quốc gia ở bảng sau
Thành tích đội tuyển HSG quốc gia môn vật lý tỉnh Nghệ An
Năm

Thành tích
Giải nhất

Giải nhì

Giải 3

Giải KK

2012

0

2

5

0


2013

1

2

4

1

2014

0

4

4

1

Tuy nhiên tất cả các học sinh tham gia đội tuyển HSG Vật Lý tỉnh Nghệ An
đều là HS của trường THPT chuyên Phan Bội Châu.
Trong kỳ thi chọn HSG cấp tỉnh ở Nghệ An hằng năm thì số đội tuyển HSG
Vật lý của các trường có thành tích có nhiều xáo trộn giữa các năm. Điều đó chứng
tỏ ngoài trường chuyên thì các trường THPT không chuyên công tác BDHSG chưa
có tính ổn định cao. Lý do đó chúng tôi đã tìm hiểu thì có nhiều nguyên nhân, mà
một trong những nguyên nhân dẫn tới kết quả trên là công tác BDHSG chưa được
xây dựng thành một hệ thống xuyên suốt cho các năm. Việc tổ chức BD còn mang
tính tự phát của GV được giao trách nhiệm BD, nên việc xây dựng , sử dụng tài
liệu, lên các phương án dạy bồi dưỡng chưa đực chú trọng mà còn mang nặng cảm

tính.
1.3. Bài tập Vật lý với việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi
1.3.1. khái niệm bài tập Vật lý[23]
Bài tập vật lý là một vấn đề được giải quyết bởi tư duy vật lý với các suy
luận logic, các phép toán cơ sở từ các định luật định lý, hiện tượng vật lý. Trong
dạy học BTVL được hiểu là vấn đề đặt ra cần được giải quyết nhờ sự suy luận logi,
tính toán, làm thí nghiệm và sử dụng các thao tác tư duy phân tích tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa trên cơ sở các quy luật và định luật vật lý.
1.3.2. Vai trò của bài tập vật lý[23]
BTVL như một phương tiện nghiên cứu tài liệu mới khi trang bị kiến thức
mới cho HS, đảm bảo cho HS lĩnh hội kiến thức mới một cách sâu sắc.
BTVL rèn luyện cho HS khả năng vận dụng kiến thức, liên hệ giữa lý thuyết,


những điều học trên lớp với thực tiễn cuộc sống, vấn đề cần giải quyết.
BTVL là phương tiện mà giáo viên bộ sung những gì mà giờ hocjlys thuyết
không tjeer nói hết được.
BTVL là dịp để HS hệ thống lại những kiến thức qua nhiều bài, chương,
phần khác nhau, giải những bài tập mang tính tổng hợp khái quát cao.
BTVL cũng là phương tiện để đánh giá khả năng tiếp thu và vận dụng kiến
thức của HS. Qua đó, giáo viên thu nhận và đánh giá thông tin phản hồi từ đó có
hướng điều chỉnh để nâng cao hiệu quả dạy học.
BTVL là phương tiện rèn luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu
khoa học, phát triển tư duy vật lý, tư duy logic, tư duy sáng tạo và năng lực làm việc
độc lập của HS, tinh thần tự lập, tính cẩn thận, kiên trì trong công việc.
1.3.3. Phân loại bài tập Vật lý
Để phân loại bài tập vật lý thì có nhiều kiểu phân loại bài tập dựa vào các
tiêu chí khác nhau.
Dựa vào công cụ giải bài tập có thể chia bài tập vật lý thành 4 loại: Bài tập
định tính, bài tập định lượng, bài tập đồ thị, bài tập thí nghiệm

Dựa vào tính chất của tư duy trong quá trình giải bài tập chia thành 2 loại:
Bài tập luyện tập và bài tập sáng tạo.
Dựa vào nội dung bài tập có thể chia bài tập làm 3 loại: Bài tập lý thuyết( có
nội dung giáo khoa), bài tập thực tế, bài tập kỹ thuật.
Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này, với mục đích bài tập sử dụng cho việc
bồi dưỡng HSG vật lý phần nhiệt học chung tôi chọn cách phân loại theo 3 loại
chính là:
+ Bài tập nâng cao kiến thức: là những bài tập bổ túc thêm cho học sinh
những kiến thức nâng cao vượt chuẩn
+ Bài tập luyện tập nâng cao: Là những bài tập rèn luyện kỹ năng sử dụng
các phương pháp quen thuộc để giải bài toán tổng hợp nhiều kiến thức, phải vận
dụng nhiều kiến thức định luật, kiến thức có khi liên bài, liên chương, liên phần


hoặc liên môn. Những bài tập được dùng để rèn luyện cho HS kỹ năng áp dụng
được những kiến thức xác định để giải bài tập theo một khuôn mẫu đã có, loại bài
tập này không đòi hỏi nhiều tư duy sáng tạo từ HS.
+ Bài tập sáng tạo: Là loại bài tập để bồi dưỡng tư duy sáng tạo và đòi hỏi
phải trả lời các câu hỏi “Làm thế nào” tương tự sáng chế trong sáng tạo khoa học kỹ
thuật. Đây là loại bài tập rất đặc trưng của môn vật lý đòi hỏi người giải cần có tính
nhạy bén sáng tạo, óc quan sát, trí tưởng tượng, trực giác kỹ thuật…
Các bài tập luyện tập nâng cao và bài tập sáng tạo đều bao hàm các dạng bài
tập theo cách phân chia dựa vào các tiêu chí trên như: Bài tập định tính, bài tập định
lượng, bài tập đồ thị, bài tập thí nghiệm…..
1.3.4. Bài tập Vật lý với việc bồi dưỡng học sinh giỏi
1.3.4.1. Tiêu chí bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi
Bài tập giữ một vai trò to lớn trong việc rèn luyện bồi dưỡng HSG, phát triển
năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học vậy lý. Bởi vì chính bài tập giúp cho
học sinh trong việc khắc sâu nội dung kiến thức, giúp họ trong việc đào sâu và xây
dựng các mối liên hệ giữa các bộ phận kiến thức với nhau. Nhờ đó mà kiến thức vật

lý trở nên sống động, có ý nghĩa trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Theo PGS TS Phạm Thị Phú Bồi dưỡng HSG cần đạt được các mục đích sau:
- Nâng cao kiến thức so với chuẩn (học sinh có đủ kiến thức lý thuyết để tiếp
cận và giải được đề thi HSG cấp tỉnh, cấp quốc gia trong 5 năm gần nhất)
- Nâng cao kỹ năng so với chuẩn, đặc biệt là các kỹ năng giải bài tập tổng hợp,
luyện tập có nội dung liên chương, liên phần.
- Bồi dưỡng, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
- Bồi dưỡng niềm đam mê, yêu thích Vật lý cho học sinh.
Để đạt được mục đích đó, hệ thống bài tập Vật lý phải đảm bảo được các tiêu chí
sau:
- Bài tập nâng cao kiến thức (nếu trong 5 năm gần đây, đề thi HSG các cấp có
kiến thức vượt chuẩn thì phải có tiêu chí này để bồi dưỡng cho học sinh).
- Bài tập luyện tập nâng cao (đó là các bài tập tổng hợp sử dụng nhiều kiến thức
liên chương, liên phần).


- Bài tập sáng tạo có nội dung thực tế, có nội dung kỹ thuật vừa để bồi dưỡng tư
duy sáng tạo, vừa nhằm bồi dưỡng niềm yêu thích Vật lý cho học sinh.
1.3.3.2. Bài tập luyện tập bồi dưỡng học sinh giỏi
Theo ngôn ngữ thông thường của giáo viên và học sinh thường gọi là bài tập
khó hay bài tập nâng cao. Bám sát tiêu chí 2 đã nêu ở 1.3.4.1, đây là loại bài tập
luyện tập vận dụng tổng hợp của chương, liên chương, hay kiến thức các phần khác
nhau của giáo trình Vật lý. Loại bài tập này vừa rèn luyện kỹ năng vận dụng tổng
hợp kiến thức, vừa rèn luyện kỹ năng tính toán, suy luận cho học sinh.
Mức độ phức tạp của loại bài tập này được đánh giá vào số đơn vị kiến thức sử
dụng trong bài tập; càng nhiều đơn vị kiến thức Vật lý được sử dụng thì bài tập
càng phức tạp. Đòi hỏi càng cao kỹ năng tính toán, suy luận của học sinh.
1.3.4.3. Bài tập sáng tạo bồi dưỡng HS giỏi [16][17]
Dạng của bài tập sáng tạo có thể rất khác nhau: câu hỏi, bài tập định tính, bài
tập định lượng và bài tập thí nghiệm, thực hành vật lý, thiết kế một mô hình kỹ

thuật…. Theo V.G Ra-zu-mốp-xki dựa theo sự tương tự giữa quá trình sáng tạo
khoa học với tính chất của quá trình tư duy trong giải các bài tập sáng tạo, chia bài
tập sáng tạo thành hai loại
Bài tập nghiên cứu: đòi hỏi trả lời câu hỏi “Tại sao?” tương tự với “phát
minh” trong sáng tạo khoa học kỹ thuật.
Bài tập thiết kế: đòi hỏi trả lời câu hỏi “Làm thế nào?” tương tự với “ sáng
chế” trong sáng tạo khoa học kỹ thuật.
Sự phân loại trên có tính khái quát cao nên khó vận dụng trong dạy học. Các
câu hỏi “Tại sao?” và “như thế nào?” cũng thường xuất hiện ở những bài tập luyện
tập. Để dễ vận dụng trong thực tiễn dạy học chúng tôi cho rằng nên kết hợp cách
phân loại này với cách phân loại theo các phẩm chất của tư duy sáng tạo. Tư duy
sáng tạo bộc lộ các phẩm chất: tính mềm dẻo, tính linh hoạt, tính độc đáo và tính
nhạy cảm. Bốn phẩm chất này có tính độc lập tương đối ở một mức độ nào đó, có
thể khai thác trong dạy học các bài tập sáng tạo nhằm bồi dưỡng tư duy sáng tạo
cho học sinh. Từ đó chúng tôi đề xuất các dấu hiệu nhận biết bài tập sáng tạo như
sau:


Dấu hiệu 1: Bài tập có nhiều cách giải
Đây là dạng phổ biến trong hệ thống bài tập sáng tạo cho học sinh thói quen
suy nghĩ không rập khuôn, máy móc. Thường xuyên cho học sinh làm việc với dạng
bài toán này làm cho học sinh nhận thức rằng: khi xem xét một vấn đề cần nhìn từ
nhiều góc độ, nhiều quan điểm khác nhau, từ đó có nhiều con đường đạt đến mục
đích và chọn ra con đường nào hiệu quả nhất.
Dấu hiệu 2: Bài tập có hình thức tương tự nhưng nội dung biến đổi.
Đây là những bài tập có nhiều hơn một câu hỏi, ở câu hỏi thứ nhất là một bài
tập luyện tập, các câu hỏi tiếp theo có hình thức tương tự, nhưng nếu vẫn áp dụng
phương pháp giải như trên sẽ dẫn đến bế tắc vì nội dung câu hỏi đã có sự thay đổi
về chất.
Phương thức để soạn thảo dạng bài tập này gồm 2 bước:

Bước 1: Cho bài tập hoàn chỉnh, yêu cầu học sinh tìm một yếu tố nào đó.
Bước 2: Thay đổi một dữ kiện của đề tài và vẫn yêu cầu học sinh tìm yếu tố
trên những chính dữ kiện đó đã phải làm biến đổi hoàn toàn bản chất của vấn đề.
Với bài tập có nhiều cách giải và bài tập có hình thức tương tự nhưng nội
dung biến đổi có tác dụng trong việc bồi dưỡng thói quen tư duy nhiều chiều, không
máy móc cứng nhắc, khắc phục tính ỳ của tư duy theo lối mòn - đó là các biểu hiện
về tình mềm dẻo của tư duy.
Dấu hiệu 3: Bài tập thí nghiệm về vật lý
Dựa vào yêu cầu và điều kiện ta có thể phân bài tập thí nghiệm vật lý gồm:
+ Bài tập thí nghiệm định tính.
+ Bài tập thí nghiệm định lượng.
Cả hai dạng bài tập thí nghiệm (địng tính và định lượng) đòi hỏi học sinh
phải tự thiết kế phương án thí nghiệm dựa trên cơ sở giả thiết bài toán: người ta cho
trước một số thiết bị thí nghiệm( dụng cụ đo lường, vật liệu) hoặc tự đề xuất.
Bài tập thí nghiệm định tính yêu cầu thiết kế phương án thí nghiệm theo một
mục đích cho trước, thiết kế một dụng cụ ứng dụng vật lý hoặc yêu cầu làm thí
nghiệm theo chỉ dẫn quan sát và giải thích hiện tượng xảy ra, loại bài tập này không
có các thao tác đo đạc, tính toán về mặt định lượng. Việc giải các bài tập loại này là


lập chuỗi các suy luận logic dựa trên cơ sở các định luật, các khái niệm và các quan
sát thí nghiệm vật lý. Trong loại bài tập này ta có thể phân làm hai loại là: Bài tập
thí nghiệm quan sát và giải thích hiện tượng và bài tập thí nghiệm thiết kế phương
án thí nghiệm nhằm giải quyết yêu cầu của đề bài.
Bài tập thí nghiệm định lượng: là loại bài tập mà khi giải ngoài việc chú ý
đến hiện tượng vật lý học sinh còn phải quan tâm đến số đo của các đại lượng cần
đo. Gồm các bài tập đo đạc đại lượng vật lý, minh họa lại quy luật vật lý bằng thực
nghiệm.
Các bài tập thí nghiệm có tác dụng bồi dưỡng tính linh hoạt của tư duy trong
việc đề xuất các phương án thí nghiệm, các giải pháp đo đạc trong các tình huống

khác nhau tuỳ thuộc vào các thiết bị thí nghiệm đã cho hay tự tìm kiếm.
Dấu hiệu 4: Bài tập cho thiếu, thừa hoặc sai dữ kiện
Đây là dạng bài tập mà người ra đề cố ý cho thừa dữ kiện, hoặc thiếu dữ
kiện, hoặc sai dữ kiện. Việc đòi hỏi học sinh phải nhận biết và chứng minh được dữ
kiện “có vấn đề” là mục đích của bài tập. Tính sáng tạo ở đây là học sinh phải nhận
ra sự không bình thường của bài toán, chỉ ra được mâu thuẫn giữa các dữ kiện và có
thể đề xuất các cách điều chỉnh dữ kiện để được bài toán thông thường. Việc phân
tích kết quả nhận được, đối chiếu kết quả với các dữ kiện bài toán đã cho trong
trường hợp bài toán cho thừa dữ kiện quan trọng hơn chính quá trình giải.
Dấu hiệu 5: Bài tập nghịch lý và ngụy biện
Bài tập nghịch lý và ngụy biện là những bài tập trong đó đề bài chứa đựng
một sự ngụy biện nên đã dẫn đến nghịch lý: kết luận rút ra mâu thuẫn với thực tiễn
hoặc mâu thuẫn với những nguyên tắc, định luật vật lý đã biết. Tuy nhiên nếu chỉ
nhìn nhận các yếu tố này một cách hình thức thì có thể nhầm tưởng rằng chúng phù
hợp với các định luật vật lý và logic thông thường. Song khi xem xét một cách cặn
kẽ, có luận chứng khoa học, dựa trên các định luật vật lý thì mới nhận ra sự nghịch
lý và ngụy biện trong bài toán.
Bài tập nghịch lý và ngụy biện là những bài tập được soạn thảo dựa trên
những suy luận sai lầm về tri thức vật lý của học sinh trong những biểu hiện đa
dạng của các sự kiện, hiện tượng, quá trình vật lý,…Các bài toán nghịch lý và ngụy


biện về vật lý là những bài tập loại đặc biệt mà phương pháp giải chung nhất là
phân tích và tìm ra nguyên nhân của sự hiểu sai và vận dụng sai các khái niệm, định
luật và lý thuyết vật lý.
Do nguyên nhân của những sai lầm tiềm ẩn trong các nghịch lý và ngụy biện
luôn đa dạng cho nên các bài toán thuộc loại này bao giờ cũng chứa đựng nhiều yếu
tố mới, bất ngờ, dễ kích thích óc tò mò tìm hiểu của người giải.
Các bài tập nghịch lý và ngụy biện có tác dụng bồi dưỡng tư duy phê phán,
phản biện của học sinh, giúp cho tư duy có tính độc đáo nhạy cảm, đặc biệt các bài

toán nghịch lý có giá trị lớn phát triển sự khám phá, tìm tòi thêm tri thức. Ưu điểm
của dạng bài tập này là kích thích hứng thú học tập cao độ của học sinh.
Dấu hiệu 6: Dạng bài tập không theo khuôn mẫu
Dạng bài tập này được soạn thảo không theo một khuôn mẫu nào cả. Mục
đích sử dụng để chống suy nghĩ rập khuôn, máy móc.Việc giải bài tập này không áp
dụng ngay các công thức đã biết. Điều cơ bản là học sinh phải tìm ra được mối liên
hệ “ngầm” từ đó hình thành nên những kết hợp mới của đề bài. Loại bài tập này
kích thích học sinh khả năng đưa ra các giải pháp lạ, cách giải quyết vấn đề theo
hướng riêng, độc đáo, không bị gò bó lệ thuộc vào cái đã có. Đây là loại bài tập
nhằm bồi dưỡng tính độc đáo của tư duy.
Dấu hiệu 7: Bài toán “ hộp đen”
Theo M.Bun-xơ-man bài toán “hộp đen’’ gắn liền với việc nghiên cứu đối
tượng mà cấu trúc bên trong là đối tượng nhận thức mới (chưa biết), nhưng có thể
đưa ra mô hình cấu trúc của đối tượng nếu cho các dữ kiện “đầu vào”, “đầu ra”.
Giải bài toán hộp đen là quá trình sử dụng kiến thức tổng hợp, phân tích mối quan
hệ giữa dữ kiện đầu vào, đầu ra để tìm thấy cấu trúc bên trong của hộp đen. Các bài
toán hộp đen ngoài chức năng giáo dưỡng còn có chức năng bồi dưỡng năng lực
sáng tạo.
Tuy nhiên tùy nội dung của từng phần mà chúng ta có thể xây dựng bài tập
sáng tạo theo các dấu hiệu.
1.4. Các phương án dạy học bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi [6] [23]


Việc giải bài tập vật lý kết hợp với các biện pháp khác đóng góp một phần
đáng kể vào việc phát triển hoạt động tư duy của học sinh. Dạy học sinh giải bài tập
vật lý là một công việc khó khăn và ở đó bộc lộ rõ nhất trình độ của người giáo
viên vật lý trong việc hướng dẫn hoạt động trí tuệ của học sinh. Muốn học sinh giải
được một bài tập nào đó thì trước hết giáo viên phải giải được bài tập đó, nhưng
như vậy chưa đủ. Muốn cho việc hướng dẫn giải bài tập được định hướng một cách
đúng đắn, giáo viên phải biết phân tích được phương pháp giải bài tập cụ thể bằng

cách vận dụng những hiểu biết tư duy giải bài tập vật lý để xem xét việc giải bài tập
cụ thể này. Mặt khác phải xuất phát từ mục đích sư phạm cụ thể cho việc giải bài
tập để xác định được kiểu hướng dẫn phù hợp. Nói cách khác là cơ sở khoa học để
suy nghĩ những hành động cụ thể cần thực hiện và trình tự thực hiện các hành động
đó để đạt kết quả mong muốn. Những hành động này được coi là những hành động
sơ cấp phải được học sinh hiểu và nắm vững.
1.4.1. Bài học luyện tập bài tập tại lớp [23]
Bài học tại lớp của tiết bồi dưỡng HSG là loại tiết học khó dạy, song một số
giáo viên chưa chú ý làm việc một cách nghiêm túc: Không có kế hoạch cụ thể,
thậm chí có khi còn không chuẩn bị, không có bài tổng hợp, chỉ có những bài trong
sách giáo khoa, sách bài tập, học sinh chỉ giở ra chép bởi có lúc bài thầy chữa
không có gì khác sách. Thêm nữa phương pháp làm việc trên lớp còn rất tẻ nhạt:
Thầy gọi một học sinh lên chữa, rồi nhận xét rồi lại chuẩn bị bài khác, dưới lớp sẽ
có nhiều học sinh không chú ý. Để đảm bảo có một tiết dạy hiệu quả giáo viên cần
phải chú ý theo các bước sau.
a) Chọn bài tập điển hình
Trong giờ chỉ nên chọn chữa những bài tập điển hình cho từng loại tức là
điển hình về phương pháp phân tích, hướng phát triển, cách áp dụng các định luật
cách nhận xét biện luận chặt chẽ... thông qua việc giải bài này học sinh có được
phương pháp giải cho từng loại, trên cơ sở đó có thể tự giải các bài khác. Không
nên chữa bài quá dễ hoặc quá khó (tức là bài phức tạp quá về tính toán rất mất thời
gian và sẽ làm nhẹ bản chất Vật lí của bài toán đặt ra).
b) Chữa bài tập tương tự


Để khắc phục tình trạng kém hứng thú của học sinh ở trên lớp khi chữa bài
mà họ đã làm ở nhà, thầy giáo có thể chữa bài tập khác tương tự với bài đã ra ở nhà
bằng cách đổi các số liệu hoặc đổi ẩn số của bài ở nhà thành dữ kiện ở bài chữa và
ngược lại. Với biện pháp này, ít nhiều thầy sẽ lôi cuốn được học sinh cùng mình
chữa bài tập mới, đồng thời theo dõi sửa chữa được cả bài tập đã làm ở nhà.

c) Giải bài tập có bình luận
Trong lúc một học sinh đang chữa bài tập trên bảng, thầy có thể yêu cầu cả
lớp theo dõi giúp đỡ bạn giải bài, nhận xét bài giải của bạn và nêu phương pháp giải
khác bạn hoặc so sánh các cách giải với nhau.
d) Phân phối công việc hợp lí
Gọi học sinh lên bảng chữa bài tập phù hợp với trình độ:
- Trong lúc một em đang chữa bài trung bình trên lớp, thầy chuẩn bị một số
phiếu khai thác ý hay của bài tập đang chữa ở bảng, thầy đọc nội dung phiếu, chí
định em đã chuẩn bị lên bảng chữa, cả lớp góp ý kiến bình luận.
Với biện pháp này thầy sẽ tạo cho cả lớp cùng làm việc, tránh sự tẻ nhạt và
tiết kiệm được thời gian, có khi chỉ cần chữa một bài tập mà có thể khai thác được
vài khía cạnh và đề cập tới cả bài tập phức tạp khác rất thuận lợi.
e) Đảm bảo tính chắc
- Với số lượng bài tập tương đối nhiều so với giờ quy định thầy giáo phải
biết chọn lựa bài điển hình, chữa chu đáo không nên tham số lượng mà đòi hỏi chất
lượng nữa. Chỉ cần chữa chắc, một vài bài điển hình, không nên chữa đại khái, sơ
qua.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh, điều quan trọng là tập cho các em
quen với phương pháp giải một cách khoa học: từ cách khai thác đề bài, phân tích
hiện tượng hợp lí chặt chẽ, đến việc áp dụng định luật và biện luận cho bài toán.
Trên cơ sở chữa bài tập cho học sinh sẽ tự mình giải quyết được tương đối dễ dàng
bài tập đã ra.
Đó là một vài biện pháp có thể phối hợp áp dụng trong giờ bài tập sao cho có
hiệu quả cao nhất. Làm thế nào để phối hợp được các biện pháp để giờ dạy được
như ý muốn, để làm được điều này đòi hỏi sự nghiêm túc, sáng tạo của thầy trong


việc đón ý của trò, dự đoán tình huống xảy ra, dẹp bỏ mọi bế tắc, thời gian chết
trong giờ dạy.
1.4.2. Luyện tập giải bài tập ở nhà.[6][19][22][23]

Qua thực tế dạy bồi dưỡng HSG Vật lí ở trường THPT, chúng tôi nhận thấy
giờ học trên lớp không có đủ lượng thời gian để giáo viên mở rộng, nâng cao kiến
thức cũng như rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh. Do đó bên cạnh việc tổ
chức các chuyên đề thì một trong những biện pháp tốt nhất để rèn luyện kỹ năng
giải bài tập cho học sinh để học sinh có thể thường xuyên được luyện giải nhiều
dạng bài tập khác nhau, cũng như tiếp xúc với các dạng bài tập có tính chất mở rộng
và nâng cao, để từ đó học sinh có thể vận dụng một cách linh hoạt các cách giải
từng dạng bài tập đó là : “Hướng dẫn học sinh giải bài vật lí ở nhà.”
Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục và giáo
dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em rèn luyện
thói quen làm việc tự lực, giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng, kỹ xảo.
Ngược lại nếu việc học tập ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ làm cho
các em quen thói cẩu thả, thái độ tắc trách đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình
dẫn đến nhiều thói quen xấu làm cản trở đến việc học tập.
Công việc học tập của học sinh ở nhà có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên, mặc dù đấy là công việc do chính giáo viên giao cho học sinh phải tự mình
hoàn thành, tự kiểm tra công việc mình làm.
+ Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực của
học sinh.
+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn :
Trước hết phải nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo.
Mỗi giai đoạn có một nội dung công việc cụ thể.
Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn vào việc dạy học trên
lớp của giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến thức
của học sinh mà giao cho các em những công việc có tính chất bổ sung phục hồi tài
liệu đã học như : nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình ….



×