Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Đánh giá chung về việc sử dụng chính sách tiền tệ của NHNN ở Việt Nam thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.73 KB, 11 trang )

Mục lục
Trang

A. Lời mở đầu

2

B. Nội dung

3

I. Khái niệm và các công cụ của chính sách tiền tệ.

3

1. Khái niệm chính sách tiền tệ

3

2. Công cụ của chính sách tiền tệ

3

III. Đánh giá chung về việc sử dụng chính sách tiền tệ của NHNN ở
Việt Nam thời gian qua

6

1. Những thành công đã đạt được

6



2. Những bất cập của CSTT trong thời gian gần đây

7

3. Một số biện pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ

9

C. Kết luận

10

Danh mục tài liệu tham khảo

11

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 1


A. Lời mở đầu.
Ngày này việc làm và phân phối thu nhập vừa là vấn đề bức thiết trước mắt,
vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mà việc đẩy lùi và
kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm là vấn đề thường trực. Giải pháp cho việc
đẩy lùi lạm phát, trách thất nghiệp nhiều cần tập trung vào chính sách tiền tệ nhưng
việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia
có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là

ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Mặt khác, nền kinh tế thị
trường bản chất là một nên kinh tế tiền tệ. Do đó việc ổn định giá trị đồng tiền
cùng với việc thiết lập nền Tài Chính Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc
kiềm chế lạm phát, và ổn định nền kinh tế.
Thấy được sự quan trọng và bức thiết của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
quốc dân nên em quyết định nghiên cứu đề bài “chính sách tiền tệ và việc vận dụng
chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay”. Trong quá trình làm bài do hiểu biết và tài
liệu còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy mong rằng thầy,
cô giúp em sửa chữa để bài làm thêm trọn vẹn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 2


B. Nội dung
Ta biết rằng nhược điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự động tạo ra
các chu kì kinh doanh, sản lượng thực tế dao động lên xuống xung quanh trục sản
lượng tiền năng, nền kinh tế luôn có xu hướng không ổn định.
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo ba dấu
hiệu chủ yếu: Ổn đinh, tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong đó ổn định kinh tế
là một mục tiêu quan trọng hàng đầu của một nền kinh tế. Ổn định kinh tế vĩ mô
là kiểm soát được giá cả, tỷ giá, lãi suất … Bằng việc duy trì và cải thiện các cân
đối lớn của nền kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt là cân đối tiềnhàng, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối giữa thu- chi ngân sách Nhà nước, cân
đối vốn đầu tư, cân đối cung cầu một số mặt hàng thiết yếu nhất để từ đó làm giảm
bớt những dao động của chu kì kinh doanh, giải quyết tốt những vấn đề cấp bách:
Tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều. Qua đó ta thấy chức năng điều hành nền
kinh tế, ổn định nền kinh tế của Ngân hàng nhà nước(NHNN) hết sức quan trọng,
nhưng NHNN đã dùng những công cụ gì để thực hiện những điều đó? Bây giờ

chúng ta hãy cũng tìm hiểu.

I. Khái niệm và các công cụ của chính sách tiền tệ.
1. Khái niệm chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ(CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách
kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối vơi nền kinh tế nhằm đạt
được những mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định. chính sách
tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc
dân nhằm tác động đền bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục
tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng
hóa.
2. Công cụ của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng, Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại chính sách tiền
Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 3


tệ, phù hợp với tình hình thực tiền của nền kinh tế, đó là chính sách nới lỏng tiền tệ
và chính sách thắt chặt tiền tệ.
Chính sách nới lỏng tiền tệ: Là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế,
nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ: Là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế
nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiểm chế
lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, ngân hang trung ương có thể
sử dụng hàng loạt các công cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của mình để tác động tới
cung cầu tiền tệ của nền kinh tế.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay:
Ngân hàng trung ương(NHTW) có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và

buộc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn
cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ là giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh
tín dụng. Biện pháp này sẽ khiến cho các ngân hàng thương mại mất tính chủ động,
linh hoạt trong kinh doanh, nó dễ dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng
lại thiếu vốn ở doanh nghiệp. Mặt khác, nó cũng có nhiều mặt tích cực như khống
chế các ngân hàng thương mại không cho vay với lãi suất quá cao hay quá thấp để
tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh hay giảm lượng tiền lưu thông trong
nền kinh tế để giảm lạm phát…
- Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa và
dự trữ theo luật định. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả
năng cho vay và đầu tư của ngân ngân hàng thương mại(NHTM) từ đó giảm lượng
tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm cung xã
hội và ngược lại.

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 4


- Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn:
Tái chiết khấu và tái cấp vốn là những cách thức cho vay của NHTW đối với
các NHTM. Công cụ này có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của
NHTM và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối
với nền kinh tế.
- Kiểm soát hạn mức tín dụng:
Kiểm soát hạn mức tín dụng căn cứ theo tỷ lệ tăng trưởng hay tỷ lệ lạm phát của
quốc gia.Ngoài ra còn một số các tín hiệu khác như là tỷ lệ thất nghiệp,tốc độ lưu
thông tiền tệ trong nền kinh tế...Từ đó sẽ có qui định hạn mức tín dụng cụ thể đối

với các ngân hàng cho phù hợp với mục đích chính sách tiền tệ và tình hình kinh tế.
Để hạn chế việc tạo tiền quá mức,NHNN đưa ra hạn mức tín dụng đối với từng
ngân hàng.Trong phần lớn các trường hợp,các hạn mức riêng này sẽ được căn cứ
vào tỷ lệ cho vay của nó trong quá khứ trên tổng lượng tiền cho vay của hệ thống
ngân hàng.Các ngân hàng thương mại không được cho vay quá hạn mức tín dụng
đã qui định.
Hạn mức tín dụng là công cụ quan trọng được NHNN sử dụng khi các công cụ trên
tỏ ra kém hiệu quả.Tuy vậy việc qui định hạn mức tín dụng sẽ làm lãi suất thị
trường tăng,giảm cạnh tranh của các ngân hàng,ảnh hưởng đến đầu tư của doanh
nghiệp,hơn nữa còn tạo ra những thị trường tài chính ngầm ngoài kiểm soát của
NHTW...
- Nghiệp vụ thị trường mở:
Là việc NHNN mua bán các loại giấy tờ có giá ngoài thị trường,chủ yếu đó
là tín phiếu kho bạc nhằm làm thay đổi cơ số tiền từ đó dẫn đến thay đổi lượng tiền
cung ứng.Sở dĩ ngân hàng tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị trường tự do của
mình đối với tín phiếu kho bạc vì loại chứng khoán này có số lượng lớn,lại an
toàn,thời hạn thanh toán ngắn. Việc mua bán chứng khoán của NHNN là yếu tố chủ
yếu gây nên những biến động về lượng tiền cung ứng.

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 5


Nếu NHNN mua vào các loại chứng khoán sẽ làm tăng cơ số tiền do đó làm
tăng lượng tiền cung ứng.
Đây là công cụ có thể nói là quan trọng nhất của NHNN trong chính sách
tiền tệ của NHNN vì những ưu thế vốn có của nó. Với công cụ này NHNN có thể
kiểm soát toàn bộ nghiệp vụ tự do trên thị trường một cách nhanh chóng và chính
xác, có thể điều chỉnh một lượng tiền bất kì bằng việc mua bán chứng khoán. Mặt

khác, với công cụ này, NHNN có thể tiết kiệm được nhiều loại chi phí.

III. Đánh giá chung về việc sử dụng chính sách tiền tệ của NHNN ở
Việt Nam thời gian qua.
1. Những thành công đã đạt được.
Có thể nói trong khoảng thời gian 2007 đến nay, chúng ta đã trải qua nhiều
cảm xúc khác nhau của nền kinh tế, từ sự lo lắng, nhiều khi đến “sợ hãi” khi nền
kinh tế đạt mức lạm phát cao kỷ lục trong vòng gần 20 năm trở lại đây (năm 2008
là gần 24%) tới sự suy giảm kinh tế trầm trọng bởi khủng hoảng tài chính tại Mỹ và
Châu Âu bởi “cho vay dưới chuẩn”. Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn đã đẩy các
quốc gia phát triển rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng. Hầu hết các nền kinh tế
phát triển (Mỹ, Nhật, Euro zone... đều tăng trưởng âm). Thậm chí có một số quốc
gia còn rơi vào bờ vực phá sản như Iceland, Ukraina, Pakistan, Hi Lạp...
Với những yếu tố bất lợi đó đã làm cho Việt Nam cũng không thoát khỏi
vòng xoáy của sự suy giảm kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam suy
giảm mạnh, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,52% năm 2008 và chỉ còn 5,32%
năm 2009(1). Đây là mức suy thoái tồi tệ nhất của Việt Nam trong hơn 10 năm trở
lại đây. Trước tình huống đó, NHNN đã có hàng loạt các biện pháp quyết liệt và
đúng đắn để ngăn ngừa suy thoái kinh tế và dần lấy lại đà phục hồi cho nền kinh tế
Việt Nam. Nhìn chung, trong khoảng thời gian 3 năm 2007-2009, NHNN đã có
những biện pháp khá linh hoạt trong điều hành CSTT từ “thắt chặt” trong khoảng
thời gian 2007-2008 và “nới lỏng” từ đầu năm 2009-nay. Nhờ đó, nền kinh tế nước
ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng toàn cầu và là một trong số ít những nước
có tăng trưởng kinh tế dương trong giai đoạn này.
Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 6


2. Những bất cập của CSTT trong thời gian gần đây.

Bên cạnh những thành công đã đạt được thì vẫn còn không ít những bất cập
của chính sách tiền tệ của NHNN, điển hình như những bất cập sau:

a. Bất cập trong việc sử dụng các công cụ của CSTT:
Có thể nói, NHNN Việt Nam gần như đã sử dụng tất cả các công cụ của
CSTT theo thông lệ quốc tế, trong đó, NHNN rất chú trọng đến việc hoàn thiện các
công cụ này. Tuy nhiên các công cụ gián tiếp của CSTT đòi hỏi nhiều điều kiện
tiền đề quan trọng mà chúng ta chưa thể ngay lập tức đáp ứng để nâng cao chất
lượng của chúng. Tồn tại lớn nhất của NHNN là NHNN chưa đủ điều kiện xây
dựng và sử dụng CSTT có hiệu quả, sự phối kết hợp giữa các bên liên quan còn
kém, việc xác định khối lượng tiền cung ứng hàng năm chưa chính xác và kịp thời.
- Trong việc ổn định đồng nột tệ:
Sự ổn định của đồng nội tệ được thể hiện ở sự ổn định sức mua đối nội hay
đối ngoại của đồng VNĐ. Sức mua đối nội thường được biểu hiện qua chi tiêu lạm
phát. Trong các năm gần đây, mức lạm phát thường được Quốc hội ấn định ở mức
một con số tuy nhiên trong thực tế lại có những thời kỳ giảm phát(1999-2002), hay
những năm lạm phát phi mã lên mức rất cao tới hai con số(2007-2011) đặc biệt là
năm 2008 và 2011, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế.
Khả năng dự báo lạm phát của NHNN còn yếu kém, mức độ đô la hoá ở Việt
Nam còn rất cao(trên 30%), nó làm giảm khả năng thanh toán của VNĐ, niểm tin
của nhân dân vào đồng nội tệ trong chính đất nước mình.
- Công cụ lãi suất:
Lãi suất VNĐ và USD chênh lệch nhau khá lớn trong nhiều thời kỳ, trung
bình là khoảng 6%/năm từ đầu năm 2003 tới nay, tạo ra sự luân chuyển vốn nội tệ
và ngoại tệ nhiều khi không thuận đối với các tổ chức tín dụng.

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 7



Hơn nữa hiện nay trong các tổ chức tín dụng đang có nhiều loại ưu đãi lãi suất khác
nhau, gây khó khăn trong việc theo dõi, quản lý lãi suất, phần nào tạo ra cơ chế
“xin – cho” về lãi suất với những người đi vay.
- Nghiệp vụ thị trường mở:
Hiện nay, thành viên thị trường mở gồm 22 thành viên, bao gồm 4
NHTMNN, 10 NHTMCP, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh nước ngoài, 1 công
ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân. Tuy thành viên thị trường mở khá đông đảo
nhưng thực sự tham gia giao dịch thường chỉ là 30% số thành viên, trong đó chủ
yếu là các NHTMNN. Do đó, các giao dịch trên thị trường này chưa phản ánh đúng
nhu cầu vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng cũng như việc phát huy vai trò của
thị trường mở tới CSTT chưa thật sự đúng với yêu cầu của nó.
Hàng hoá giao dịch trên thị trường quá đơn điệu, chủ yếu là tín phiếu kho bạc,
trong khi đó, các loại giấy tờ có giá khác, kể cả các loại giấy tờ có giá ngắn hạn như
thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi...và các loại giấy tờ có giá trung và dài hạn chưa
được giao dịch trên thị trường này, mặc dù Luật sửa đổi NHNN đã cho phép. Đây
là một khó khăn tiềm ẩn vì các loại giấy tờ có giá này chỉ có thể phát sinh theo mức
độ sôi động về kinh tế của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, không thể ra đời
và hoạt động theo ý thức chủ quan của các nhà quản lý.
- Tỉ lệ dự trữ bắt buộc:
Hạn chế trong việc sử dụng công cụ này là NHNN chưa thật sự chủ động,
khi xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn nhiều yếu tố phi kinh tế như tâm lý, chính trị,
tính linh hoạt kém...
- Trong việc thực hiện các dịch vụ ngân hàng:
Khả năng tài chính của các ngân hàng còn thấp. Mặc dù các NHTMNN đã
được Chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ tới 6.800 tỷ đồng qua 2 đợt, 32/34
NHTMCP đang hoạt động đã hội đủ số vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định,
nhưng so với quy mô tài chính của các NHTM trong khu vực thì mức vốn này vẫn
ở mức khiêm tốn.


Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 8


Thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn ở mức thấp, tỷ trọng sử
dụng tiền mặt trong lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng/tổng phương tiện thanh
toán hiện đang dao động ở mức 24 - 25%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu
vực (Thái lan: 6,3%, Trung quốc: 9,7%...). Chính tâm lý dùng tiền mặt, bao gồm cả
VND và ngoại tệ mặt, và sự hiểu biết về dịch vụ ngân hàng của đa số người dân
Việt Nam thấp, cũng là một nguyên nhân để cho việc mở rộng các dịch vụ ngân
hàng mới còn gặp nhiều khó khăn.
3. Một số biện pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của CSTT quốc gia thì việc quản lý và kiểm
soát hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là điều cần thiết.
Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều loại tổ chức tín dụng phi ngân hàng được
phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng như Công ty tiết kiệm bưu điện, Quỹ
hỗ trợ phát triển, Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính... Một số hoạt động
huy động vốn tiết kiệm ngắn hạn ở các tổ chức này thực sự đã gây ra việc khó kiểm
soát các luồng vốn di chuyển trong xã hội, khó quản lý vốn khả dụng trong các
doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng, việc tính toán cầu tiền thực sự trong xã hội
trở nên khó khăn do sự phân đoạn thị trường.
không nên tách biệt giữa thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng như
hiện nay, mà theo quá trình hội nhập, NHNN nên xây dựng một thị trường liên
ngân hàng thống nhất, bao gồm giao dịch cả VND và ngoại tệ. Trong thời gian tới,
NHNN nên tập trung xây dựng một đề án thị trường liên ngân hàng một cách
nghiêm chỉnh theo thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình Việt Nam, trong đó
chú ý phát triển thị trường thứ cấp rộng rãi giữa các tổ chức tín dụng thông qua việc
hình thành các công ty môi giới chuyên trách trên thị trường liên ngân hàng.
Phân loại, đánh giá các NHTM để từ đó có cơ sở sáp nhập các ngân hàng yếu

kém, hay dùng các biện pháp khác để giúp các ngân hàng yếu vượt qua thời kì khó
khan hiện nay. Điển hình như trong năm nay đã có 3 ngân hàng Ficombank,
TinNghiaBank và Sacombank sáp nhập với nhau và còn có dự định nhiều ngân
hàng khác.

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 9


Để thực thi có hiệu quả CSTT, những điều kiện không thể thiếu mà chúng ta
phải quan tâm là thông tin, nhất là thông tin kinh tế. Việc thiếu thông tin ở đây là
thông tin chưa chính xác, chưa cập nhật và chưa đầy đủ. Với 5 hệ thống tài khoản
hiện nay, chúng ta chưa hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của hệ thống kế toán quốc tế,
mà đây lại là một nhu cầu khẩn trương trong thời gian tới. nâng cao chất lượng
thông tin phục vụ việc ra các quyết định về CSTT. Sau đó là vấn đề xử lý thông tin
này ở các Vụ, Cục chức năng ở NHNN, điều này lại đòi hỏi trình độ của cán bộ
nghiệp vụ ở đây, không chỉ phân tích thông tin mà còn cần có sự phối kết hợp giữa
các Vụ, Cục, các cơ quan hữu quan trên quan điểm lợi ích chung.
Sử dụng công nghệ cao trong việc tiếp nhận, chuyển giao thông tin, lưu giữ
tin; trình độ cao này lại cần có số vốn lớn mà NHNN phải quan tâm và sự tranh thủ
giúp đỡ của các tổ chức tài chính nước ngoài. NHNN cần nâng tầm hệ thống thông
tin của mình ở trình độ Internet và hoàn thiện mạng Internet ở các hoạt động quản
lý và nghiệp vụ của mình.
Trên đây là một trong số các giải pháp giúp hoàn thiện các công cụ của
CSTT của NHNN, nếu thực hiện được có lẽ sẽ tạo lên một thị trường tiền tệ vững
mạnh, kinh tế phát triển.

C. Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia nói riêng và

chính kinh tế vĩ mô nói chung, chúng ta thấy rõ được vai trò và ý nghĩa của nó
trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của
nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ trở nên hết sức quan trọng.
Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và
sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện
nay.
Bằng sự nỗ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy những
thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ đóng
góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất nước Việt Nam giầu mạnh, ổn
định và phát triển sánh vai với các bạn bè quốc tế.
Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 10


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế học đại cương, nxb CAND, Hà Nội 2002.
2. - Báo kinh tế.
3. – Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
4. – Thông tin kinh tế điện tử.
5. Và một số tài liệu khác…
(1): Nguồn ngân hàng nhà nước.

Lớp N08 – Nhóm 3 – MSSV 360841

Page 11




×