Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Giá trị văn hóa và lịch sử của truyện truyền kì Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.76 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
DẪN NHẬP:.........................................................................................................................2
1.Lý do chọn đề tài:...........................................................................................................2
2.Mục đích nghiên cứu:.....................................................................................................2
3.Lịch sử vấn đề:...............................................................................................................3
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.................................................................................3
5.Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:...................................................................4
6.Bố cục của bài làm:........................................................................................................4
NỘI DUNG:..........................................................................................................................5
Chương I: Giới thiệu sơ lược về truyện truyền kì Việt Nam............................................5
1.Truyện truyền kì là gì?...............................................................................................5
2.Quá trình hình thành và phát triển của truyện truyền kì Việt Nam:..........................6
3.Các tác phẩm truyện truyền kì tiêu biểu:...................................................................8
Chương II: Giá trị văn hóa và lịch sử của truyện truyền kì:...........................................12
1.Giá trị văn hóa:.........................................................................................................12
2.Giá trị lịch sử:...........................................................................................................18
KẾT LUẬN:........................................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO:..................................................................................................25

1


DẪN NHẬP:
1. Lý do chọn đề tài:
Trong các giai đoạn của văn học Việt Nam, có thể nói văn học trung đại là giai
đoạn để lại nhiều thành tựu nhất, cũng như nhiều tác phẩm đặc sắc nhất.
Khi nói đến văn học giai đoạn này, chúng ta không thể không nhắc đến truyện
truyền kì – một trong những thể loại có vị thế quan trọng trong văn xuôi trung đại, và
trong nền văn học dân tộc. Với tính chất gần gũi cũng như những yếu tố quen thuộc
truyện truyền kì khá gần gũi với nhân dân Việt Nam, những tác phẩm ra đời luôn
được đón chào nồng hậu. Do những yếu tố đó, mà truyện truyền kì rất được đông đảo


nhà văn quan tâm, để thực hiện tư tưởng của mình. Nó không chỉ giúp cho nhà văn có
những thành công nhất định, mà còn mở trước mắt người đọc những thế giới mới lạ.
Như chúng ta đã biết, cái gắn bó với một tác phẩm không chỉ là bức vẽ hiện thực
hay huyền ảo, mà quan trọng hơn hình thành từ những điều đó hoặc nhờ nó mà bắt
nguồn lên tác phẩm chính là những giá trị văn hóa – lịch sử. Nhờ những giá trị này mà
tác phẩm truyện truyền kì sẽ được nhìn nhận thêm ở khía cạnh khác nhau nữa. Có thể
nói văn hóa – lịch sử là yếu tố khởi nguồn lên tác phẩm truyện truyền kì và cũng
truyện truyền kì hình thành là mang đến những giá trị văn hóa – lịch sử khác nhau.
Truyện truyền kì không những gắn với những nét văn hóa Việt mà còn gắn với cả
những mốc lịch sử, những con người hay sự kiện lịch sử của đất nước. Đó chính là lý
do chọn đề tài : “Giá trị văn hóa và lịch sử của truyện truyền kì Việt Nam”
2. Mục đích nghiên cứu:
Từ trước đến nay, khi nghiên cứu truyện truyền kì Việt Nam, chủ yếu các nhà
nghiên cứu đi sâu vào một hoặc nhiều tác phẩm, chủ yếu nghiên cứu về nội dung cũng
như nghệ thuật của tác phẩm đó, hay là nghiên cứu vế nhân vật, đặc trưng của một
truyện truyền kì nào đó. Ít có nhà nghiên cứu nghiên cứu tổng thể về truyện truyền kì
Việt Nam, hay có cái nhìn khái quát hơn toàn bộ về truyện truyền kì. Vấn đề giá trị
văn hóa hay lịch sử của truyện truyền kì cũng ít được xem xét tới.
Chẳng vì vậy mà vấn đề văn hóa – lịch sử và giá trị của nó trong truyện truyền kì ít
nhiều bị lãng quên. Vì thế bài nghiên cứu này sẽ đi chủ yếu vào vấn đề giá trị văn hóa
– lịch sử đế giúp người đọc nhìn rõ hơn truyện truyền kì ở một góc nhìn khác. Với các
mục đích chính là:
-

Giúp người đọc thấy được các giá trị văn hóa như : tôn giáo, danh lam – thắng
cảnh, địa danh, tín ngưỡng,… trong một vài tác phẩm, từ đó đưa người đọc cái
nhìn tổng quát hơn về những giá trị văn hóa của truyện truyền kì Việt Nam
2



-

Dựa vào những truyện có liên quan đến lịch sử, những dấu ấn hay nhân vật lịch
sử trong truyện truyền kì, lý giải rõ hơn về giá trị lịch sử mà truyện truyền kì
đem lại. Đồng thời hướng người đọc theo một cái nhìn lịch sử mới hơn dưới góc
nhìn của truyện truyền kì Việt Nam

3. Lịch sử vấn đề:
Căn cứ vào tình hình tư liệu hiện nay, có thể thấy rằng có ít người từng nghiên cứu
vế giá trị văn hóa và lịch sử của truyện truyền kì.
Về tổng quan họ đi vào phân tích hầu khắp các mặt như đặc điểm, phân loại, giá trị,…
Trong đó có một số nghiên cứu tiêu biểu như:
-

Nguyễn Đăng Na (1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, NXB Giáo
dục.

-

Đinh Phan Cẩm Vân (10/2000), “Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì”, Tạp chí
Văn học số

-

Nguyễn Hùng Vĩ ( 2006), “Lĩnh Nam chích quái – từ điểm nhìn văn hóa”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học.

-

Nguyễn Phong Nam (2015), Truyện truyền kỳ Việt Nam – đặc điểm hình thái,

văn hóa và lịch sử, NXB Văn học.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Bắt đầu với hai tác phẩm “Viết điện u linh tập” và “Lĩnh Nam chích quái lục” – hai
trong số các truyện truyền kì được xem là cổ nhất. Về sau khi “Thánh Tông di thảo”
ra đời, truyện truyền kì Việt Nam được xem như một bước tiến vượt bấc, rồi sau đó
với sự xuất hiện của “Truyền kì mạn lục”, về sau là “truyền kì tân phả”, “Lan trì kiến
văn lục” đã mang cho truyện truyền kì những đặc điểm nổi bật.
Vì vậy với đối tượng nghiên cứu là “truyện truyền kì Việt Nam” thì phạm vi nghiên
cứu sẽ chủ yếu ở các tác phẩm truyện truyền kì :
-

Viết điện u linh tập

-

Lĩnh Nam chích quái lục

-

Thánh Tông di thảo

-

Truyền kì mạn lục

-




Và một số tác phẩm truyện truyền kì khác như : “Tản Viên sơn truyện”, “Tang
thương ngẫu lục” ,…

3


5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu:
-

Phương pháp phân tích và tổng hợp:

Tách một tác phẩm ra thành những yếu tố văn hóa – lịch sử để đơn giản hóa nó.
Sau đó tổng hợp,liên kết, thống nhất lại kết quả của nhiều tác phẩm.
-

Phương pháp diễn dịch:

Suy luận đi từ tổng quát đến đặc thù, từ cái chung đến riêng.
-

Phương pháp lịch sử:

Tìm hiểu những giá trị cụ thể, những tác phẩm cụ thể, đó là thành quả của hoàn cảnh
cụ thể lịch sử, nằm trong tiến trình lịch sử của dân tộc.

-

Phương pháp hệ thống:

Vận dụng để sắp xếp các ý theo hệ thống


6. Bố cục của bài làm:
Chương I: Giới thiệu sơ lược về truyện truyền kì Việt Nam
1.

Truyện truyền kì là gì?

2.

Quá trình hình thành và phát triển của truyện truyền kì Việt Nam:

3.

Các tác phẩm truyện truyền kì tiêu biểu:

Chương II: Giá trị văn hóa và lịch sử của truyện truyền kì:
1.

Giá trị văn hóa:

2.

Giá trị lịch sử:

4


NỘI DUNG:
Chương I: Giới thiệu sơ lược về truyện truyền kì Việt Nam
1. Truyện truyền kì là gì?

Khái niệm truyện truyền kì có thể hiểu bằng nhiều cách. Có khi được giải thích
theo tính chất câu chuyện, khi thì dựa vào đặc điểm thể loại ở một thời kì nhất định,
khi lại dựa vào lịch sử hoàn thành của truyện truyền kì, khi dựa vào thể loại, khi lại
dựa vào yếu tố kì lạ.
Theo nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Phong Nam: “Nguyên chữ truyền/ truyền kì
trong Hán ngữ là để chỉ những gì khác lạ, phi phàm được truyền tụng, lưu hành trong
các điều kiện không – thời gian khác nhau. Chữ “truyện” ban đầu cũng có nghĩa là
một lối ghi chép nhân vật, sự kiện, dần dà ý nghĩa thay đổi, được hiểu là một thể loại
văn học. Từ đấy suy ra, bản chất của truyện truyền kỳ là truyện về các nhân – vật –
sự kỳ lạ, khác thường.”
Một số ít nhà nghiên cứu cho rằng truyện truyền kỳ là thể loại truyện ngắn cổ điển
của văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời Đường. Kỳ nghĩa là kỳ ảo, kỳ lạ, nhấn
mạnh tính chất hư cấu. Thoạt đầu là chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc lập
thành truyền kỳ. Có loại miêu tả cuộc đời biến ảo như mộng... Có loại ca ngợi tình
yêu nam nữ... Có loại miêu tả hào sỹ hiệp khách.
Định nghĩa về truyền kì, Trung Hoa văn hóa đại từ hải cho rằng: “Vì tình tiết có
nhiều kì lạ, thần dị mà có tên ấy”. Từ điển văn học ( Nxb Thế giới, 2004 ) cũng cho
rằng loại truyện này chú ý trước hết đến những “Mô típ kì quái, hoang đường”…
Cái “kì” trong truyền kì không chỉ là cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra mà cái có
thể là cái kì lạ, dị thường. Tuy nhiên, không phải cứ tác phầm nào viết về cái siêu
nhiên, cái không thể xảy ra thì đều có thể coi là truyện truyền kì. Yếu tố kì ảo ở đây
phải được đặt trong mối quan hệ mật thiết với yếu tố hiện thực và là sản phẩm sáng
tạo mang phong cách của nhà văn. Vì vậy kì ảo phải trở thành bút pháp nghệ thuật của
thể loại và nhà văn phải có ý thức rõ rệt trong việc sử dụng bút phát đó để phản ánh
hiện thực. Các loại truyện như thần thoại, truyền thuyết,… thuộc loại hình văn học
dân gian, hoặc những truyện chỉ thuần túy ghi chép những điều hoang đường, quái
đản, không liên hệ với hiện thực cuộc đời, sáng tạo của nhà văn mờ nhạt thì do nhiều
lí do khác nhau không thể xếp vào truyện truyền kì.
Khái niệm về truyện truyền kì được giới sáng tác và các nhà nghiên cứu hiểu rất
khác nhau. Có người coi đây là một thể loại, có người lại xem đó là một thể tài


5


(truyện ngắn trung đại), lại có hướng khác xem đây chỉ là một hiện tượng văn hóa –
văn học có những tính chất đặc thù riêng.
Nhìn chung để định nghĩa được truyền kì là gì không phải là một vấn đề dễ dàng,
và cho đến này cũng chưa có định nghĩa thống nhất và đủ sức thuyết phục hoàn toàn
về kiểu văn học này.
2. Quá trình hình thành và phát triển của truyện truyền kì Việt Nam:
Có những người chú ý đến sự vận động của thể loại truyện kì cho rằng “truyện kì
vốn bắt nguồn từ chí quái, nhưng được tô điểm thêm, đưa vào nhiều chi tiết hơn, gậy
thêm sóng gió, vì thế thành tựu của nó đặc biệt khác thường.”
Nhưng có thể nói, hầu hết các nhà nghiên cứu điều cho rằng truyền kì khởi điểm từ
văn học dân gian, từ đó kết hợp với yếu tố kì ảo, quái lạ, xen lẫn với nhiều yếu tố khác
nhau của một thể loại văn học mà hình thành nên truyện truyền kì.
 Cuối thế kỉ XIV trở về trước : Truyện truyền kì trung đại chịu ảnh hưởng thụ động
từ văn học dân gian:
Có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam đã bắt đầu manh nha từ thế kỷ XIII, với tác
phẩm Ứng Minh trì dị sự của Vũ Cao, được ghi lại trong Đại Việt sử lược. Tác phẩm
này tuy tình tiết, cốt truyện đơn giản, sơ lược nhưng bố cục chắc chẽ. Điều đáng chú ý
nữa là màu sắc dân gian thuần phác được thể hiện khá rõ nét. Và văn học dân gian đã
tác động đến suốt quá trình hình thành, phát triển của thể loại truyền kì cả về nội dung
lẫn nghệ thuật.
-

Về cốt truyện:

Một số cốt truyện trong tác phẩm của thể loại truyền kì chủ yếu lấy từ câu chuyện
lưu truyền trong dân gian, từ truyện cở tích cho đến thần thoại, truyền thuyết về các vị

thần. Không những vậy, các nhà văn luôn trung thành trong việc sử dụng những cốt
truyện mà chưa có sự đổi mới, sáng tạo.
-

Về nhân vật:

Các nhân vật của truyện truyền kì đều có nguyên mẫu từ văn học dân gian. Những
hình tượng gần gũi và quen thuộc nhất của các nhà văn trong thời kỳ đầu chính là từ
các truyện thần thoại, truyền thuyết, cố tích, thần kì… Điều này được thể hiện rõ trong
Việt điện U linh tập, Lĩnh Nam chích quái.
-

Về giọng điệu:

Chủ yếu là cách kể, giọng điệu của tác giả trong văn học dân gian

6


 Từ thế kỉ XV trở về sau: Truyện truyền kì trung đại tiếp thu một cách có ý thức văn
học dân gian
Từ việc ảnh hưởng một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả truyền kì dần
dần từng bước một thoát khỏi những ảnh hưởng ấy mà còn có ý thức sáng tạo chúng.


Nội dung phản ánh:

Nếu ở giai đoạn trước, các tác phẩm truyện kì lấy các vị thần, nhà sư làm đối tượng
phản ánh chủ yếu thì ở giai đoạn sau, các tác phẩm chủ yếu đề cập đến con người đời
thường, đặc biệt là những con người dưới đáy xã hội. Con người có đủ sức mạnh và

trí tuệ để làm chủ hoàn cảnh, cuộc sống. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn
này còn đề cập đến nội dung rất thực tế. Nó gắn liền với hiện thực cuộc sống đương
thời. Không chỉ là chuyện của ma quái, thần linh mà đó còn là câu chuyện về tình yêu,
hạnh phúc và hơn hết là mong ước gắn bó với quê hương thân thương. Tất cả những
đều ấy rất thức tế, xuất phát từ chính cuộc sống hằng ngày. Điều này cho thấy sự cách
tân trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.

-

Phương thức phản ánh:
Cốt truyện:

Mượn cốt truyện từ văn học dân gian nhưng được viết với một tư tưởng và mục
đích khác. Ở đây cốt truyện cũ chỉ là biện pháp để nhà văn dựa vào đó thể hiện điều
mình muốn gởi gắm. Lúc này tất cả đã được khoác lên những sáng tạo mới. Điều này
thể hiện những bước tiến quan trọng của thể loại truyện truyền kì Việt Nam thời trung
đại cũng như những biến đổi rõ nét trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.
-

Nhân vật:

Càng về sau, truyện truyện kì càng có những thể hiện mới, đặc biệt là nhân vật
người kể chuyện. Lúc này người kể chuyện đã mang tính cá thể, đồng thời còn cso sự
tham gia của nhà văn như một nhân vật trong tác phẩm. Nhà văn đồng nhất với nhân
vật. Điểm này được thể nghiệm thành công ở tác giả của Tháng Tông di thảo. Đó là sự
xuất hiện của nhân vật thứ ba, hiện thân của nhà văn. Đó cũng chính là bước tiến mới
của thể loại, chấm dứt lối ảnh hưởng thụ động, một chiều từ văn học dân gian. Lúc
này nhân vậy không đơn giản chỉ được miêu tả ở bên ngoài nữa mà đã được bước sâu
vào lãnh địa bên trong của tâm hồn, khai thác đời sống nội tâm, khắc họa tính cách.
-


Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ đối thoại là chủ yếu. Khác hẳn với lối kể chuyện đơn tuyến của văn học
dân gian, các nhà văn truyền kì đã bắt đầu quan tâm đến lối kể chuyện đa tuyến và nó
được thể hiện dày hơn, nhiều hơn trong tác phẩm. Từ ngôn ngữ đối thoại sẽ kéo theo
7


hệ quả ngôn ngữ mang tính cá thể. Mỗi nhân vật gắn liền với ngôn ngữ của riêng
mình. Và chính điều này đã góp phần làm nên những thành công rực rỡ cho thể loại
truyền kì.
3. Các tác phẩm truyện truyền kì tiêu biểu:
 Viết điện u linh tập:
Theo Đại Việt thông sử và Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến
chương loại chí (Văn tịch chí) của Phan Huy Chú, thì Lý Tế Xuyên chính là tác giả
cuốn Việt điện u linh tập, xuất bản vào khoảng năm 1329.
Lý Tế Xuyên (? - ?), không rõ tiểu sử, chỉ biết ông làm quan (một trong những
chức vụ của ông là trông coi việc tế tự) dưới triều Trần Hiến Tông (ở ngôi: 13291341, đặt niên hiệu là Khai Hựu).
Việt điện u linh tập mà nhiều người cho rằng ông làm ra, gồm 27 thiên, chia làm 3
mục (Nhân quân, Nhân thần, Hạo khí) kể về công tích 27 vị thần được thờ trong các
đền miếu thời Lý -Trần. Sau, có nhiều người ở đời Hậu Lê ra công tục biên, thành ra
sách có đến 4 quyển, gồm 41 truyện.
Ban đầu, sách Việt điện u linh có 27 truyện kể về các vị thần linh được thờ ở Việt
Nam, gồm các vua chúa (nhân quân), bề tôi trung liệt (nhân thần), thần sông, thần núi
(hạo khí anh linh). Theo bài Tựa đề năm Khai Hựu nguyên niên (1329, đời Trần Hiến
Tông) của Lý Tế Xuyên thì ông đã chọn kể theo phương châm: "những bậc sáng suốt,
ngay thẳng mới gọi là thần; không phải những loại dâm tà, yêu quái, ma quỷ cũng gọi
là thần đâu!...".
Thường thì mỗi thiên (truyện) được viết theo công thức sau:

Tên của mỗi truyện là mỹ hiệu mà hai triều Trùng Hưng và Hưng Long gia phong
cho thần.
Mở đầu mỗi truyện là câu: Theo (tài liệu nào đó của ai), ngài (vương, ông...) là (họ,
tên)...Kết cấu phần kể là công đức các thần theo công thức "dương trợ-âm phù", tức là
"Khí thế rừng rực lúc đương thời, anh linh tỏa rộng đến đời sau". Kết thúc mỗi truyện
là ba đợt gia phong: Trùng Hưng năm thứ nhất (1285), năm thứ 4 (1288) và Hưng
Long năm thứ 21 (1313), và câu: "Vì có công âm phù vậy".
Nguyên mục lục trong Việt điện u linh tập chỉ ghi mỹ hiệu của các thần linh (như
Gia Ứng Thiện Cảm Linh Vũ Đại Vương, là truyện kể về Sĩ Nhiếp), ở đây viết bằng
tên thật cho dễ hiểu. Có bản dịch thêm chữ "truyện" hay chữ "chuyện" đằng trước tên
thần.

8


 Lĩnh nam chích quái lục:
Lĩnh Nam chích quái ( có nghĩa là "Chọn lựa những chuyện quái dị ở đất Lĩnh
Nam". Có sách chép là Lĩnh Nam trích quái, được biên soạn vào khoảng cuối đời nhà
Trần.
Tương truyền Trần Thế Pháp (? - ?), một danh sĩ đời nhà Trần, là tác giả bộ sách
Lĩnh Nam chích quái. Thông tin này đã được ghi trong các sách: Vịnh sử thi tập của
Đặng Minh Khiêm, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn và Lịch triều hiến chương loại
chí của Phan Huy Chú.
Tiến sĩ Vũ Quỳnh, trong bài Tựa của ông, cho biết ông đã tìm được sách Lĩnh Nam
chích quái và tiến hành nhuận chính vào năm Hồng Đức thứ 23 (Nhâm Tý, 1492).
Tuy nhiên, trong bài Tựa không có câu nào nói về tác giả.
Trong Lĩnh Nam chích quái (bản cổ, gồm 22 truyện) có những truyện thần thoại
thời thái cổ như Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Tản Viên, Truyện Đổng Thiên
Vương...; có những truyện là sự tích thời Bắc thuộc như Truyện Việt tỉnh (Giếng
Việt), Truyện Nam Chiếu...; có những truyện là thần tích thời Lý-Trần như Truyện Từ

Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Hà Ô Lôi... Lại có truyện hoặc gắn với
nguồn gốc dân tộc Việt như Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Ngư tinh, Truyện Hồ tinh,
Truyện Mộc tinh...; hoặc có liên quan với những phong tục tập quán lâu đời của dân
tộc Việt như Truyện bánh chưng, Truyện trầu cau...; hoặc có liên quan với những di
tích văn hóa cổ đại của dân tộc Việt như Truyện rùa vàng, Truyện hai thần Long Nhãn
và Như Nguyệt...; hoặc có liên quan với những nhân vật lịch sử như Truyện Từ Đạo
Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,...
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, Lĩnh Nam chích quái chủ yếu có nguồn gốc ở Việt
Nam, nhưng do ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, nên có một số
truyện có nguồn gốc hoặc chịu ảnh hưởng từ nước ngoài. Song nhìn chung, toàn bộ
tập truyện vẫn thấm nhuần một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân gian.
Có thể ít nhiều thấy được ở đó thái độ yêu ghét của nhân dân: yêu chính nghĩa, ghét
phi nghĩa, yêu điều thiện, ghét điều ác, đề cao những mối quan hệ tốt đẹp thủy chung
giữa người và người
 Thánh Tông di thảo:
Thánh Tông di thảo (Bản thảo để lại của Thánh Tông) là một tác phẩm viết bằng
chữ Hán, nhưng lấy đề tài ở Việt Nam, tương truyền là của vua Lê Thánh Tông, trị vì
từ năm 1460 đến 1497 trong lịch sử Việt Nam.

9


Thánh Tông di thảo là cái tên do người đời sau đặt cho một tác phẩm gồm 19
truyện được viết theo loại hình truyền kỳ, tạp ký và ngụ ngôn (kể từ đây gọi chung là
truyện).
Không như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục,...thường ghi lại những tích
có sẵn; ở đây người viết hoặc dựa vào truyện dân gian, hoặc dựa vào những sự kiện
lịch sử (có liên quan đến thời kháng chiến chống Minh và thời của vua Lê Thánh
Tông), hoặc dựa vào văn liệu hay thực tế cuộc sống mà cấu tạo nên truyện mới. Vì
vậy có thể nói Thánh Tông di thảo là một sáng tác phẩm, trong đó có phóng tác, có tái

tạo và có cả hư cấu.
Trong Thánh Tông di thảo có truyện phản ảnh tâm lý căm ghét quân Minh của
nhân dân, có truyện đả kích rất mạnh giới sư sãi vô dụng, có truyện đề cập đến tình
yêu lứa đôi với những nhân vật nữ nết na, đức hạnh và chung thủy, v.v... Nhìn chung,
nhiều truyện rất hấp dẫn, bút pháp vững vàng, hình tượng sinh động, lời văn trau
chuốt. Ngoài ra, ở đây tiếng cười trào phúng đầy chất trí tuệ cũng là một đặc điểm khá
nổi bật. Tác phẩm này là một cột mốc đánh dấu bước tiến của văn tự sự, từ chỗ nặng
về ghi chép sự tích cũ đến chỗ sáng tạo những truyện mới.
 Truyền kì mạn lục:
Truyền kỳ mạn lục (nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy
nhất của danh sĩ Nguyễn Dư (thường được gọi là Nguyễn Dữ), sống vào khoảng thế
kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh
Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được
Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút". Và cũng có thể
khẳng định đây là tác phẩm tiêu biểu nhất của truyện truyền kì.
Tác phẩm gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn (văn xuôi), xen
lẫn biền văn (văn có đối) và thơ ca, cuối mỗi truyện có lời bình của tác giả hoặc của
một người có cùng quan điểm của tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời
Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc.
Giới thiệu sơ lược nội dung, PGS. TS. Trần Thị Băng Thanh viết:
“Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn
gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa
hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao
chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ
người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ
nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần

10



cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc
dục.
Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ.
Nguyễn Dư dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều
là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn
phải chịu số phận bi thảm.
Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả
kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến
quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ
chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật...”
Đúc kết lại, theo Tạ Ngọc Liễn, thì:
“Trong 20 truyện, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân
sinh, một ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một
xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình
cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người... Giá trị lớn của Truyền kỳ
mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó”
 Truyền kì tân phả:
Truyền kỳ tân phả (Cuốn phả mới về truyền kỳ) còn có tên là Tục truyền kỳ (Viết
nối truyện truyền kỳ); là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có xen thơ, hành và văn tế của
nữ sĩ Việt Nam Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
Truyền kỳ tân phả gồm 1 quyển, do nữ học sĩ Đoàn Thị Điểm soạn. Sách ghi chép
những truyện linh dị và những truyện gặp gỡ. Đó là các truyện: Hải khẩu linh từ (Đền
thiêng cửa biển), Vân Cát thần nữ (Thần nữ Vân Cát), An Ấp liệt nữ (Liệt nữ ở An
Ấp), Bích Câu kỳ ngộ (Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích câu), Nghĩa khuyển khuất miêu
(Chó khôn chịu nhịn mèo) và Hoành Sơn tiên cục (Cuộc cờ tiên trên núi Hoành Sơn)
Những chuyện của Đoàn Thị Điểm xây dựng từ những nhân vật có thật trong lịch
sử hoặc theo truyền thuyết dân gian, đều có ý thức đề cao người phụ nữ.
Nhìn chung, những truyện trong Truyền kỳ tân phả đều là những câu chuyện về
cuộc đời, về con người trong buổi xế chiều của xã hội phong kiến Việt Nam được
biểu hiện dưới màu sắc hoang đường, quái đản. Đây là một hình thức nghệ thuật khá

phổ biến trong văn xuôi Việt Nam kể từ sau Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ở thế
kỷ 16.
Ra đời sau Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục ngót hai thế kỷ, nhưng
Truyền kỳ tân phả đã không tiến kịp hai tác phẩm trên về nội dung và nghệ thuật. Cốt

11


truyện thường tản mạn, rườm rà. Kết cấu lỏng lẻo. trau chuốt nhiều đến câu chữ, lời
văn hơn là diễn biến nội tại của tác phẩm. Nói về Truyền kỳ tân phả, Phan Huy Chú
trong Lịch triều hiến chương loại chí viết:
Lời văn hoa lệ, nhưng khí cách yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ.
Tuy nhiên, đây vẫn là một tác phẩm văn xuôi báo hiệu bước mở đầu của trào lưu
"nhân đạo chủ nghĩa" trong văn học Việt Nam ở thế kỷ 18
 Lan Trì kiến văn lục:
Lan Trì kiến văn lục là một tập truyện truyền kỳ bằng chữ Hán do Vũ Trinh (1759–
1828), một đại quan và danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 của Việt Nam. Tác
phẩm gồm 3 quyển, tổng cộng 45 thiên chữ Hán, bản chép tay tại Thư viện Viện
Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) mang ký hiệu VHv. 1401.
Vũ Trinh viết Lan Trì kiến văn lục (chép những chuyện nghe và thấy của Lan Trì)
vào thời gian ông ẩn nhẫn ở Hồ Sơn. Khoảng những năm 1793-1794 cuối đời Tây
Sơn, đầu đời Gia Long. Những điều thấy và nghe (kiến văn) khi làm quan ở triều, khi
lánh nạn, tiếp xúc với bao người, những chuyện nơi đồng quê, ngõ chợ, kết hợp với
những điều trong sách vở thánh hiền đã được Vũ Trinh ghi lại một cách chân thực và
nghệ thuật. Sáng tác của ông nói đến nhiều việc, nhiều chuyện, lúc thật lúc ảo, nhưng
hầu hết đều ngụ ý sâu xa như một nỗi niềm tâm sự, khao khát cuộc sống yên bình. Nó
là tấm gương phản chiếu không tô vẽ.iên soạn.
Cũng như Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Phạm
Đình Hổ và Nguyễn Án; Lan Trì kiến văn lục tiếp nối dòng truyện truyền kỳ, bắt đầu
từ thế kỷ 16 với Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ... Và có thể nói, theo PGS. TS.

Nguyễn Đăng Na, thì đây là tác phẩm cuối cùng của loại hình truyền kỳ Việt Nam
thời trung đại.
Chương II: Giá trị văn hóa và lịch sử của truyện truyền kì:
1. Giá trị văn hóa:
Trong các thể loại văn học trung đại có thể nói truyền kì là thế loại văn học gần gũi
với dân gian nhiều nhất, là thể loại dễ tiếp thu, dễ nhớ và để tại ấn tượng mạnh mẽ với
người dân cũng như với văn hóa Việt Nam.
Truyện truyền kì là thể loại có giá trị văn hóa lớn hơn cả, nó không chỉ lưu giữ kí
ức của người Việt mà nâng tầm cả những giá trị văn hóa như tôn giáo, tín ngưỡng,
danh lam – thắng cảnh,… Nhờ những giá trị văn hóa to lớn mà truyền kì gìn giữ đã

12


góp phần nâng đỡ cho cuộc sống con người Việt suốt mấy nghìn năm, đồng thời nhờ
nó mà các giá trị văn hóa cứ thế lớn dần và tiếp nối về sau.
Trong nhận thức của người Việt, ý niệm về con người – tự nhiên (“linh địa”) khá
phức tạp, nó vừa hướng đến những hiện tượng cụ thể lại vừa nhắm đến cái trừu tượng.
Nó không chỉ là sự đánh giá, nhận định về một hiện tượng địa lý địa mạo, mà còn là
vấn đề tâm linh, tín ngưỡng. Cũng vì vậy, sự hiện hữu của thể tài “linh địa” trong
truyền kì hết sức đa dạng. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là truyện kể về những hình thế
sông núi, những vùng đất thiêng tàng ẩn “hạo khí” muôn đời, truyện về nơi sinh xuất
những “kì nhân”, nơi nảy sinh những “quái sự”, truyện về những nơi chốn trở thành
biểu tượng văn hóa, chứa các dấu tích “dật sử”, phong tục…
Cái đầu tiên khi nói về văn hóa, chính là cái khởi đầu là nền tảng hình thành nên
văn hóa, mà ở đó đất đai, sông núi, thiên nhiên là yếu tố quyết định. Chẳng vì thế mà
trong các tác phẩm truyện kì ta có thể bắt gặp những ghi chép, thậm chí là những tiểu
phẩm xoay quanh chủ đề núi sông linh dị. Truyền kì Việt có hẳn một mảng truyện mà
đối tượng là những cảnh quan nổi tiếng.
Trên thực tế, mối quan hệ tương liên giữa truyền kì linh địa và truyện kể dân gian

về các vùng đất là hết sức chặc chẽ. Những cảnh quan, địa điểm, những nơi chốn u
linh, những non kỳ thủy tú của quê hương xứ xở mà truyện truyền kỳ thể hiện thì hầu
như đã được nhắc đến trong các truyện kể dân gian.
Truyện truyền kì không lấy việc trình bày lai lịch, sự tích các danh lam, thắng
cảm… làm trọng như truyện kể dân gian. Thay vào đó nó nói về sự linh diệu, là kỳ
của xuyên sơn phong thủy trong mối quan hệ với con người, với đời sống cộng đồng.
Sự khác nhau ở việc mô tả các đối tượng này giữa truyện truyền kì và truyện kể dân
gian thể hiện chủ yếu qua việc sử dụng yếu tố kì ảo. Yếu tố kì ảo, linh dị trong truyện
truyền kì linh địa được đưa vào như một phương pháp thể hiện. Vai trò chủ yếu của
yếu tố kỳ ảo được dùng để chứng minh cho sự linh thiêng, đúng hơn là “thiêng hóa”
địa danh, “thiêng hóa” yếu tố văn hóa.
Chẳng hạn “Truyện núi Tản Viên” (Tản Viên sơn truyện) trong Lĩnh Nam chích
quái lục của Trần Thế Pháp.
Mục đích chính mà tác giả muốn trình bày ở “Tản Viên sơn truyện” không phải mô
tả về ngọn núi theo lối “dư địa chí”, cũng không phải nhằm kể công tích thần thánh,
cái quan trọng ở thiên truyện này là “hạo khí Tản Viên sơn”. Đây là lối tư duy độc đáo
( bằng hình ảnh, hình tượng ) của người Việt về quê hương đất nước mình. Núi Tản
Viên là một biểu tượng của sự vững chải, trường cửa, linh thiêng, một bằng chứng
sinh động cho “hồn thiêng sông núi”. Mặc dù truyên có sử dụng nhiều giai thoại,
13


truyền thuyết với nhiều kiểu thông tin khác nhau, song mục đích của câu chuyện lại
không hướng đến các sự kiện, nhân vật, hiện tượng cụ thể đó. Vấn đề không nằm ở
cuộc thi thố tài nghệ giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh để giành địa vị “phò mã”, không
phải ở cách giải thích về nạn lũ lụt hàng năm, cũng chả phải để biểu dương kì tích đắp
đê chống thiên tai của người Việt ( vốn là những giá trị chủ yếu của truyền thuyết Sơn
Tinh, Thủy Tinh ) mà nằm ở tâm linh Việt. Đây là câu chuyện về miền đất thiêng, về
nơi trấn ngự của vị đệ nhất phúc thần Đại Việt, là ghi chép về chốn “linh địa” chứ
không phải là chuyện thần thánh.

Trong rất nhiều các “mảnh” huyền thoại, truyền thuyết, giai thoại tàng ẩn trong dân
gian có liên quan đến Tản Viên, Trần Thế Pháp chỉ lọc ra những motip khả dụng cho
việc khắc họa hình tượng linh sơn để sử dụng.
Phần kết của “Tản Viên sơn truyện” khá lạ. Nó thể hiện rất rõ ý hướng tài bồi, bổ
sung, làm rõ “tinh thần” truyện (truyền kì linh địa) của tác giả. Trong đoạn cuối này,
ta thấy có một mảnh truyền thuyết Âu – Lạc được ghép vào. Có thể xem đây là nét
độc đáo của truyện khi đưa truyền thuyết của con người Việt Nam, nền tảng kì ảo của
văn hóa. Tác giả sử dụng nhiều lối văn, từ thuật tả, trích dẫn, cho đến bình giá, luận
đàm.. cũng như sử dụng thông tin từ nhiều nguồn như dẫn các thư tích, nhắc lại truyền
thuyết… là một cách soi chiếu đối tượng từ nhiều hướng. Mở rộng ra, cũng có thể
xem đây là một trong những nét riêng của loại hình truyện truyền kì. Dùng văn hóa, là
bàn đạp cho văn hóa; dùng truyện đề làm nền cho truyện.
Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, thần thánh, hoặc hiện thân của tự nhiên
điều là điều mà con người ta sùng bài, họ xem trọng và tôn thờ các vị thần, gắn với
rừng sẽ có thần rừng, với sông biển sẽ có thần sông, thần biển, gắn với những khu
vực, những địa danh khác nhau lại có những vị thần linh khác nhau, theo tín ngưỡng
của người dân vùng đó, họ xem đó là người đem lại cho họ một cuộc sống ấm no hạnh
phúc, họ thờ phụng và tin tưởng những vị thần đó, đó là tín ngưỡng lâu đời, là nét văn
hóa tâm đáng quý trong văn hóa Việt. Chẳng vì thế mà đặc điểm của các truyện sơn
linh dị là địa danh luôn có gắn liền với các vị thần thánh, kì nhân. Chính sự hiện diện
của các yếu tố huyền thoại làm cho các địa điểm trở nên huyền bí. Sông Tô Lịch
không còn là một “tiểu giang”, Tản Viên không còn là một ngọn núi mà cao hơn thế,
nó là biểu tưỡng mang tính chất tín ngưỡng cộng đồng. Chuyện về thần nhân và đất
đai phong thổ hòa quyện với nhau, tạo nên một thế giới kỳ lạ, vừa hư vừa thực.
Văn hóa là đặc trưng sâu sắc trong các tác phẩm văn học Việt Nam, hay nói cách
khác các tác phẩm văn học Việt Nam đã khắc họa một cách đặc sắc văn hóa Việt
Nam, văn học Việt Nam nói chung và truyện truyền kì nói riêng là bức tranh tô vẽ

14



đậm nét cho văn hóa Việt Nam, chẳng vì thế mà các hình ảnh sông núi là dòng mạch
xuyên suốt, rất nhất quán trong truyện truyền kỳ Việt Nam. Mặc dù xét trên sự kiện,
nhân vật, tình tiết, hoàn cảnh thì sự phù hợp của sơn thần thổ địa có thể không giống
nhau song bản chất thì không có gì khác. Từ những vị thần trong Lĩnh Nam chích quái
lục cho đến những trợ giúp của thổ thần cát trạch (những vị thân ẩn thân) đều hướng
đến một mục tiêu. Cái sự khác biệt ở các nhóm truyện trong thể tài linh địa kỳ thực
chỉ là trên bề mặt, về bản chất chúng chỉ là một.
Người Việt Nam có tín ngưỡng tâm linh rất phong phú, thế giới các vị thần rất đa
dạng phong phú, mỗi dân tộc, mỗi khu vực đều có hiện thân độc đáo của những vị
thần linh khác nhau, có thiện thần cũng có ác thần, có cả thần động vật, thực vật, rồi
cả những thần con người ở trời hay đất. Trong truyện truyền khi khi nhắc đến vì thần
gần gũi nhất có lẽ là “thần” đất đai, cây cỏ, sông suối, … Ở truyện các vị thần này
được gắn liền với các câu chuyện kể về sự báo đáp với con người. Nhưng đó cũng là
mảng gần gũi của văn học truyền khẩu của mọi dân tộc trên thế giới. Tính phố biến
của môtip người phàm nhận được sự phò trợ của kẻ khuất mặt ( theo cách nói dân
gian của người dân Việt Nam ) hay thế giới bên kia trong các nền văn học vùng Đông
Nam Á, Đông Bắc Á,.. nhất có thể kể đến là văn học Trung Quốc là do sự tương đồng
về môi trường tự nhiên và xã hội, cũng như điều kiện sống… Trong quá trình giao
lưu, tiếp xúc văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo giữa các cộng đồng… Tuy nhiên, điều lý
thú là ẩn sau những mô thức có tính chất phổ thông đó, mỗi cộng đồng lại tạo ra một
vài đặc điểm riêng, đưa ra thông điệp riêng thông qua câu truyện của mình.
Bên cạnh các tác phẩm nói về thần linh, còn nhóm khác cũng rất đáng quan tâm.
Đó là nhóm tác phẩm nói về cảnh trí thiên nhiên, thắng cảnh ( núi non, sông bãi, vịnh,
phá,.. ) hoặc nhưng công trình nhân tạo, các di tích ( các loại đền tháp, miếu mạo, đình
chùa, thành quách,… ) – gọi chung là cách danh thắng. Truyền kì danh thắng không
giống như truyện cổ tích, cũng không phải là địa chí ghi chép về đại lý, cảnh quan; nó
là những cái lạ - kỳ, những nét độc đáo khác biệt, đôi khi quái lạ của những danh lam
thắng cảnh. Mục đích của truyện không phải là giải thích nguồn gốc, hay thuyết minh
về giá trị văn hóa của di tích. Đó là điểm đặc biệt mà truyện truyền kì đem lại, nó hòa

quyện văn hóa vật chất với văn hóa tính thần, vừa nhấn mạnh yếu tố tinh thần trong
văn hóa Việt, vừa độc đáo vừa khác lạ lại bữa dễ hiểu, dễ tiếp thu.
Trong truyền kì danh thắng, ta hay gặp các địa danh sông hồ, núi non, chùa tháp,..
Thường thì tác giả lấy tên của một địa danh hoặc biệt danh cụ thể đặt làm tên của
truyện. Điều đó càng làm nổi bật lên địa danh văn hóa đó. Chẳng hạn như truyện
“Suối Rắn” trong Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề; “Sông Độc”, “Sông Dung”,

15


“Hồ Gươm”, “Núi Đông Liệt”,… là những ví dụ tiêu biểu. Đây là những thắng cảnh,
những địa danh nổi tiếng bởi vị thế, hình thái, cảnh quan, những địa danh nổi tiếng
bởi vị thế, hình thái, cảnh quan và quạn trọng hơn nó liên quan đến một thế giới khác
lạ, thấm đẫm màu sắc kỳ ảo.
Thoạt nhìn các tác phẩm truyện truyền kì được hình thành bằng sự ráp nối những
mẩu chuyện rời rạc, ngỡ như chẳng liên quan gì đến nhau song thật ra kết cấu của nó
vô cùng chẳng chẽ. Bởi vì điểu tác giả muốn nói không chỉ là những đặc điểm, tính
năng lịch sử của một địa danh nào nó mà còn cả những câu chuyện quái lạ về nó. Làm
cho điều tác giả nói đến vừa hiện thực nhưng lại vừa ảo diệu. Ngoài ra, chúng ta còn
bắt gặp truyện về các di tích, danh lam cổ tự, gồm đền miếu, chùa chiền, thành lũy nổi
tiếng. Đối với các truyện này, vấn đề không chỉ ở giá trị cảnh quan, kiến trúc mà còn
là những điều kỳ lạ, những hiện tượng tâm linh như đúng cái tên truyền kì của nó.
Chính sự hòa quyện giữa các giá trị văn hóa của di sản vật thể (công trình xây dựng)
và phi vật thể (như huyền thoại, truyền thuyết đã tạo nên một di tích đúng nghĩa của
nó. Có thể thấy danh lam, thắng cảnh là những văn hóa vật chất, song khi được vẽ nên
trong truyện truyền kì nó hòa lẫn giữa vật chất và tinh thần, cái đích mà các tác giả
muốn đạt đến không chỉ là cái nhìn đơn thuần về một nét văn hóa nào đó như danh
lam, thắng cảnh của Việt Nam mà là cả cái văn hóa mà người Việt gắn liền với nơi đó
hay chính nơi đó tương tác với con người Việt Nam. Thậm chí trong các tác phẩm
truyện truyền kì, chính những yếu tố kỳ ảo đó mới là linh hồn của di tích, là giá trị

văn hóa nổi bật. Trường hợp truyện “chùa Tiên Tích” trong Tang thương ngẫu lục là
ví dụ điển hình.
Trong tín ngưỡng của văn hóa Việt, có một thế giới tồn tại song song với thế giới
con người, mà thế giới đó không chỉ có thần linh như nêu trên, mà còn tồn tại yêu ma,
quỷ quái. Ở một số câu chuyện dân gian, truyền thuyết hay cổ tích ta đều có thể bắt
gặp, nó là thế lực đen tối, hay mưu đồ, hãm hại hay có những âm mưu đen tối; trong
truyện truyền kì cũng tương tự vậy, sở dĩ trong truyện truyền kì những thứ ấy trở nên
kỳ lạ bởi chúng được đặt trong mối liên hệ với con người, chính qua sự tiếp xúc với
con người, mà tính cách chúng bộc lộ. Điều đó dẫn đến những cuộc gặp gỡ lạ lùng và
chính những điều đó tạo nên nét hấp dẫn và lôi cuốn cho truyện truyền kì.
Tín ngưỡng văn hóa về thế giới bên kia hay thế giới thần linh, ma quỷ đang tồn tại
song song với sự sống con người là tín ngưỡng phổ biến ở rất nhiều nơi trên thế giới,
nên không chỉ riêng gì ở văn học trung đại Việt Nam mà hình ảnh nhân vật hay mối
liên hệ giữa con người và một thế giới ma quỷ, tiên phật cũng rất phổ biến. Không chỉ
thế mà giữa các nước, các dân tộc cũng có những điểm tương đồng.

16


Những câu truyện xoay quanh mối quan hệ giữa người và ma khá nhiều, song
phong phú và đa dạng hơn hết chỉ có thể nói đến truyện truyền kì kinh dị. Xét về giá
trị văn hóa đây là nhóm truyện bộc lộ rõ quan niệm của người Việt về thế giới tâm
linh nhất, nó thể hiện một cách sinh động phép ứng xử của con người trước thế giới
tâm linh và qua đây cũng phần nào giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tín ngưỡng của người
Việt trung đại.
Vì truyền kì khởi nguồn từ văn học dân gian và được nuôi dưỡng từ những giá trị
cơ bản của văn hóa, nên chúng ta có thể thấy bức tranh mà truyện truyền kì vẽ ra lúc
nào cũng giống như trong tưởng tượng của người dân hay cách hình dung trong văn
hóa Việt, cách các tác giả khắc hoa hình tượng quái dị cũng là cách nhìn của dân gian
đối với các thế lực đen tối đó. Chúng thường xuất hiện đúng bản chất yêu ma hay đôi

khi đội lốt người tốt, hoặc lợi dụng người xấu để làm việc ác, và chỉ xuất hiện trong
những tình huống quyết định. Và bản chất của hiện tượng ma quỷ yêu quái ở đây là
cái xấu, cái ác, sự phá hoại, nó rất đáng sợ và con người cần phải tránh.
Thế giới cõi âm theo quan niệm dân gian là thế giới mà con người khi chết đi sẽ
đến, đó là thế giới của yêu ma, ma xấu, ma tốt, của những điều kì bí, đó là điều không
ai biết và cũng chẳng có ai giải thích được. Trong truyện cõi âm được nhắc nhiều
trong các sách Tang thương ngẫu lục, Lan Trì kiến văn lục, Vân nâng tiểu sử,…
Những chuyện này ghi chép những hiện tượng kì dị, không thể hiểu được, nó vượt ra
khỏi tầm nhận thức của con người, được gọi chung là “quỷ”, hay “yêu ma”. Chúng
siêu hình, bí hiểm, và không nhận diện rõ ràng được.
Nếu trong văn hóa Việt có hình tượng các thần động vật, như cá Ông, thần Sư tử,…
thì trong truyện truyền kì người ta cũng hay nhắc tới nhiều giống loài như cá, trùng,
thú điểu,… những loại thú xuất hiện vừa lạ vừa quen, những yếu tố kì quái gắn liền
làm nó giống với phần tiềm thức trong tâm linh người Việt.
Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn
gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa
hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao
chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ
người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ
nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần
cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc
dục.
Truyện thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo
đức của tác giả. Đó là những mong muốn về một xã hội mọi người được sống yên
17


bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa
con người với con người... Giá trị văn hóa của truyện truyền kì còn ở những nội dung
nhân văn đó.

Truyện truyền kì Việt Nam là một hiện tượng văn hóa – văn học rất phức tạp. Nó
không chỉ đơn thuần là mẫu truyện đáp ứng thị hiếu nghe đọc của độc giả, mà còn
mang những giá trị văn hóa của dân tộc Việt, theo đó ăn sâu vào tiềm thức con người
dễ dàng hơn. Ở nó là các yếu tố văn hóa hiện hữu như tôn giáo, tín ngưỡng, danh lam,
thắng cảnh,... được khắc họa một cách độc đáo và hấp dẫn hơn.
2. Giá trị lịch sử:
Truyền kì không chỉ là bức vẽ đặc sắc về văn hóa Việt mà còn lạ bộ sách sử sinh
động về lịch sử Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ những kí ức lịch sử một cách độc đáo
nhất. Không thể phủ nhận rằng sử cổ Việt Nam đều từ truyền kì mà ra, gốc của truyền
kì là truyền ngôn vì thế lịch sử lưu giữ trong nó có thể được xem là sinh động và độc
đáo nhất.
Truyện truyền kì không chỉ viết về núi sông nước Việt mà truyện truyền kì còn hay
sử dụng các truyền thuyết hay các câu chuyện liên quan đến lịch sử dân tộc, quá trình
đấu tranh vì độc lập dân tộc. Ở truyện núi Tản Viên, linh khí thể hiện ở sự khinh bỉ
của Sơn Thần đối với trò trấn yếm mà kẻ gian nhà Đường ( Cao Biền ) thực hiện. Uy
linh Tản Viên thần khiến cho mưu hiểm của vua tôi nhà Đường thất bại. Ta cũng có
thể bắt gặp motip này trong Lĩnh Nam chích quái lục với “Truyện sông Tô Lịch”. Cái
“hạo khí anh linh” của sông Tô một lần nữa thể hiện qua việc thân sông Tô phá bùa
phép của Cao Biền.
Trong thế giới của các câu truyện truyền kì, không chỉ mãi bắt gặp những câu
chuyện dị thường về ma quái, thần tiên, mà còn có những sự tích liên quan đến ý thức
quật cường cảu người Việt trước kẻ thù xâm lược qua các thời.
Trong truyện truyền kì dấu ấn của quá trình lịch sử đấu tranh sinh tồn của người
Việt được thể hiện rất cụ thể, chẳng hạn như Sóc Thiên Vương chống nhà Ân trong
“Việt tỉnh truyện”, hồn thiêng Tô Lịch – Long Đỗ chống gian thế nhà Đường , hay
Trường Hống – Trương Hán phá giặc Tống trong “Long Nhãn Như Nguyệt nhị thần
truyện”… Trong các tác phẩm này vẫn độc đáo bởi cách khắc họa các vị thần linh,
song các vị thần luôn xuất hiện trong vai trò là chỗ dựa của quốc gia, ra tay giúp đỡ để
bảo vệ đất nước. Tác giả truyện qua đây còn khẳng định được đất nước này không
phải tự dưng mà có, nó hình thành nên bởi những cố gắng của tổ tiên, và được sự bảo


18


vệ của nhiều thứ khác nhau mới phát triển, con người – tự nhiên thực chất là hiện hữu
của người xưa, để tiếp tục che chở lo âu với vận mệnh của đất nước, giống nòi.
Để hiểu cặn kẽ về giá trị lịch sử của truyện truyền kì Việt Nam, chúng ta không thể
đi chung chung về tất cả tác phẩm, mà mỗi tác phẩm có những giá trị cũng như là
những bức tranh lịch sử khác nhau. Chúng ta phải đi đến những tác phẩm tiêu biểu về
giá trị lịch sử của truyện truyền kì Việt Nam để làm rõ hơn những giá trị đó.
Nói đến giá trị lịch sử của truyện truyền kì Việt Nam, đầu tiên không thể không nói
đến hai tác phẩm được xem là cổ nhất cho đến giờ: Viết điện u linh tập và Lĩnh Nam
chích quái lục.
Có thể thấy tác phẩm của Lý Tế Xuyên để bổ sung những khuyết điểm của lịch sử
Trung Hoa về Việt Nam, có lẽ phải nói như Lê Quý Đôn đã nói trong Kiến Văn Tiểu
Lục: Lương sử tài dã, tức là khen Lý Tế Xuyên là một sử gia có thực tài. Ta thử xem
phương pháp sáng tác của Lý Tế Xuyên, cách sử dụng tài liệu lịch sử của tác giả, sự
góp phần của cuốn sách vào sự hiểu biết xã hội đời Lý Trần.
Trong lời Tựa sách Việt điện u linh tập, ông viết: “Thánh nhân xưa nói: thông minh
chính trực mới đáng gọi là thần, không phải hạng dâm thần tà ma mà lạm gọi là thần
được đâu. Trong nước Hoàng Việt ta, các thần thờ ở miếu đền xưa nay rất nhiều
nhưng mà công tích rõ rệt, cứu giúp sinh linh thì có được mấy đâu. Tuy nhiên, các
thần vốn có phẩm loại không ngang nhau, có vị là linh túy núi sông, có vị là nhân vật
kiệt linh, khí thế rừng rực lúc đương thời, anh linh tỏa rộng đến đời sau. Nếu không
ghi chép sự việc lại thì phẩm loại trên dưới khó phân biệt. Hầu hết, các vị “nhân
quân”, “phụ thần” đều là người nước ta, những công tích siêu việt của các vị đó há
chẳng đủ cho nhân dân ta tự hào vì nhân vật nước ta hay sao?”. Lý Tế Xuyên chủ
trương ghi chép các vị thần có công “cứu giúp sinh linh”. Lời tựa của tác phẩm đã cho
ta thấy sự sáng suốt, thông minh của Lý Tế Xuyên đồng thời thể hiện lòng tự hào về
các nhân vật lịch sử của dân tộc. Đất nước ta đã phải trải qua hàng nghìn năm sống

dưới ách thống trị của phong kiến phương bắc. Trong cuộc đấu tranh lâu dài để bảo vệ
và xây dựng đất nước của nhân dân ta, đã xuất hiện những nhân vật kiệt xuất, những
người anh hùng dân tộc. Đó là những người anh hùng như Hai Bà Trưng trong Nhị
Trưng phu nhân, mặc dù là phụ nữ nhưng hai bà quyết đánh đuổi Tô Định để cứu Thi
Sách bảo vệ đất nước hay Lý Thường Kiệt trong Thái úy trung phụ dũng vũ uy thắng
công, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ được vua giao khi “nước Chiêm Thành trễ nải
việc triều cống, nhà vua thân chinh đi dẹp. Ông vâng mệnh lĩnh chức đại tướng, sung
làm tiên phong, bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Củ” [16;27], rồi khi nghe tin
người Tống có ý dòm ngó, xâm lược nước ta thì ông bèn lập tức tâu vua: “Ngồi đợi kẻ

19


địch đến, sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó” [16;27]. Như vậy, Lý
Thường Kiệt không chỉ dũng cảm đánh lại giặc ngoại xâm mà ông còn thông minh,
sáng suốt khi đưa ra cho vua kế sách đánh giặc trước để “bẻ gãy mũi nhọn của nó”.
Đó là những nhân vật lịch sử, những người anh hùng, những con người Việt Nam yêu
nước nguyện xả thân vì độc lập tự do của dân tộc. Nhưng điều có ý nghĩa hơn là khi
họ đã trở thành người ở cõi âm (“u”) thì hương hồn của họ vẫn linh thiêng (“linh”) và
mỗi khi có giặc ngoại xâm, họ lại hiển linh giữa nơi trận mạc để mang các phép mầu
ra giúp vua đương thời cứu nước.
Đó là Hai Bà Trưng, khi còn sống, hai bà bị thua nơi trận mạc nhưng tinh thần đoàn
kết dân tộc khiến Hai Bà phất cờ ra trận thì nhân dân nhất tề đi theo.Và khi Hai Bà
qua đời thì lại xuống trần làm mưa cứu nhân dân chứng tỏ Hai Bà vẫn luôn một lòng
yêu nước, vẫn luôn thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình đối với dân tộc.
Như vậy, các nhân vật lịch sử của dân tộc bao gồm cả người còn sống hay đã qua
đời. Cái đáng ca ngợi ở họ là luôn luôn tự nguyện xả thân cho đất nước, cho dân tộc.
Lý Tế Xuyên khi viết về họ đã không quên thể hiện tinh thần, lòng tự hào hết sức sâu
sắc.
Trong Việt điện u linh tập, truyện Khước địch thiện hựu, Trợ thuận Đại vương uy

địch dũng cảm, Hiển thắng Đại vương viết về hai anh em Trương Hống và Trương
Hát có đoạn như sau: “Đến đời vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) quân Tống sang lấn,
tiến vào trong cõi. Vua sai thái úy Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ.
Một đêm quân sĩ nghe trong đền có tiếng thần ngâm thơ:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Việt điện u linh tập ra đời khi cả dân tộc đang một lòng vì đất nước quyết tâm tiêu
diệt giặc, nó phản ánh không khí thời đại đang sục sôi, đồng thời thể hiện về truyền
thống ngoại xâm ấy. Và không chỉ có vậy. tác phẩm còn cho ta thấy lòng yêu nước
của nhân dân ta trở thành truyền thống qua các thế hệ thể hiện sức sống mãnh liệt của
nhân dân.
Trong Việt điện u linh tập, những người anh hùng yêu nước chống ngoại xâm hầu
hết là các vị thần. Các vị thần là sự thể hiện nhân dân với tinh thần bất diệt. Họ được
thần linh hóa “là lực lượng hỗ trợ cho vua chúa quan quân để chỉ rõ điềm lành, dữ

20


hoặc có khi tham gia vào những công việc của thế gian, giúp triều đình dẹp giặc trừ
họa”
Giá trị lịch sử của Việt Điện U Linh Tập không phải chỉ cốt yếu trong cách tác giả
sử dụng tài liệu lịch sử vào nhân vât. Đọc Lý Tế Xuyên, ta đã hiểu cái tôn giáo của
người Việt xưa như thế nào, cái luân lý nào đã điều động tinh thần của người Việt
Nam; ta còn thấy trong phong kiến phương bắc. Trong cuộc đấu tranh lâu dài để bảo
vệ và xây dựng đất nước của nhân dân ta, đã xuất hiện những nhân vật kiệt xuất,
những người anh hùng dân tộc. Đó là những người anh hùng như Hai Bà Trưng trong
Nhị Trưng phu nhân, mặc dù là phụ nữ nhưng hai bà quyết đánh đuổi Tô Định để cứu
Thi Sách bảo vệ đất nước hay Lý Thường Kiệt trong Thái úy trung phụ dũng vũ uy

thắng công, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ được vua giao khi “nước Chiêm Thành trễ
nải việc triều cống, nhà vua thân chinh đi dẹp. Ông vâng mệnh lĩnh chức đại
tướng,sung làm tiên phong, bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Củ” , rồi khi nghe tin
người Tống có ý dòm ngó, xâm lược nước ta thì ông bèn lập tức tâu vua: “Ngồi đợi kẻ
địch đến, sao bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó” . Như vậy, Lý Thường
Kiệt không chỉ dũng cảm đánh lại giặc ngoại xâm mà ông còn thông minh, sáng suốt
khi đưa ra cho vua kế sách đánh giặc trước để “bẻ gãy mũi nhọn của nó”.
Đó là những nhân vật lịch sử, những người anh hùng, những con người Việt Nam
yêu nước nguyện xả thân vì độc lập tự do của dân tộc. Nhưng điều có ý nghĩa hơn là
khi họ đã trở thành người ở cõi âm (“u”) thì hương hồn của họ vẫn linh thiêng (“linh”)
và mỗi khi có giặc ngoại xâm, họ lại hiển linh giữa nơi trận mạc để mang các phép
mầu ra giúp vua đương thời cứu nướcác phẩm ấy phong tục của người xưa, những nét
tâm lý của một hạng người, những màu sắc của một chế độ. Ta thấy trong truyện Bố
Cái Đại Vương và trong truyện Lê Phụng Hiểu sự kính phục của nhân dân đối với
những bậc nam tử có sức mạnh hơn người, sự cạnh tranh về ảnh hưởng rõ rệt trong
truyện Triệu Việt Vương, Lý Nam Đế, sự bạc tình tàn nhẫn của Nhã Lang trở thành
độc địa trước sự ngây thơ tin chồng của Cảo Nương rồi tục gửi rể cũng trong truyện
này, nỗi lo âu của một người cha khi chỉ có một con gái mà có những hai chàng trai
tài như nhau đến xin cưới (chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh), rồi tục ăn hỏi, sự đau đớn
khi người yêu của mình bị rơi vào tay người khác, đó là những sắc thái của một thời
đại lịch sử đã rất xa nhưng vẫn còn nhiều điểm tương đồng với xã hội ta bây giờ.
Sau Viết điện U linh, Lĩnh Nam chích quái được xem là có giá trị lịch sử lớn hơn
cả, bởi nó được xem là tác phẩm “sử trong truyện”

21


Bất luận những người biên soạn đầu tiên Lĩnh Nam chích quái theo một triết thuyết
tôn giáo hay đạo đức xã hội nào. Bất luận những người sao chép, tăng bổ, bình luận
sau này suốt thời kì trung đại theo chính kiến nào, quy thức văn chương nào, thì tư

tưởng thống soái của họ khi xây dựng, tiếp cận tác phẩm này đó là tư tưởng ÁI
QUỐC. Trong sự tồn tại tổng thể của nó, Lĩnh Nam chích quái là một tượng đài kì
diệu cho tư tưởng ái quốc. Chính điều này sẽ là kim chỉ nam cho mọi học giả, dù tiếp
cận tác phẩm dưới bất cứ phương pháp khoa học ngữ văn nào, thì vẫn phải đứng ở tư
cách, ở nhân cách một người ái quốc.
Trong lời Tựa cho việc biên soạn của mình, Vũ Quỳnh từ 1492 đã cho thấy: “Chính
các bậc tài cao học rộng thời Lý – Trần khởi thảo, được các bậc quân tử uyên bác,
hiếu cổ đời nay nhuận sắc thêm”, và ông cũng nói thêm “đó là sử trong truyện
chăng?”. Lĩnh Nam chích quái ra đời như là sự kết tụ của tinh thần độc lập dân tộc
chặng đầu của kỉ nguyên Đại Việt hào hùng. Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc,
tư tưởng độc lập dân tộc được khởi phát từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng (thế kỉ I), Bà
Triệu (thế kỉ III) bắt đầu có thành quả bởi Lí Bôn (thế kỉ VI) và đã là hiện thực lịch sử
chắc chắn với Ngô Quyền (thế kỉ X), đất nước ta bước vào kỉ nguyên Đại Việt với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc quốc gia phong kiến độc lập, lần lượt chiến
thắng những thế lực xâm lược lớn nhất thời đại là Tống, Nguyên, Minh. Một đất nước
có văn hiến, một nhân dân tự ý thức được quyền độc lập dân tộc đó là nhiệm vụ tư
tưởng quan trọng bậc nhất của thời đại bấy giờ. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến
và các cuộc khởi nghĩa vừa là điều kiện vừa là hệ quả của tư tưởng đó. Không có lịch
sử thì không có dân tộc. Nói Lĩnh Nam chích quái là “sử trong truyện” chính là bao
hàm ý nghĩa đó.
Với 22 cốt truyện cơ bản, dù sắp xếp theo trình tự nào thì Lĩnh Nam chích quái
cũng trình diễn trước chúng ta ý thức về truyền thống lịch sử riêng của đất nước từ
buổi hồng hoang đến những câu chuyện xảy ra ở thời đại nhà Trần. Sau này, các bậc
túc nho giàu nhiệt huyết có bổ sung thêm bao nhiêu đi nữa thì vẫn theo tư tưởng đó:
đây là những câu chuyện được truyền ở cõi Lĩnh Nam, khác với Trung Hoa. Họ
không thôi khẳng định một nền văn hiến của một dân tộc độc lập như Nguyễn Trãi
từng nói trong Bình Ngô đại cáo: Sơn xuyên chi phong vực kí thù, Bắc Nam chi
phong tục diệc dị. Nói lại: Một tượng đài tinh thần thiêng liêng và kì diệu, đó là Lĩnh
Nam chích quái. Không dễ gì để lí giải tường tận nó.
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng những định đề tưởng như bình thường nhưng hết sức

quan trọng: Dân tộc và quốc gia là hai phạm trù lịch sử, hai phạm trù văn hóa. Nó nảy
sinh trong lịch sử như kết quả phát triển lâu dài của nhân loại cả ở phương diện thực

22


tiễn, cả về phương diện tinh thần. Đến bây giờ, ta có thể vững tin ở sự tồn tại lâu bền
của nó cùng nhân loại tương lai. Không một nhà văn hóa nào lại tưởng tượng được
không gian văn hóa dân tộc, không gian văn hóa quốc gia một ngày nào đó sẽ mất đi.
Sự mất đi của nó sẽ đồng nghĩa với sự tàn lụi của bản sắc văn hóa ở cấp cộng đồng cơ
bản nhất. Là một phạm trù lịch sử, tư tưởng độc lập của dân tộc, tư tưởng ái quốc
cũng hình thành dần theo thời gian và không ngừng được thức nhận ngày càng sâu
sắc, được bồi đắp ngày càng phong phú ngay cả trong thời đại hiện nay. Chặng đầu
của kỉ nguyên Đại Việt chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của những tư tưởng đó.
Cùng với Việt điện u linh, Đại Việt sử kí toàn thư, Lĩnh Nam chích quái là một tượng
đài tinh thần của độc lập dân tộc và nó mang tầm quan trọng của một tác phẩm khởi
nguyên có giá trị tổng kết lịch sử sâu sắc, và tự phát sáng giá trị của mình.
Những tri thức về cội nguồn dân tộc mà Lĩnh Nam chích quái phát ngôn dù mang
hạn chế lịch sử nhưng cũng chứa đựng những cốt lõi lịch sử (vấn đề Đông Nam Á,
vấn đề Việt – Mường chung, vấn đề đoàn kết tộc người trong không gian Đại Việt…)
mà ngày nay vẫn cần khám phá, vẫn là vấn đề thời sự. Đọc kĩ ở đây, chúng ta nhận ra
một chất lượng tư duy đặc biệt siêu phàm của các tri thức nho học ái quốc thời Lý –
Trần – Lê.
Các tác phẩm truyền kì đều có giá trị lịch sử to lớn, song mỗi tác phẩm lại nhìn
nhận ở các khía cạnh khác nhau, trước mắt để hiểu về giá trị lịch sử của truyện truyền
kì chúng ta nhìn nhận theo khía cạnh của hai tác phầm truyền kì cổ là Viêt điên u linh
tập và Lĩnh Nam chích quái lục. Các tác phẩm truyền kì sau cũng đề cập khá nhiều
đến lịch sử Việt Nam, lấy lịch sử làm nền tảng để viết truyện. Tuy nhiên, để nhìn nhận
vấn đề ngắn gon hơn và nắm bắt vấn đề dễ dàng hơn mà không bị rối chúng ta trước
mắt đển nắm bắt giá trị văn hóa của hai tác phẩm trên. Đó là ngọn nguồn giá trị lịch

sử của truyện truyền kì trung đại Việt Nam.
Đa phần truyện truyền kì đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một
cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm
vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người
được đề cập tới… Tư tưởng chủ đạo của tác giả là tư tưởng Nho gia. Tác giả phơi
bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức
bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một
vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần
vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt
bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân

23


hậu, thủy chung. Tuy nhiên truyền kì không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà
còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến…
Các tác phẩm còn phơi bày những tệ trạng khác trong xã hội . Đó là bọn tu hành giả
dối, do những tên bất lương trộm cướp hay phường giá áo túi cơm lười biếng mà trốn
việc, núp dưới mái chùa để làm điều xằng bậy: “ vào bếp để khoắng hủ rượu”, “ vào
buồng để ghẹo vợ người”…. Đó là những tên lái buôn ỷ vào thế lực đồng tiền sống
phóng đãng sa đọa….Tất cả những cái xấu xa trong một xã hội phong kiến đương đi
vào suy thoái đã hiển hiện đầy đủ và sắc nét trong tác phẩm, phản ánh trng thực bộ
mặt xã hội khoảng TK XVI - XIX.
Qua đó, tác giả truyện đề cao lối sống ẩn dật, không tham gia việc đời- thực chất là
bất hợp tác với giai cấp thống trị; một xã hội phức tạp hỗn độn với những mũ cao áo
dài nhớp nhúa ngụp lặn trong tiền của lợi danh, máu và nước mắt của nhân dân.

KẾT LUẬN:
Đã qua một quãng thời gian rất dài mà truyện truyền kì tồn tại. Theo thời gian
nhiều loại hình văn học khác ra đời, tuy nhiên để thay chân truyện truyền kì đứng

trong nền văn học Việt Nam là điều không thể.
Truyện truyền kì có sức sống kì diệu trong nền văn học Việt Nam, chẳng vì thế mà
thể loại này đã được chào đón nồng nhiệt ngay khi ra đời và về sau sẽ còn lay động
tình cảm bạn đọc, bất chất những thay đổi của thời gian.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Truyện truyền kì Việt Nam ( Đặc điểm hình thái, văn hóa và lịch sử ) – Nguyễn
Phong Nam, NXB Văn học, năm 2015
2. Giáo trình văn học trung đại Việt Nam – tập 1 – Lã Nhâm Thìn, NXB Giáo
dục, năm 2013
3. Từ điển bách khoa mở Wikimedia
4. Bài viết "Lĩnh Nam chích quái" - từ điểm nhìn văn hóa trên Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số VIII năm 2006, trang 98-112
5. Giá trị của việt điện u linh tập - />
25


×