Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn công tác chủ nhiệm trong mô hình VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.49 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Mục lục
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
b. Thành công, hạn chế
c. Mặt mạnh, mặt yếu
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến cấp trường – cấp huyện
Tài liệu tham khảo

3



TRANG
3
5
5
5
5
5
5
6
6
6
6
7
8
8
9
10
10
10
16
16
17
18
19
19
20
21
22



4


I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Mô hình dạy học VNEN hiện nay đã và đang áp dụng khắp các tỉnh thành
trên cả nước, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo xa xôi... Mô
hình Trường học mới tại Việt Nam được triển khai trên toàn quốc là một bước đột
phá trong việc đổi mới, cải cách giáo dục, hy vọng mở ra cho nền giáo dục Việt
Nam một lối đi đúng hướng để cùng hòa nhập với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại
trên thế giới, đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, là một nỗ lực trong việc
hình thành thế hệ trẻ Việt Nam là những công dân toàn cầu. Có thể nói, mô hình
này đã trở thành yêu cầu cấp thiết của toàn xã hội, đòi hỏi sự chung tay của các
cấp, các ngành.
Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi đã áp dụng Mô hình trường học mới gần
3 năm và đã gặt hái được nhiều thành tích được các cấp, các ngành ghi nhận. Đối
với bản thân tôi cũng tham gia thực hiện dạy học theo mô hình này gần 2 năm nên
đã dần quen với việc đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức lớp học theo tinh thần
VNEN.
Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận
thấy để công tác dạy học theo hướng đổi mới thành công thì vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm là hết sức quan trọng. Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá
nhiều thời gian, tâm sức cho công tác chủ nhiệm lớp mình. Hôm nay tôi mạnh dạn
trình bày đề tài “Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN” đúc
kết từ hai năm qua để cùng trao đổi với bạn bè đồng nghiệp.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn
Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết
thành kinh nghiệm của bản thân.

Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong
công tác chủ nhiệm lớp.
Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ Ban
Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những
mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.
Rèn luyện tinh thần năng động, giữ lửa lòng say mê, sáng tạo; cố gắng học
tập, tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
3. Đối tượng nghiên cứu
Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5


Đối tượng nghiên cứu là tập thể học sinh, phụ huynh lớp 4D năm học 2013
- 2014, tập thể học sinh, phụ huynh lớp 5D năm học 2014 – 2015 Trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi, xã Quảng Điền.
5.Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thực hành
Phương pháp điều tra
Phương pháp thống kê, tổng hợp
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Trường học mới VNEN là nơi học sinh cùng học tập để lĩnh hội những kiến
thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Ở đó giáo viên là người tổ
chức, hướng dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình
thành phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ bình đẳng. Ở đó, phụ huynh và
cộng đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em mình.
Mô hình trường học mới tập trung vào đổi mới sư phạm: đổi mới phương
pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh giá, đổi mới
phương pháp tổ chức lớp học.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên thì vai trò của người giáo viên chủ nhiệm là
hết sức quan trọng quyết định thành công của quá trình dạy học theo mô hình này.
2.Thực trạng
a. Thuận lợi- khó khăn
Thuận lợi
Mô hình trường học mới đã được triển khai và áp dụng ở Trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi đã gần 3 năm nên cả giáo viên và học sinh đã quen với hoạt
động dạy - học theo mô hình VNEN.
Đại đa số học sinh trong lớp là con em của người dân trong địa bàn ( 1 em ở
huyện Lắk), không có dân tộc thiểu số, là một thuận lợi lớn trong quá trình dạy
học của thầy trò chúng tôi.
Được sự chỉ đạo sát sao của các cấp và sự ủng hộ của đa số cha mẹ học sinh
cũng như cộng đồng xã hội là động lực giúp cho công tác dạy học và giáo dục của
nhà trường nói chung và cá nhân tôi nói riêng mang lại nhiều thành công đáng kể.
Khó khăn
Học sinh thuộc vùng địa bàn là nông thôn nên khả năng giao tiếp, các kĩ
năng xã hội để đáp ứng yêu cầu vẫn còn hạn chế.

6


Việc trang trí lớp học, đồ dùng học tập theo mô hình này cũng đòi hỏi giáo
viên chủ nhiệm phải đầu tư nhiều thời gian hơn so với các lớp học bình thường.
Phòng học còn chật chưa đáp ứng được yêu cầu các hoạt động dạy học.
Việc chuyển đổi từ phương pháp dạy học chung cả lớp sang phương pháp
học tập tích cực (chủ yếu theo nhóm) lúc đầu đã không khỏi gây nhiều khó khăn
cho những giáo viên chủ nhiệm như tôi trong việc khắc phục hiện tượng giảng
giải, thuyết trình nhiều trước lớp. Học sinh chưa làm quen với việc tự quản, tự
chiếm lĩnh kiến thức,… Phụ huynh học sinh cũng mang một tâm lý hoang mang,
sợ con em mình không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh

còn hạn chế về năng lực học tập.
Một số bộ phân cha mẹ học sinh còn chưa nhiệt tình ủng hộ mô hình dạy
học này. Một số gia đình học sinh còn “khoán trắng” công tác dạy học và giáo dục
cho nhà trường.
b. Thành công - hạn chế
Thành công
Qua thời gian áp dụng Mô hình trường học mới tôi nhận thấy học sinh của
tôi đã phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong
học tập. Các em còn phát huy tốt các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học, ngoài ra còn giúp các
em có tinh thần trách nhiệm và biết phấn đấu làm chủ quá trình học tập của mình.
Còn đối với giáo viên chủ nhiệm như tôi cũng không còn vất vả trong việc
thuyết trình, giảng giải trước lớp. Vai trò của tôi chỉ còn là người quan sát, hỗ trợ
các em học tập.
Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng thì họ đã có trách nhiệm hơn trong
việc phối hợp, hỗ trợ nhà trường và giáo viên chủ nhiệm trong việc dạy học, giáo
dục con em mình. Đồng thời cha mẹ học sinh còn được tiếp nhận, bổ sung tri thức
từ nhà trường thông qua học sinh.
Nhiều phụ huynh học sinh khá hài lòng về kết quả của con em mình khi
theo học Mô hình VNEN.
Hạn chế
Trong công tác chủ nhiệm tôi cũng còn thấy một số hoạt động còn chưa
hiệu quả như:
Học sinh sử dụng các công cụ hỗ trợ dạy học trong lớp còn hình thức, chưa
thật sự hiệu quả.
Việc ngồi học theo nhóm trong suốt buổi học là điều kiện cho một bộ phận
học sinh có cơ hội nói chuyện riêng và còn ỷ lại vào những bạn khá, giỏi.
c. Mặt mạnh- mặt yếu
7



Mặt mạnh
Mô hình trường học mới tôi nhận thấy bản thân mình đã dần khắc phục
được cách dạy học áp đặt một chiều và lối học thụ động của học sinh.
Cách thức tổ chức lớp học theo các nhóm đã tạo điều kiện cho học sinh
được trải nghiệm, khám phá, tự lĩnh hội kiến thức. Mối quan hệ, tương tác giữa
học sinh với giáo viên, và quan hệ giữa học sinh với nhau được tăng cường.
Việc dạy học phân hóa đối tượng học sinh trong Mô hình trường học mới
diễn ra thuận lợi. Tiến độ hoàn thành yêu cầu của những đối tượng học sinh khá
giỏi trong lớp so với các bạn khác là nhanh hơn nên các em có thời gian để tìm
hiểu khám phá những yêu cầu mới cao hơn so với các bạn thông qua những bài
tập nâng cao mà giáo viên đã chuẩn bị.
Phong trào cùng học theo con, cùng dạy cho con ở mỗi gia đình trong địa
phương càng phát triển và nhân rộng.
Mặt yếu
Giáo viên giảng dạy và tổ chức lớp học còn theo khuôn mẫu, rập khuôn,
thiếu sáng tạo bởi tài liệu dạy học đã được hướng dẫn tỉ mỉ, giáo viên cứ thế mà
làm theo.
Ngoài ra, không phải học sinh nào cũng phù hợp để tham gia mô hình này.
Với những em có lực học chưa tốt, tiếp thu chậm thì việc để các em tự học để theo
kịp các bạn trong nhóm là khá vất vả. Năng lực hướng dẫn, giảng giải bài giúp bạn
của các nhóm trưởng cũng như của các thành viên trong nhóm hạn chế thì giáo
viên phải tham gia trợ giúp cho những em có lực học chưa tốt ở các nhóm trở nên
vất vả bội phần.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Qua thời gian thực hiện Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy các yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học đó là yếu
tố người dạy và người học (giáo viên và học sinh).
Đối với người giáo viên, phải không ngại đổi mới, không ngại loại bỏ thói
quen dạy theo lối giảng giải, thuyết trình mà phải thật sự coi trọng việc tự chủ, tự

học của học sinh; phải khuyến khích học sinh tự chiếm lĩnh tri thức mới thông qua
nhóm học tập, cặp đôi hay quá trình tự học của mình.
Đối với học sinh, các em phải rèn luyện tính tự lập, tự chủ, tự tin trong việc
chiếm lĩnh tri thức mới; phải nhạy bén hợp tác với bạn bè, thầy cô cũng như gia
đình trong quá trình tự học, tự rèn luyện.
Ngoài ra cơ sở vật chất cũng góp phần quan trọng trong mô hình dạy học
này. Với cách bố trí các nhóm học tập, các công cụ hỗ trợ trong lớp học thì đòi hỏi
một phòng học đạt chuẩn là vô cùng cần thiết, tạo điều kiện tốt cho quá trình học
tập ở lớp diễn ra thuận lợi.
8


Ngoài ra, yếu tố gia đình và cộng đồng cũng không kém phần quan trọng. Ở
gia đình, các bậc phụ huynh có thể hỗ trợ con em mình trong việc ứng dụng các
kiến thức được học tại trường thông qua Hoạt động ứng dụng, hay giúp các em bổ
sung, kết nối những nét phong tục truyền thống của địa phương với kiến thức sách
vở.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Mặc dù còn gặp những khó khăn, hạn chế cũng như những yếu kém của
công tác chủ nhệm trong quá trình thực hiện Mô hình trường học mới như đã nêu
ở trên. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy những thành công, những
mặt tích cực là chủ yếu.
Học tập theo Mô hình VNEN đã giúp học sinh phát huy tích cực, tính tự
học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Đây là
phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học.
Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các em bầu ra và đảm
nhiệm, đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình
học tập. Học sinh còn có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường
giáo dục, được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác

trong các hoạt động; đồng thời xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”,
“Góc cộng đồng”, “Thư viện lớp học”, mở nhiều “Hòm thư vui”, hòm thư “Điều
em muốn nói” cũng như trang trí lớp học, tạo ra môi trường giáo dục thân thiện,
an toàn.
Bản thân và học sinh của tôi đã thích nghi với môi trường học tập này đã
đạt hiệu quả giáo dục khá tích cực. Bởi đây phương pháp dạy học theo nguyên tắc
lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá
nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ kiến thức của giáo viên thành việc hướng
dẫn học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình
thức như làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó
hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen
học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu. Những
kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng
mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc
lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn
luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động
học theo nhóm. Môi trường học thoải mái, các em rất hào hứng tham gia các bài
học.
Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành
thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện,
luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế nào, không
9


chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần
đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường.
Sự tham gia của cha mẹ học sinh có thể giúp trẻ liên hệ nội dung học tập
với thực tế cuộc sống. Hơn ai hết, phụ huynh học sinh, những người sinh sống,
làm lụng, gắn bó mật thiết với các em và cộng đồng nơi các em sinh sống chính là
nguồn kiến thức, kinh nghiệm thực tế vô cùng quý báu giúp các em liên hệ những

điều học được ở trường với cuộc sống xung quanh.
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giải quyết, khắc phục những hạn chế, điểm yếu trong khi thực hiện Mô
hình trường học mới.
Xác định các bước quan trọng trong quá trình dạy học để phát huy vai trò tự
học cũng như hình thành những kĩ năng xã hội cần thiết cho trẻ.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Trong Mô hình trường học mới, vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên đặc
biệt là người giáo viên chủ nhiệm có sự chuyển đổi rõ rệt so với dạy học truyền
thống. Theo tôi để đáp ứng yêu cầu đề ra người giáo viên phải thực sự đổi mới về
phương pháp dạy - học.
b.1. Đổi mới về phương pháp dạy
Để đáp ứng yêu cầu dạy học theo Mô hình VNEN, tôi đã thật sự đổi mới
phương pháp dạy học. Tôi thật sự đã chuyển đổi vai trò là người truyền thụ kiến
thức thành vai trò là người:
Tổ chức lớp học;
Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm;
Hỗ trợ học sinh khi cần thiết;
Chốt lại những điều cơ bản nhất của bài học;
Đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh.
Việc đổi mới này thật sự mang lại hiệu quả trong công tác dạy học bủa
mình.
b.2. Đổi mới về phương pháp học
Theo tôi, Mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu thụ động mà chủ
động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân
tích, so sánh và tương tác với các bạn trong nhóm, tương tác với giáo viên, với
cộng đồng. Chính vì thế nhóm là đơn vị học tập cơ bản trong Mô hình VNEN.

10



Có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở nhóm học tập. Học sinh
chủ yếu làm việc với nhóm; làm việc với giáo viên, làm việc chung với cả lớp chỉ
khi cần thiết.
Do vậy việc phân nhóm tôi thường thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí
về sức học, về khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và điều hành của
nhóm trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm.
Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát
hoạt động học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích
cực giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo viên
kết quả học tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần khi hỗ trợ.
Một nhóm trưởng tốt là tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong học tập,
tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự tin, cần
được nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. Không để
tình trạng một số thành viên khá làm thay, làm hộ các thành viên khác trong
nhóm.
Do vậy, vào đầu năm học, tôi thường chọn những học sinh khá, giỏi, có khả
năng điều hành nhóm làm nhóm trưởng, bồi dưỡng kĩ năng điều hành cho các em.
Tôi thường hướng dẫn để các nhóm trưởng có kĩ năng điều hành nhóm, hiểu các
bước của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành viên trong nhóm đều tích
cực, tự giác thực hiện các nhiệm vụ học tập. Những học sinh còn hạn chế năng lực
học tập cần được quan tâm nhiều hơn để theo kịp nhóm. Việc bồi dưỡng nhóm
trưởng tốt thì đã đảm bảo sự thành công của Mô hình trường học mới.
Về thời gian sau tôi mới thực hiện sự luân phiên làm nhóm trưởng; như vậy
mới tạo sự bình đẳng giữa các thành viên trong nhóm, giúp tất cả các thành viên
trong nhóm tự tin trước mọi người.
Việc hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc nhóm cũng hết sức quan trọng.
Tôi thường hướng dẫn kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh thông qua các tương
tác đa chiều, trực diện trong nhóm. Trong một nhóm phải tạo ra các quan hệ giao

tiếp, trao đổi hoặc tranh luận giữa các thành viên khi giải quyết một công việc,
một nhiệm vụ học tập cụ thể của nhóm. Hình thành cho học sinh kĩ năng trình bày
quan điểm, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của bạn,…
Ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học thì trong Mô hình trường học mới
thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm như chúng tôi cần thực hiện tốt việc quản lí và
tổ chức lớp học. Việc quản lí và tổ chức lớp học được tôi thực hiện như sau.
b.3. Nghiên cứu, nắm vững tình hình học sinh của lớp chủ nhiệm
Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên chủ
nhiệm lớp là nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp và của từng học
sinh. Kết quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu, chương trình,
11


kế hoạch năm học để xác định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức
giáo dục phù hợp với đặc điểm của lớp.
Bởi vậy ngay từ đầu năm, công việc đầu tiên tôi thường tập trung vào các
nội dung sau đây:
Nghiên cứu tình hình gia đình học sinh như trình độ học vấn, nghề nghiệp
của cha mẹ học sinh, số con, sự trưởng thành của các con, hoàn cảnh, mức sống,
phương pháp giáo dục và những đặc điểm khác...
Nghiên cứu học sinh: số lượng, chất lượng học tập, đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá biệt, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức, tinh thần đoàn kết, phong trào
thi đua, truyền thống, ưu, nhược điểm, chỗ mạnh, chỗ yếu của lớp... Đặc biệt quan
tâm tới những đặc điểm của học sinh (về sức khoẻ, sở thích, học lực, đạo đức,
quan hệ xã hội, bạn bè, tính tình...).
Để nắm vững được năng lực hoạt động tập thể của từng em trong lớp mình
làm chủ nhiệm, tôi thường thông qua các kênh thông tin sau:
Căn cứ hồ sơ học bạ , thành tích học tập;
Chú ý hình thức như sức khoẻ, sự linh hoạt năng động;
Ngoài ra từ trực giác cảm nhận;

Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu năm học;
Từ những tài liệu đó giúp cho tôi trong việc xây dựng kế hoạch dạy học, hỗ
trợ, bồi dưỡng và tổ chức các hoạt động giáo dục đến từng học sinh cũng như tập
thể lớp một cách có hiệu quả.
b.4. Xây dựng bộ máy tổ chức tự quản của lớp – Bầu Hội đồng tự quản học
sinh
Mục đích xây dựng hội đồng tự quản học sinh là biện pháp giáo dục nhằm thúc
đẩy sự phát triển về đạo đức, tình cảm và ý thức xã hội của học sinh thông qua
những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong mối quan hệ của các em
với những người xung quanh; đảm bảo cho các em tham gia một cách dân chủ và
tích cực vào cuộc sống học đường; tạo cơ hội cho các em tham gia toàn diện vào
các hoạt động của nhà trường và phát triển tính tự chủ, sự tôn trọng, bình đẳng,
tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh; giúp các em phát triển kĩ năng ra quyết
định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng lãnh đạo, đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý
thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình.

12


Trước khi thành lập Hội đồng tự quản học sinh, tôi thường mời các giáo viên
bộ môn tham gia giảng dạy ở lớp của mình cũng như phụ huynh học sinh của lớp
cùng họp bàn về việc thành lập Hội đồng tự quản. Việc tham gia của phụ huynh
học sinh sẽ góp phần làm tăng thêm sự quan tâm của họ đối với việc học tập của
con em mình cũng như giúp họ hiểu biết thêm về Mô hình trường học mới góp
phần phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và cộng đồng trong việc giáo dục học sinh.
Hội đồng tự quản gồm Chủ tịch Hội đồng tự quản, các Phó chủ tịch Hội đồng
tự quản, các Ban tự quản, trưởng ban, thư kí.
Thời gian thích hợp để tổ chức bầu Hội đồng tự quản là ngay đầu năm học. Có
nghĩa là khi học sinh bắt đầu học chương trình năm học thì bộ máy hội đồng tự
quản đã hoàn thiện để điều hành mọi hoạt động học tập, sinh hoạt của lớp.

Quy trình bầu Chủ tịch Hội đồng tự quản; các Phó Hội đồng tự quản được tôi
tiến hành như sau:
Cho học sinh nắm được vai trò, nhiệm vụ và quyền lợi của Chủ tịch Hội đồng
tự quản; các Phó Hội đồng tự quản.
Khuyến khích học sinh ứng cử vào Hội đồng tự quản; nhóm đề cử.
Gợi ý cho các ứng viên xây dựng kế hoạch tranh cử, viết bài thuyết trình (có tư
vấn của giáo viên, bạn bè,...).
Thuyết trình của các ứng viên.
Bầu cử, công bố kết quả và Hội đồng tự quản nhiệm kì mới ra mắt.
Thành lập các Ban, bầu trưởng ban, thư kí cũng được tiến hành như sau:
Căn cứ vào hoạt động của lớp trong năm học, lãnh đạo Hội đồng tự quản họp
có sự tham gia tư vấn của giáo viên để dự kiến thành lập các ban tự quản và
thường phải thông qua ý kiến của tập thể lớp. Thông thường tôi thường định
hướng cho học sinh thành lập các ban như Ban học tập, Ban thư viện, Ban văn
nghệ, thể dục-thể thao, Ban vệ sinh, Ban đối ngoại.
Việc bầu và thành lập các ban do Hội đồng tự quản tổ chức. Tôi thường gợi ý
cho học sinh giới thiệu chức năng, nhiệm vụ của các ban; quyền lợi của người
tham gia, suy nghĩ của bạn có thể làm gì tốt nhất,...
13


Các thành viên Hội đồng tự quản phát cho mỗi bạn một tờ giấy nhỏ ghi tên,
nguyện vọng tham gia vào ban nào, sau khi lựa chọn mỗi học sinh dán lên bản quy
định cho từng ban mà mình lựa chọn hoặc cũng có thể cho các bạn lựa chọn ban
rồi điền tên mình vào cột trên bảng.
Hội đồng tự quản lập danh sách từng ban và yêu cầu các thành viên trong ban
họp bầu trưởng ban và thư kí như bầu lãnh đạo Hội đồng tự quản.
b.5. Cách thức hoạt động của Hội đồng tự quản
Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình. Hội
đồng tự quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực hiện. Các em

làm chủ trong mọi hoạt động. Vì vậy tôi thường hướng cho các em tự đề xuất, bàn
bạc và đưa ra nội quy và cùng nhau giám sát việc thực hiện các quy ước do mình
xây dựng và cam kết thực hiện. Như vậy các em tự đề ra các quy ước (dù là quy
ước nhỏ nhất) và có trách nhiệm thực hiện các quy ước đó. Điều đó đảm bảo tính
dân chủ trong lớp học.
b.6. Trang trí lớp học
Ở Mô hình trường học mới, việc trang trí lớp học không đơn thuần là để trang
trí cho đẹp mắt mà nó còn là những công cụ hỗ trợ góp phần giáo dục học sinh
những phẩm chất mới cũng như phát triển kĩ năng sống cho các em.
Việc thực hiện trang trí lớp học của lớp tôi được thực hiện và hoàn thành một
tuần trước khi bắt đầu chương trình năm học mới. Để thực hiện có hiệu quả tôi
thường huy động nhiều thành phần tham gia. Ngoài thầy trò trong lớp còn có sự
góp sức của các giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là của cộng đồng như cha mẹ
hay anh chị của học sinh. Tôi thường trao đổi với các giáo viên chuyên biệt và đặc
biệt là với Hội phụ huynh học sinh lớp để lựa chọn những công cụ phù hợp nhất
với điều kiện của lớp mình. Những công cụ mà theo tôi chúng đã được chứng
minh là hữu ích cho công tác quản lí hoạt động ở lớp, ở trường bao gồm: Hộp thư
”Điều em muốn nói”, Nhịp cầu bè bạn, Góc sinh nhật, Bảng theo dõi sĩ số, Nội
quy trường lớp, Góc Tiếng Việt, Góc Toán, ...
Hộp thư ”Điều em muốn nói” là công cụ giúp tôi nắm được những ý kiến bày
tỏ của học sinh mình. Những ý kiến đó cụ thể như những tình cảm, cảm nhận,
mong muốn, đề nghị của các em muốn nói về thầy cô, bạn bè, cha mẹ, nhân viên
14


phục vụ, điều kiện học tập sinh hoạt, vui chơi,... mà các em không thể hoặc chưa
dám nói trực tiếp. Từ đó tôi có những thông tin quan trọng để hiểu học sinh của
mình và quan trọng hơn là để điều chỉnh các hoạt động giáo dục, dạy học cho phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
Góc sinh nhật là nơi tạo không khí vui tươi trong lớp. Giúp các em biết quan

tâm đến bạn bè. Tạo điều kiện để các em biết cách tổ chức các buổi kỉ niệm nho
nhỏ. Tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp...
Từ những công cụ trong lớp, tôi có thể hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa của việc
xây dựng các công cụ cũng như việc sử dụng chúng để tham gia vào các hoạt động
học tập.Thông qua đó tôi có thể phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp
những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển niềm đam mê, sự sáng tạo và
hình thành nhân cách cùng các kĩ năng sống khác.
b.7. Phối hợp với cộng đồng cùng tham gia công tác giáo dục
Trong Mô hình VNEN, nguyên lí giáo dục ”Học đi đôi với hành -Nhà trường
gắn liền với gia đình và xã hội” được thể hiện rõ rệt thông qua tổ chức và quản lí
lớp học, đưa những điểm văn hóa, kinh tế, truyền thống lịch sử của địa phương
vào nhà trường. Do vậy vai trò của gia đình là rất quan trọng trong việc học tập,
giáo dục đối với học sinh.
Để phối hợp một cách chặt chẽ với gia đình, cộng đồng, ngay từ đầu năm tôi
thường bàn bạc với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tuyên truyền tới mỗi gia
đình và cộng đồng về Mô hình trường học mới. Chủ động trao đổi, khuyến khích
gia đình và cộng đồng cùng tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường, tạo
nên sức mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Các nội dung tôi thường phối hợp với cha mẹ học sinh trong quá trình giáo dục
như phối hợp cùng tuyên truyền về Mô hình trường học mới; huy động trẻ đến
trường; cùng tham gia trang trí lớp học xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực; mời cha mẹ học sinh cùng tham gia dự giờ một số tiết học; mời cha mẹ
học sinh lên lớp trong các tiết ngoại khóa như dạy các em hát các làn điệu dân
gian của địa phương, nói chuyện lịch sử,... tham gia giúp các em liên hệ nội dung
học với thực tế ở địa phương và phát huy năng lực của các em tại nhà.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
15


Để thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN có hiệu quả ngoài điều kiện cơ sở

vật chất thì điều kiện tiên quyết là quyết tâm đổi mới phương pháp dạy - học,
phương pháp tổ chức lớp học, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và cộng đồng
trong việc giáo dục học sinh,… Điều đó có nghĩa là người giáo viên chủ nhiệm
phải là hạt nhân của các khâu đổi mới quyết định thành bại trong công tác dạy học
theo mô hình VNEN.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Trong mô hình VNEN, người giáo viên nói chung và đặc biệt là người giáo
viên chủ nhiệm phải giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự
quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Phải đổi mới phương pháp dạy học giúp
các em phát huy tốt các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự đánh giá lẫn
nhau trong giờ học.
Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống
hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của
cộng đồng thông qua hoạt động của nhóm và chính bản thân các em trong mỗi tiết
học.
Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy học.
Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo
viên chủ nhiệm phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng linh hoạt hoạt
động nhóm trong quá trình dạy học.
Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức nhóm.
Phải thực hiện tốt việc tổ chức lớp học. Hướng dẫn cho Hội đồng tự quản, các
Ban tự quản thực hiện một cách có hiệu quả.
Tận dụng tốt lợi thế về cơ sở vạt chất (Trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia) để
thực hiện thành công dạy học theo Mô hình trường học mới.
Phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội
trong quá trình dạy học và giáo dục học sinh để hình thành và phát triển những kĩ
năng cần thiết cho các em cũng như thực hiện tốt khâu xã hội hóa giáo dục.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
16



Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy
những thay đổi tích cực từ phía học sinh, cha mẹ học sinh cũng như cộng đồng xã
hội.
Học sinh của tôi đã tự tin chiếm lĩnh kiến thức mới, các kĩ năng hợp tác, chia
sẻ, kĩ năng giao tiếp,… tiến bộ rõ rệt. Các em thực sự làm chủ trong quá trình học
tập.
Chất lượng dạy học ngày càng tăng cao. Cụ thể:
Chất lượng cuối kì I, năm học 2013 – 2014, lớp 4D
MÔN

Điểm 10

Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5

SL

%

SL %

SL

%

Tiếng Việt

X

X


02 08 05 20 07 28 06 24 05

20

Toán

05

20

04 16 04 16 04 16 05 20 03

12

Khoa học

03

12

03 12 05 20 07 28 05 20 02

08

Lịch sử - Địa lí

01

04


02 08 03 12 05 20 10 40 04

16

SL %

17

SL %

SL %


Chất lượng cuối năm học 2013 – 2014, lớp 4D
MÔN

Điểm 10

Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5

SL

%

SL %

SL

%


Tiếng Việt

01

04

01 04 06 24 07 28 07 28 03

12

Toán

06

24

03 12 07 28 07 28 02 08 X

X

Khoa học

04

16

04 16 07 28 07 28 03 12 X

X


Lịch sử - Địa lí

02

08

04 16 06 24 07 28 06 24 X

X

SL %

SL %

SL %

Chất lượng cuối kì I, năm học 2014 – 2015, lớp 5D
MÔN

Điểm 10

Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5

SL

%

SL %


SL

%

Tiếng Việt

01

04

02 08 07 28 07 28 07 28 01

04

Toán

06

24

05 20 05 20 06 24 03 12 X

X

Khoa học

06

24


05 20 08 32 06 24 X

X

X

Lịch sử - Địa lí

04

16

03 12 06 24 08 32 04 16 X

X

SL %

SL %

SL %

X

Cha mẹ học sinh cũng tham gia tích cực vào giáo dục học sinh, giúp học sinh
vận dụng linh hoạt kiến thức vào thực tế cuộc sống. Mối quan hệ giữa nhà trường
và cộng đồng ngày càng chặt chẽ, khăn khít hơn.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu
Mặc dù mới được thực hiện trong 2 năm học, nhưng việc dạy học theo Mô

hình trường học mới của thầy trò chúng tôi đã mang đến những hiệu quả giáo dục
tích cực.
Lớp học của Mô hình VNEN được bố trí giống như một phòng học bộ môn,
phòng thư viện linh hoạt. Tại lớp học cũng có góc học tập, góc cộng đồng, góc
trưng bày sản phẩm...để HS được phát huy khả năng sáng tạo độc lập của mình.
Mô hình Trường học mới được xây dựng theo hướng đổi mới phương pháp
dạy học với nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và
phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chính vì vậy, việc truyền thụ của giáo viên
được chuyển thành việc hướng dẫn HS tự học.
18


Tham gia lớp học này, các em có điều kiện phát huy sở trường cá nhân của
mình. Học sinh được làm chủ lớp học, làm chủ quá trình học tập.
Hàng ngày tới lớp, các em được sinh hoạt và học tập trong môi trường thân
thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô.
Đặc biệt với sự giúp đỡ, tương trợ của các bạn trong nhóm, nhiều học sinh
đã không còn rụt rè e ngại mà trở nên hoạt bát, hào hứng hơn trong học tập.
Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”. Hội đồng này được các em
bầu ra để đảm đương các hoạt động tại lớp. Đây là một cách thức sáng tạo, giúp
học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập.
Với hình thức sinh hoạt và học tập như thế, các em được rèn luyện các kỹ
năng lãnh đạo, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động hàng ngày.
Với cách bố trí lớp học theo các không gian mở hướng tới sự sáng tạo của
học sinh như: góc học tập, góc cộng đồng, góc thư viện, hòm thư vui, hòm thư
“Điều em muốn nói” đã tạo nên môi trường giáo dục thân thiện cho các em.
Thời gian đầu cả thầy và trò còn lúng túng. Nhưng khi đã quen với phương
pháp dạy và học này các em rất yêu thích và gắn bó với lớp học của mình hơn.
Có thể nhận thấy việc dạy học theo Mô hình trường học mới, sẽ rất thuận lợi
cho việc đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí về chuẩn kiến thức, kỹ năng

và hoạt động theo từng môn học; đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực
chung của học sinh. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các em phát triển một cách toàn
diện, giúp các em dễ thích nghi với môi trường xung quanh.
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới có những điểm mới, tích
cực hơn so với công tác chủ nhiệm trước đây. Nó đòi hỏi sự nhạy bén, tính linh
hoạt của người giáo viên chủ nhiệm mới đáp ứng được yêu cầu giáo dục của mô
hình đề ra: Dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm,
học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học
sinh; chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn
học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức
theo các hình thức theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản
đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến
thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến thức khó, các em trao
đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo
viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc
19


lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức
trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ
năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường
học thoải mái, các em rất hào hứng tham gia các bài học.
Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được
hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được
học hỏi bạn để tự hoàn thiện, luôn có ý thức được mình phải bắt
đầu và kết thúc hành động như thế nào, không chờ đến sự nhắc
nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần
đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường.

2.Kiến nghị
Về chuyên môn: Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn của
trường, cụm trường nhằm trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn vướng
mắc, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình thực hiện dạy học theo Mô
hình trường học mới.
Về cơ sở vật chất: Đề nghị các cấp xây dựng, nâng cấp các phòng học nhằm
đáp ứng nhu cầu thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới một cách hiệu
quả.

Krông Ana, ngày 20 tháng 1 năm 2015
Người viết

Lê Văn Trúc

20


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN TÀI LIỆU
1
Tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới tại
Việt Nam
2
Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học
mới, tập 1
3
Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học
mới, tập 2
4
Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các
trường thực hiện Mô hình trường học mới Việt Nam
5
Hướng dẫn sự tham gia của cha mẹ học sinh và
cộng đồng trong Mô hình trường học mới Việt Nam

22

TÁC GIẢ
Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục

Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục



×