Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG, CẬP NHẬT KIẾN THỨC CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI TƯỢNG 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.76 KB, 47 trang )

TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG, CẬP NHẬT KIẾN THỨC
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI TƯỢNG 5
------------Bài 1
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
I. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã trải qua trên 160 năm phát triển, nhưng vẫn là thế
giới quan và phương pháp luận khoa học trong giai đoạn hiện nay. Những giá trị bền
vững của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở những điểm căn bản sau:
1.1. Phương pháp biện chứng duy vật
Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một
bộ phận của học thuyết triết học do Karl Marx đề xướng. Đặc trưng của phương pháp
duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát
triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.
Phương pháp biện chứng duy vật là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa trong lịch sử
phát triển của phương pháp biện chứng từ thời cổ đại đến ngày nay. Mặc dù thực tiễn
đã có nhiều đổi thay, khoa học có nhiều thành tựu vĩ đại nhưng phương pháp biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị phương pháp luận.
Những thành tựu của khoa học hiện đại chỉ làm giàu thêm, phong phú thêm những giá
trị của phương pháp biện chứng duy vật mà thôi.
Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi xem xét sự vật, hiện tượng một cách
toàn diện trong sự vận động, phát triển; trong sự tương tác với điền kiện, môi trường,
các sự vật, hiện tượng khác; mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân cơ bản trong
chính nó… Khoa học hiện đại đạt được những thành tựu thần kỳ như ngày nay chính
là nhờ các nhà khoa học đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật, dù sự sử dụng
đó diễn ra một cách tự giác hay tự phát.
1.2. Phương pháp duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã


hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vân dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời
sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong ba bộ phận
hợp thành của triết học macxit, khoa học về những quy luật chung nhất của xã hội, là
hai phát kiến khoa học của Mác đã đặt cơ sở khoa học cho sự tồn tại, phát triển học
thuyết của mình.
Phương pháp duy vật lịch sử vạch ra được căn nguyên của những động cơ vật
chất, đặc biệt là động cơ lợi ích kinh tế trong hoạt động lịch sử của loài người.
1


Phương pháp duy vật lịch sử xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất
vật chất xã hội lý giải những quan niệm, tư tưởng cũng như những điều kiện xã hội
của đời sống của nhân dân cùng vai trò của họ trong lịch sử; đồng thời, xem xét xã hội
như một chỉnh thể, nhìn nhận một cách toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy
vong của các hình thái kinh tế - xã hội. Thông qua các xu hướng, các mâu thuẫn khác,
sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành…, từ đó tìm ra cơ sở của các quá trình
từ điều kiện sinh hoạt và sản xuất vật chất của xã hội.
Phương pháp duy vật về lịch sử xuất phát từ đời sống vật chất để lý giải đời
sống tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, phương pháp duy vật về lịch sử của C.Mác khác
với phương pháp duy vật kinh tế, phương pháp duy vật thuần túy - chỉ nhấn mạnh một
chiều yếu tố kinh tế, yếu tố vật chất trong quan hệ với yếu tố tinh thần. Phương pháp
duy vật lịch sử đòi hỏi trong khi xem xét vai trò quyết định của đời sống vật chất đối
với đời sống tinh thần, kinh tế đối với chính trị, không được hạ thấp sự tác động trở
lại của đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, của chính trị đối với kinh tế, của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội, vv… Mặc dù các quy luật xã hội chỉ có thể nảy
sinh, tồn tại, vận động thông qua hoạt động có ý thức của con người, nhưng con người
không thể tùy tiện thay thế hay xóa bỏ các quy luật. Đồng thời, thông qua nhận thức
và hoạt động một cách tự giác, con người có thể tác động để các quy luật xã hội diễn
ra nhanh hoặc chậm, với những biểu hiện khác.

1.3. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội trình bày về các quy luật vận động cơ bản của
xã hội loài người trong lịch sử.
Sự phát triển của lịch sử nhân loại hết sức phức tạp, quanh co, khúc khuỷu,
nhưng vẫn diễn ra theo quy luật khách quan, theo một “lôgích” lịch sử - tự nhiên.
Lịch sử loài người là sự thay thế tất yếu của các hình thái kinh tế - xã hội từ
thấp đến cao. Sự thay thế này không phải tuần tự mà có sự đan xen, tiếp nối lẫn nhau.
Chính điều này làm cho lịch sử thế giới phát triển ngày càng phức tạp, khó nhận thức.
Tuy vậy, dòng chảy lịch sử của nhân loại vẫn diễn ra theo sự thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Điều này diễn ra do những mâu thuẫn trong lòng
của mỗi hình thái hinh tế - xã hội quy định. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, vv… Những mâu
thuẫn này được giải quyết sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội
mới. Quá trình này diễn ra không phụ thuộc vào ý chí của con người.
1.4. Lý luận giá trị thặng dư
Lý luận giá trị thặng dư cho ta thấy bản chất của xã hội tư bản và một nguồn
gốc cơ bản sinh ra giàu có của xã hội là sản xuất giá trị thặng dư. Ngày nay, sản xuất
giá trị thặng dư vẫn là cơ sở phát triển của xã hội hiện đại. Trong khi nghiên cứu các
quy luật sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác cũng đã phát kiến ra các quy luật sản xuất sản
phẩm thặng dư trong các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa.
Cùng với lý luận giá trị thặng dư, lý luận về sở hữu, về chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa, về sự ra đời tất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền
vững của lý luận kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
2


1.5. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng, là lực lượng tiên tiến có sứ
mệnh lịch sử là giải phóng giai cấp mình, đồng thời giải phóng nhân dân lao động và
toàn nhân loại khỏi chế độ người bóc lột người, áp bức, bất công, xây dựng chủ nghĩa

xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tất nhiên, giai cấp luôn luôn phát triển theo sự phát
triển của xã hội. Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, giai cấp công nhân cũng trở
thành giai cấp công nhân trí thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thay
đổi.
1.6. Lý luận về chủ nghĩa xã hội
Lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tính tất yếu
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và
sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu kinh tế quy định và đều tất yếu như
nhau; mỗi quốc gia, dân tộc có thể có phương pháp, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội
khác nhau; chủ nghĩa xã hội là kết quả phát triển tổng hợp của tinh hoa mọi thời đại,
mọi dân tộc, vv…
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và
tư duy lý luận của Đảng ta.
Thực tiễn Việt Nam và thế giới đã chứng minh tính đúng đắn, sức sống của tư
tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
a, Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì
độc lập dân tộc mới vững chắc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là con đường bảo vệ và
phát triển vững chắc nhất thành quả của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, mới bảo
đảm cho nhân dân thực sự được tự do, ấm no, hạnh phúc.
Mặt khác, độc lập dân tộc lại là điều kiện, tiền đề, cơ sở để thực hiện chủ nghĩa
xã hội. Phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển đúng đắn

và hợp quy luật khách quan của Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghã xã
hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
b, Tư tưởng xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh
Để thực hiện được mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, điều kiện tiên
quyết là phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vì vậy, muốn thắng lợi thì cách mạng phải
có một đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp
bức bóc lột; phải giúp cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội; để họ
nhận rõ mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ
động cho quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng
3


nhất định thắng lợi. Nhưng Đảng muốn làm được điều đó thì Đảng phải trong sạch,
vững mạnh. Hồ Chí Minh nói: Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải
thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, đây là
cội nguồn sức mạnh của Đảng, đặc biệt khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Đảng
cầm quyền lại càng phải có ý thức sâu sắc mình là “đày tớ” của Nhân dân chứ không
phải là “ông chủ” của Nhân dân, không tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà
nước, trên pháp luật. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ.
Hồ Chí Minh xác định rằng cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải vừa có đức vừa
có tài, nhưng đức là gốc. Cán bộ phải liên hệ mật thiết với dân, học dân, hỏi dân, nghe
dân góp ý phê bình.
Để xứng đáng là một đảng cách mạng chân chính, Đảng phải thường xuyên
chăm lo đổi mới, chỉnh đốn Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi, tẩy trừ mọi tệ nạn
do chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, tham nhũng… gây ra, đồng thời phát huy
những mặt tốt, tích cực, tiến bộ trong Đảng,
c) Tư tưởng về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh “dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc”,
đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức, xây dựng Nhà nước Việt Nam.
Là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên nhân dân là người
chủ đất nước. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân là người
có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, bao nhiêu quyền hạn là của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân; kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Dân có quyền bầu cử, ứng cử và bãi miễn, có
quyền tham gia công việc quản lý nhà nước; phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước; có trách nhiệm đóng góp
sức người, sức của để xây dựng và bảo vệ Nhà nước.
Trong Nhà nước kiểu mới, dân là chủ thể duy nhất của quyền lực thì cán bộ,
công chức nhà nước, theo Hồ Chí Minh, phải là “đầy tớ”, công bộc tận tụy, trung
thành của dân, phải gần dân, sát dân, hiểu dân, tin dân…
Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vai trò của nhân dân, về thực
hành dân chủ. Dân chủ, theo Người, là “dân là chủ” và “dân làm chủ”, dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng.
Trong bầu trời không có gì quý bằng quần chúng Nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân; dễ mười lần không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân nên Nhà nước phải đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết và trước hết.
Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức
tránh.
Trong quá trình xây dựng nhà nước kiểu mới, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng về
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
4


Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một Nhà nước hợp pháp và hợp hiến, được
nhân dân tổ chức nên thông qua tuyển cử, được xây dựng và hoạt động theo các

nguyên tắc của Hiến pháp. Pháp luật là cơ sở bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân.
d) Tư tưởng về văn hóa
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi sự sinh tồn, loài người sáng tạo ra văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của
đời sống con người, là động lực, là mục tiêu của cách mạng. Văn hóa góp phần bồi
dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức và phong cách tốt đẹp, lành mạnh để không ngừng hoàn thiện bản thân,
hướng con người vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ. Văn hóa soi đường cho
quốc dân đi; phải chống giặc dốt cũng như giặc đói và giặc ngoại xâm, phải nâng cao
dân trí. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Văn hóa là một mặt trận mà mỗi văn nghệ
sỹ là những chiến sỹ trên mặt trận đó. Muốn xây dựng nền văn hóa mới với nội dung
xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, phải giữ gìn cốt cách (bản sắc) văn hóa dân tộc,
đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là một nền văn hóa mà nhân dân
đóng vai trò chủ thể. Họ không chỉ là người sáng tạo ra của cải vật chất mà còn là
người sáng tác, tức sáng tạo ra của cải tinh thần, đồng thời có quyền hưởng thụ các
giá trị văn hóa. Đó cũng chính là nền văn hóa tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc, văn
hóa vì nhân dân, do nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
đ) Tư tưởng về đạo đức cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là hệ thống những quan điểm
toàn diện sâu sắc của Người về những chuẩn mực và những nguyên tắc xây dựng nền
đạo đức mới, khác về chất so với nền đạo đức cũ.
Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được cách mạng vẻ vang. Đảng ta
là một Đảng cầm quyền nên mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân.
Trên cơ sở kế thừa những giá trị đạo đức tốt đẹp của nhân loại, nhất là đạo đức
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức cộng sản được vận dụng phù hợp với cách mạng

Việt Nam, đưa những nội dung mới vào trong nhiều khái niệm, phạm trù, mệnh đề
của đạo đức truyền thống.
Hồ Chí Minh đã xây dựng những tiêu chuẩn của đạo đức cách mạng. Đó là
trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; yêu thương và
giúp đỡ con người, sống có nghĩa có tình; tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra những nguyên tắc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên, đó là; tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời, chủ yếu
trong thực tiễn cách mạng; nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm; phải đấu tranh với
những hiện tượng phi đạo đức, nhất là chống chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ: “Chủ
nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ
quan, tham ô, lãng phí…” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
5


2009, t9, tr. 292). Chủ nghĩa cá nhân là một thứ giặc nội xâm, nó ẩn nấp trong mỗi
con người, chờ dịp để ngóc đầu dậy. Tuy nhiên, theo Người, cần phân biệt giữa chủ
nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là
“giày xéo lên lợi ích cá nhân”.
II. SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Trong quá trình đổi mới,
Đảng Cộng sản ViệtNam đã có sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội
Từ Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đã khắc phục được một số hạn chế trong
nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội, làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày
càng sâu sắc hơn.
Đại hội VII của Đảng đánh dấu mốc quan trọng trong phát triển lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm

đổi mới, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991). Cương lĩnh đã nêu sáu đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là:
- Do Nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đận đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với Nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đến Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng
trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Nội hàm của khái niệm xã hội chủ nghĩa đã
được Đại hội X nêu cụ thể hơn với tám đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của của lực lượng sản xuất; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới” (Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.68)
6


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã hoàn thiện hơn quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra bảy
phương hướng cơ bản:
Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân, giũ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nhiệp hóa đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu.

Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa
làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn
hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao
quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các
7


nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Sau 25 năm đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa ra tám phương hướng cơ bản:
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường;
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,

nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
- Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân;
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Ngay trong từng phương hướng này, trong quá trình xây dựng, phát triển đất
nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thường xuyên đổi mới, bổ sung, phát triển cho
phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.
2. Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Trước đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định qúa độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là sự “quá độ gián tiếp” nghĩa là “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”. Trong công cuộc đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã sử dụng cụm từ “bỏ qua chế độ tư bản” và xác
định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là
thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”.
Đến Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra cụ thể hơn: Con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
8


3. Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về mô hình phát triển kinh tế

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, Đại hội VI mới xem việc
sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ chỉ là “đặc trưng thứ hai” của cơ chế mới
về quản lý kinh tế.
Đại hội VII xác định, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đồng
thời cụ thể hóa một bước về chế độ công hữu, đó là công hữu “về các tư liệu sản xuất
chủ yếu”.
Đến Đại hội IX của Đảng, khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được khẳng định với quan niệm “Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục đích của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nước bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, v.v.. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Đây chính là
mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội. Đến
Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung vào đổi mới để hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp.
Thứ ba, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Thứ tư, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam qua mỗi kỳ đại hội đều có sự bổ sung, phát
triển nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

4. Vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về Nhà nước
Tổng kết việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và quá trình đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhận thấy sự cần thiết phải khai thác những giá trị của lý luận nhà
nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy vậy, thuật ngữ “nhà nước pháp
quyền” vẫn chưa được sử dụng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội(1991) của Đảng và Hiến pháp năm 1992.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1994) lần đầu
tiên sử dụng khái niệm “Nhà nước pháp quyền” khi khẳng định “Tiếp tục xây dựng và
từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”. Tuy
nhiên, nhận thức về “Nhà nước pháp quyền” mới là bước đầu. Tư tưởng cơ bản nhất
của vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền trước hết là tổ chức và hoat động của bộ
9


máy nhà nước phải trong khuôn khổ pháp luật, nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, còn chưa được nhấn mạnh đúng mức.
Đại hội IX đánh dấu bước phát triển rõ rệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước ta là
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quan điểm này của Đại hội IX đã được thể hiện khi sửa đổi một số điều của
Hiến pháp 1992 vào năm 2001 và tiếp tục được khẳng định ở Đại hội X với chủ
trương: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phân phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đại hội XI đã có bước phát triển hơn khi khẳng định phải nâng cao nhận thức
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nghiên cứu, xây dựng, bổ sung

các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp./.

10


Bài 2
ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
-------------1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
1.1. Một số vấn đề về lý luận
“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều
hành, quản lý đất nước nhằm trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Khái niệm
“Đảng cầm quyền” để chỉ vai trò của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền;
Đảng lãnh đạo xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và mặt trận tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân. Khi trở thành Đảng cầm quyền thì các chủ trương, đường lối
của Đảng mới được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách mang tính
pháp lý để toàn xã hội thực hiện.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ này để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như:
Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền,
Đảng cầm quyền. Trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một
đảng cầm quyền”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội toàn quốc lần thứ X,
XI thông qua cũng ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi chưa giành được chính quyền
và khi đã giành được chính quyền (Đảng cầm quyền) rất khác nhau:
+ Khi chưa có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ
chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến

các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân
là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách
mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên. Trong điều kiện
chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để phát sinh tệ quan liêu, mệnh
lệnh, ức hiếp quần chúng.
+ Khi Đảng đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén
nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách
thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính quyền (Nhà
nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp
luật, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo
chính quyền và thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ:
sai lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau
khi Đảng Cộng sản Việt Nam giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm
cảnh báo hai nguy cơ: sai lầm về đường lối và sự suy thoái của đội ngũ cán bộ, đảng
11


viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là: tham ô, lãng phí,
quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Ở Việt Nam từ giữa 1947 đến năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, còn có Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam tham gia chính
quyền, nhưng hai Đảng trên đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Từ tháng 11/1988 đến nay, ở Việt Nam chỉ còn một đảng duy nhất lãnh đạo là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay, ở Cộng hoà Cu Ba và Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào cũng chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo đối
với Nhà nước và xã hội.
1.2. Thuận lợi và nguy cơ đối với một Đảng duy nhất cầm quyền

Đảng ta là một Đảng duy nhất cầm quyền. Do đó, Đảng có nhiều thuận lợi cơ
bản, nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ bên trong rất nguy hiểm, có thể làm mất vai
trò lãnh đạo của Đảng bất cứ lúc nào. Cụ thể là:
a) Về thuận lợi:
- Đảng ta không có các đảng phái chính trị đối lập, do đó Đảng không có sự
cạnh tranh về vai trò lãnh đạo đối với đất nước và xã hội;
- Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến. Vai trò lãnh đạo của
Đảng được quy định tại điều 4, Hiến pháp năm 2013 là: Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo nhà nước và xã hội; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân
về những quyết định của mình.
- Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Đảng có Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
hoạt động dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
- Bằng hoạt động thực tiễn hơn 85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam được
nhân dân thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam; được nhân dân tin yêu, bảo vệ và coi Đảng là của mình.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản
và Công nhân quốc tế; ngoài ra, Đảng còn có quan hệ với nhiều đảng cầm quyền khác
trên thế giới; có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè và nhân dân yêu
chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.
b) Về nguy cơ:
- Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân và trở thành Đảng cầm
quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ những suy thoái, hư hỏng của một số cán bộ,
đảng viên; đồng thời cảnh báo hai nguy cơ đối với Đảng là: Nguy cơ sai lầm về
đường lối và nguy cơ suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991),
Đảng tiếp tục nhấn mạnh hai nguy cơ này và tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại
hội VII của Đảng (1/1994), Đảng đã bổ sung và xác định có 4 nguy cơ đối với Đảng
và cách mạng Việt Nam là:

- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, do điểm xuất phát thấp;
- Nguy cơ sai lầm đường lối, chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
12


- Nguy cơ tham nhũng và tệ nạn quan liêu, lãng phí;
- Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phản động.
Trong 4 nguy cơ nêu trên thì có hai nguy cơ bên trong rất nguy hiểm, có thể
làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng bất cứ lúc nào, đó là:Nguy cơ sai lầm đường lối,
chệch hướng xã hội chủ nghĩa và nguy cơ về sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán
bộ, đảng viên với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
4 nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chỉ ra, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, nó không chỉ còn là nguy
cơ, mà đã trở thành thách thức trong thực tế và ngày càng trở nên bức thiết đối với
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Vì vậy, nhằm cụ thể hoá thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá XI) đã thảo luận và nhất trí rất cao việc ban hành Nghị
quyết “Một số vấn dề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
2. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CẦM QUYỀN TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
2.1. Năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền
Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, dù có một đảng hay nhiều đảng chính trị thì ở
quốc gia đó cũng do một đảng hoặc một số đảng liên minh với nhau để cầm quyền và
thực hiện vai trò lãnh đạo đất nước. Khi trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước
(dù là Đảng Cộng sản hoặc không phải Đảng Cộng sản) thì Đảng đó đều phải đề ra
chủ trương, đường lối để xây dựng, phát triển đất nước và lãnh đạo tổ chức thực hiện
thắng lợi các chủ trương, đường lối mà Đảng đã đề ra. Kết quả thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra chính là thước đo để đánh giá năng lực lãnh đạo và vai
trò cầm quyền của Đảng đó. Như vậy, năng lực lãnh đạo của một Đảng cầm quyền

được thể hiện tập trung trên 5 nội dung chủ yếu sau:
(1). Năng lực nhận thức quy luật khách quan của sự phát triển và vận dụng một
cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước để đề ra chủ trương,
đường lối cách mạng đúng đắn. Đồng thời, phải có năng lực chỉ đạo, tổ chức nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh, tạo sự thống
nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng.
(2). Năng lực thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, các chính sách, chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ và giải pháp
để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phản ánh được ý chí, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân.
(3). Năng lực tổ chức, chỉ đạo đối với Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân
dân trong việc vận động, tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị để thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối, chính sách, mục tiêu,
nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra. Đây thực chất là năng lực lãnh đạo của đảng đối với Nhà
nước - công cụ chủ yếu, mạnh mẽ nhất để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn
xã hội. Do đó, Đảng phải xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; có tổ chức bộ
máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất, năng lực, toàn tâm phục vụ nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
13


(4). Năng lực kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị; kịp
thời phát hiện và xử lý đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh trong
thực tiễn để rút kinh nghiệm;
(5). Năng lực phát hiện, đấu tranh để khắc phục sự suy thoái, biến chất và
những tiêu cực ở trong Đảng, trong xã hội và sự chống phá của các thế lực phản động,
thù địch.
Như vậy, khi nói đến năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền, tức là một Đảng
cầm quyền phải thể hiện đồng bộ và kết hợp được nhuần nhuyễn cả 5 nội dung của
năng lực nêu trên.

2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn của các Đảng cầm quyền trên thế giới, có
thể rút ra kết luận: Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng phải
đồng thời nâng cao cả 5 năng lực nêu trên, trong đó, việc nâng cao năng lực hoạch định
chiến lược, đề ra đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng Nhà nước pháp quyền vững
mạnh, Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân là quan trọng nhất.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong những năm tiến hành đổi
mới, việc hoạch định chiến lược và đề ra đường lối cho mỗi thời kỳ của cách mạng,
Đảng ta luôn quán triệt các quan điểm sau:
(1). Luôn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung
thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, phù
hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
(2). Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng,
trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp; không hoang mang, dao động
trong bất cứ tình huống nào, kể cả những lúc khó khăn, phức tạp.
(3). Kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh chống đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập và các khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ
quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
(4). Trong quá trình xây dựng, hoạch định đường lối, Đảng phải quán triệt và
thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các nhiệm vụ lớn cách mạng trong thời kỳ đổi mới là:
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát
triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Đặc biệt, trong quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra phải chú trọng xử
lý và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn sau: (1).Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; (2). Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị;(3). Giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa; (4). Giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất; (5). Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (6). Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; (7). Giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; (8). Giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

(5). Trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ, phải tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiên; kịp thời phát hiện và xử lý đúng đắn những vấn
đề phát sinh từ thực tiễn. Thường xuyên coi trọng việc nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn để rút kinh nghiệm kịp thời, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động
14


trong Đảng, thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách và các nhiệm vụ
đã đề ra.
(6). Là một Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà
nước. Đảng phải tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thường xuyên đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội cho phù hợp, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng.
2.3. Thực trạng công tác xây Đảng ta hiện nay.
a) Hệ thống tổ chức của Đảng và đảng viên hiện nay
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, các tổ
chức đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hệ thống tổ chức cơ
bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà
nước gồm 4 cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở.
Ngoài ra, tổ chức đảng còn được lập ra ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy
định của Ban Chấp hành Trung ương.
Hiện nay, toàn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng bộ
tỉnh, 05 đảng bộ thành phố, 04 đảng bộ trực thuộc Trung ương (Đảng bộ Quân đội,
Đảng bộ Công an và 02 Đảng bộ Khối). Có gần 1.300 đảng bộ cấp huyện và tương
đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ
tương đương là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng).
Toàn Đảng có gần 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với tổng số hơn 4 triệu đảng

viên. Có 5 loại hình tổ chức cơ sở đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp (trong đó có nhiều loại hình doanh
nghiệp); tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn
vị sự nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 15 năm gần đây,
số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở tăng nhanh và chất
lượng không ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình đã
phát huy vai trò lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở cơ sở; có nhiều mô hình mới và
điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn,
góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an
ninh, quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số loại hình tổ chức cơ sở đảng có
những thay đổi: tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn tăng lên do chia, tách hoặc
thành lập mới; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm dần và tổ chức
cơ sở đảng trong công ty cổ phần tăng lên do thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước; một số loại hình tổ chức cơ sở đảng có sự thay đổi về quy mô, hình
thức tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới;
một số loại hình tổ chức cơ sở đảng mới ra đời và đi vào hoạt động.

15


b) Thực trạng công tác xây Đảng ta hiện nay.
Trên cơ sở tổng kết công tác xây dựng Đảng 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội X, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X trình Đại hội XI của
Đảng đã chỉ rõ những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân chính như sau:
- Về ưu điểm:
+ Đã chủ động và coi trọng nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của
công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung,

phát triển Cương lĩnh, chiến lược và các văn kiện khác trình Đại hội XI.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn
nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; chỉ đạo có kết quả
bước đầu cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn
với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chủ động hơn trong đấu tranh chống “Diễn
biến hoà bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực
thù địch.
+ Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ. Tổ
chức bộ máy của cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn theo hướng
tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả.
+ Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chíên đấu của tổ chức cơ sở
đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đạt được một số kết quả; chú trọng
hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, chú ý
vùng sâu, vùng xa, những loại hình mới; điều chỉnh quy chế hoạt động của các loại
hình tổ chức cơ sở đảng. Quan tâm công tác phát triển Đảng, nhất là ở những nơi có ít
hoặc chưa có đảng viên.
+ Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ và có
một số đổi mới về nội dung và cách làm. Giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung
dân chủ, quyết định tập thể; bước đầu phát huy vai trò của các tổ chức, người đứng đầu
và nhân dân trong công tác cán bộ. Đề ra và từng bước cụ thể hoá "Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Triển khai tương đối đồng
bộ và đổi mới cách làm trong: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,
bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp
lớn về công tác cán bộ được thể chế hoá, cụ thể hoá thành các quy định, quy chế để
thực hiện. Công tác luân chuyển và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có chuyển
biến tích cực. Quan tâm hơn về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, làm rõ và kết luận
nhiều hơn hợp vi phạm về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay.
+ Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đã đạt được một số kết quả nhất

định; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực
trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng được xác định cụ thể, phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất
lượng đảng viên được quan tâm. Việc quy định và thực hiện chủ trương đảng viên
làm kinh tế tư nhân đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
16


+ Công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm chỉ đạo và coi trọng, chất lượng,
hiệu quả được nâng lên. Đã chú trọng kiểm tra việc chấp hành đường lối, chủ trương,
Điều lệ Đảng và trong công tác cán bộ; kiểm tra theo chương trình, kế hoạch và có
trọng tâm, trọng điểm. Qua kiểm tra đã xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các tổ
chức đảng và đảng viên vi phạm, kể cả đối với cán bộ cao cấp; kiên quyết đưa ra xét
xử theo pháp luật một số vụ án lớn, gây bức xúc trong nhân dân.
+ Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí
điểm chủ trương đại hội trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư ở cơ sở và
trực tiếp bầu bí thư ở cấp trên cơ sở. Phong cách lề lối làm việc của các cơ quan lãnh
đạo của Đảng tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát, gần gũi nhân dân, tăng cường
công tác đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện đối với cấp dưới.
- Khuyết điểm, yếu kém:
Tuy đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng Cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng vẫn chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển
biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí; một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa gương mẫu; chưa kiên
quyết xử lý người đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí. Cụ thể là:
+ Công tác chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót: Công tác nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn vẫn chưa làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tính chiến đấu,

tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén. Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và tình tham nhũng, quan liêu, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Việc “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn có biểu hiện
hình thức.
+ Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ ràng; mới
giảm được đầu mối trực thuộc Trung ương nhưng đầu mối bên trong và biên chế
không giảm, thậm chí còn tăng lên.
+ Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu những cơ chế, chính sách cụ
thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; chậm đổi mới cơ chế, phương
pháp và quy trình đánh giá , bổ nhiệm, miễn nhiệm và từ chức đối với cán bộ; đánh
giá cán bộ vẫn là một khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp,
huân chương chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa; chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Chưa quy định cụ thể mối quan hệ về trách
nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là với người đứng đầu. Chưa kiên quyết, thiếu
quy chế thay thế kịp thời cán bộ lãnh đạo yếu kém, trì trệ. Công tác bảo vệ chính trị
nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là đối với những vấn đề chính trị hiện nay còn nhiều
lúng túng.
17


+ Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao. Nhiều khuyết
điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện; chưa
chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tình trạng thiếu
trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến. Kỷ cương,
kỷ luật ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm.
+ Không ít tổ chức cơ sở năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; công tác

quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa thành nền nếp, tự phê bình và
phê bình yếu. Trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
vai trò của tổ chức đảng mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người còn có
biểu hiện lệch lạc, xem việc vào Đảng là một hình thức để tiến thân.
+ Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ. Chức năng, nhiệm vụ của
đảng đoàn, ban cán sự đảng trên một số mặt chưa được xác định cụ thể nên hoạt động
còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp còn nhiều; nói chưa
đi đôi với làm. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi bị vi phạm, ảnh hưởng sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
- Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan là:
+ Do những yếu kém vốn có của nền kinh tế và ảnh hưởng mặt trái của kinh tế
thị trường, của hội nhập, mở cửa;
+Tính mới mẻ, phức tạp của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới;
- Nhưng trực tiếp và quyết định là do các nguyên nhân chủ quan sau:
+ Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế
và thiếu thống nhất.
+ Trung ương ban hành quá nhiều nghị quyết, cơ sở chưa triển khai xong nghị
quyết này đã có nghị quyết khác; khi có nghị quyết thì việc chỉ đạo thực hiện thiếu
kiên quyết, dứt điểm nên nghị quyết chậm vào cuộc sống.
+ Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức còn bất
cập, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân vì dân.
+ Tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương xây dựng Đảng chưa nghiêm
và thiếu các biện pháp toàn diện, cụ thể và khả thi.
+ Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu chưa quan tâm đúng mức đến
công tác xây dựng Đảng với ý nghĩa là nhiệm vụ then chốt.
2.4. Nhiệm vụ giải pháp năng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam cầm quyền trong sạch, vững mạnh.
Để giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo dảm Đảng trong
sạch vững mạnh trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định
phải “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, đồng thời đề
18


ra 8 nhiệm vụ, giải pháp lớn về công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XI
như sau:
Thứ nhất: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tức là bảo đảm cho chủ trương, đường
lối của Đảng đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất cách mạng
và khoa học của giai cấp công nhân; phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn của
đất nước trong từng thời kỳ của cách mạng; phản ánh được ý chí, tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân. Cụ thể là:
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng một
cách sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp; không
hoang mang, dao động, hoài nghi và giảm sút lòng tin vào con đường mà Đảng, Bác
Hồ đã lựa chọn trong bất cứ tình huống nào, kể cả những lúc khó khăn, phức tạp nhất
của tình hình thế giới.
- Kiên định đường lối đổi mới, kiên quyết đấu tranh chống các khuynh hướng
giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Phải đổi
mới toàn diện nhưng trên cơ sở đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới chính trị, có lộ
trình và bước đi thích hợp.
- Trong quá trình xây dựng, hoạch định đường lối, Đảng phải quán triệt và thực
hiện đồng bộ, chặt chẽ các nhiệm vụ lớn cách mạng trong thời kỳ đổi mới là: Phát

triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển
văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
- Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ
những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, không ngừng
phát triển lý luận, đề ra đường lối, chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước;
khắc phục một số mặt yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân
chủ trong khoa học, khuyến khích sự sáng tạo của cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết
phục, hiệu quả của công tác tư tưởng. Thực hiện tốt việc tuyên truyền, học tập chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến và
gương người tốt, việc tốt ở mọi lĩnh vực.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các
trường chính trị và các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng
viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị và có trách nhiệm trực tiếp
làm công tác tưởng; phải thường xuyên tiếp xúc, nắm tình hình tư tưởng của nhân dân
và đối thoại trực tiếp với nhân dân.
- Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn
19


biến” trong nội bộ Đảng; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Thứ ba: Rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh và coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên hằng ngày. Mỗi cán bộ, đảng
viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí
công, vô tư, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên

phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, các biểu hiện tiêu cực.
- Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; thực
hành tiết kiệm. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở phải gương mẫu thực hiện và tham gia
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Thực hiện chế độ dân chủ, công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính. Thực
hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản của cán bộ, công chức theo quy
định. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tạo cơ chế để nhân dân giám sát;
định kỳ lấy ý kiến của nhân dân về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Xử lý
nghiêm những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực, vi phạm điều lệ đảng và suy
thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, năng
lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những
cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ.
Thực hiện nghiêm túc hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 khóa XI của
Đảng“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (Nghị quyết số 12NQ/TW ngày 16/01/2012với 3 nội dung:
Một là: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Hai là: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc
tế.
Ba là: Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong 3 nội dung cấp bách trên, nội dung thứ nhất là nội dung quan trọng nhất,
cần tập trung giải quyết để xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền trong sạch,
vững mạnh.
Thứ tư: Tiếp tục kiện toàn, đổi mới tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống

chính trị
- Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện mô hình tổ chức
và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, bảo
đảm bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò
quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
20


thống chính trị. Khắc phục tình trạng cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
và sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức. Kiện toàn, nâng
cao chất lượng các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về tổ
chức cán bộ, nhất là ở cấp chiến lược.
- Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các biện pháp củng cố và đổi mới
mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn,
ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố các tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện
toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ về những nơi có khó khăn.
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ và các tổ chức đảng,
nhất là nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nâng cao chất lượng tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt đảng trên tinh thần thương yêu đồng chí. Thật sự phát huy dân
chủ trong sinh hoạt đảng.
Thứ năm: Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
- Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt về chất lượng hoạt động của
các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên ở cơ sở,
trước hết là bí thư cấp uỷ có phẩm chất, năng lực và đạo đức cách mạng, có ý thức tổ
chức kỷ luật, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức của Đảng ở một số loại hình tổ
chức cơ sở đảng, vừa tạo ra mô hình tổ chức thống nhất trong toàn Đảng, vừa có mô
hình tổ chức phù hợp với những nơi có tính chất đặc thù.
- Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ và

phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, tiến tới thể chế hoá về
mặt nhà nước vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình cơ sở. Đặc biệt
coi trọng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
- Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ
sở đảng, phải nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và chất lượng công tác kết nạp
đảng viên mới. Chú trọng kết nạp vào Đảng những Đoàn viên thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh ưu tú và những quần chúng tiên tiến trong công nhân, nông dân, trí thức
và người lao động trong các thành phần kinh tế.
- Đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức đảng ở những thôn,
làng, ấp, bản, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc
chưa có đảng viên, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động
của đời sống xã hội.
Thứ sáu: Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ
a) Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ
Công tác cán bộ có vị trí đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Nếu nói
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt của sự nghiệp đổi mới thì việc xây dựng và đổi
mới đội ngũ cán bộ lại là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt ấy. Vì vậy, cần quán
triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ tất cả các khâu của công tác
cán bộ, gồm: Xác định tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; sử dụng, luân chuyển cán bộ; quản lý cán bộ và thực hiện chính
21


sách đối với cán bộ. Phải đổi mới tư duy, cách làm và khắc phục những khuyết điểm,
yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách về phát hiện, tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng người có đức có tài. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, học
hàm, học vị.

- Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ,
cán bộ là người dân tộc thiểu số và đội ngũ chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực; xây
dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
- Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý; kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không
hoàn thành nhiệm vụ và uy tín giảm sút. Xử lý nghiêm minh những trường hợp chạy
chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy bằng cấp.
- Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các cấp, các
ngành; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Chú trọng đổi mới và trẻ hoá đội ngũ cán
bộ lãnh đạo và quản lý, bảo đảm tính liên tục, kế thừa, phát triển.
- Thực hiện thí điểm chủ trương nhất thể hoá một số chức danh cán bộ của
Đảng, Nhà nước ở các cấp; thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý;
b) Coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng,
- Tiếp tục quán triệt và thực hiện đúng Quy định số 57-QĐ/TW ngày 03/5/2007
của Bộ Chính trị (khoá X) về công tác Bảo vệ chính trị nội bộ và Kết luận số 104TB/TW ngày 27/9/2012 của Bộ Chính trị (khoá XI) “về chính sách sử dụng và quản
lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị”.
- Chú trọng nắm và giải quyết đúng đắn các vấn đề về chính trị hiện nay; giải
quyết dứt điểm những vụ việc phức tạp tồn đọng về lịch sử chính trị, phục vụ tốt công
tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XII của Đảng.
- Khi xem xét, giải quyết các vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, đối với
từng trường hợp cụ thể, cần chú trọng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ: Giữa lịch
sử chính trị và chính trị hiện hành thì coi trọng chính trị hiện hành; giữa lịch sử chính
trị gia đình và bản thân thì coi trọng lịch sử chính trị bản thân; giữa tiếp nhận đầu vào
và giải quyết đầu ra thì chú trọng khi tiếp nhận đầu vào; giữa sử dụng và xử lý cán bộ
thì coi trọng việc sử dụng cán bộ.
Thứ bảy: Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
- Tập trung kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và các chủ
trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; việc chấp hành nguyên tắc
tập trung dân chủ, quy chế làm việc; việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham
nhũng, lãng phí; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm

trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy
hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ.
- Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao.
22


- Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của
Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi
cơ quan, tổ chức.
Thứ tám: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Điểm mới căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội khi trở
thành Đảng cầm quyền là có Nhà nước - một công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện
nội dung lãnh đạo. Vì vậy, mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước là làm cho Nhà nước mạnh lên, Nhà nước mạnh thì quyền làm chủ của
nhân dân được phát huy. Cụ thể là:
- Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh và ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng bao biện làm
thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo cơ quan nhà nước.
- Tích cực đổi mới phong cách, lề lối làm việc, tác phong công tác của các cơ
quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ
lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động và trách nhiệm cá nhân. Phát
huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Đổi mới cách ra nghị quyết và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị
quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình
trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế cơ sở,

nói đi đôi với làm.
2.5. Đảng bộ Lào Cai với công tác xây dựng Đảng.
Đảng bộ Lào Cai được thành lập ngày 5/3/1947. Qua gần 7 thập kỷ hoạt động,
Đảng bộ luôn quân tâm đặc biệt tới công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, cán bộ. Với 14 kỳ đại hội, Đảng bộ đã lớn mạnh không ngừng: Thời điểm
thành lập toàn Đảng bộ chỉ có 3 chi bộ nhỏ với 25 đảng viên, đến nay toàn Đảng bộ
đã có trên 600 tổ chức cơ sở Đảng với trên 37 nghìn đảng viên. Nhờ không ngừng
được củng cố, nâng cao sức chiến đấu, nên Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc
Lào Cai lập nên nhiều thành tích vẻ vang:
- Hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Lào Cai khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp
tháng 11 năm 1950.
- Hoàn thành nhiệm vụ tiễu phỉ trừ gian năm 1955.
- Hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế năm 1957.
- Tiến hành thắng lợi cuộc vận động hợp tác hóa kết hợp với cải cách dân chủ,
xây dựng quan hệ sản xuất mới 1959 -1965.
- Đạt được nhiều kết quả to lớn trong việc xây dựng hậu phương chi viện cho
chiến trường miền Nam và đánh trả cuộc tập kích bằng không quân của đế quốc Mỹ
ra miền Bắc 1965 -1970.
- Bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia năm 1979.
- Giành nhiều thành tích trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở địa phương,
đưa Lào Cai trở thành tỉnh phát triển của vùng núi phía Bắc (1991 – nay).
23


Từ năm 1991 (năm tái lập tỉnh) đến nay, đặc biệt 3 nhiệm kỳ gần đây, công
tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Lào Cai không ngừng được đổi mới, tạo ra nhiều
bước phát triển mới:
- Về chính trị: Đã vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng vào thực tiễn địa
phương bằng việc cụ thể hóa chủ trương nghị quyết của Đảng phù hợp với đặc điểm
của tỉnh. Hàng khóa nhiệm kỳ đều ban hành 7 chương trình công tác trọng tâm với

các đề án chuyên đề nhằm huy động mọi nguồn lực, tập trung đầu tư trọng tâm, trọng
điểm, lựa chọn khâu đột phá, khai thác khoa học mọi tiềm năng thế mạnh của địa
phương để phát triển kinh tế – xã hội.
- Về công tác tư tưởng: Đã có bước đột phá về công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng bằng việc áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục lý luận cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt các cấp: Đã không ngừng đổi mới nâng cao chất lượng quán triệt
học tập nghị quyết của Đảng; Chỉ đạo quyết liệt các giải pháp đẩy mạnh học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết ương 4 khóa
XI của Đảng. Thực hiện đồng bộ các loại hình tuyên truyền để đưa đường lối của
Đảng, chính sáh của Nhà nước đến với nhân dân. Từ năm 2012 Tỉnh ủy chỉ đạo thực
hiện thí điểm mô hình ban tuyên vận cơ sở và tổ tuyên vận thôn bản, tổ dân phố ở 36
xã, đến nay đã nhân rộng ra toàn tỉnh và trên thực tế đã đem lại hiệu quả to lớn trong
công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, của địa phương.
- Về tổ chức, cán bộ: Đã có bước đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ, 3
nhiệm kỳ qua Tỉnh ủy đã chỉ đạo thực hiện hiệu quả các Nghị quyết, Kế hoạch, đề án
về củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; tăng cường luân chuyển cán bộ hướng về cơ sở;
chú trọng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận cho đội ngũ cán bộ; nâng tỷ
lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu sô; bố trí sắp xếp cán bộ đúng
năng lực, sở trường…
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng công tác xây dựng Đảng, của
Đảng bộ Lào Cai hiện cũng còn tồn tại những hạn chế không nằm ngoài những hạn
chế, khuyết điểm như Báo cáo Chính trị của BCH Trung ương tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã đánh giá.
Thực hiện các giải pháp tăng cường củng cố nâng cao sức chiến đấu của Đảng
bộ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV chỉ đạo, đặc biệt thực hiện các
giải pháp khắc phục 3 vấn đề cấp bách mà Nghị quyết TW4 khóa XI của Đảng đề ra,
những năm gần đây công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Lào Cai đã có bước chuyển
biến quan trọng thể hiện ở chỗ: cán bộ, đảng viên có tinh thần trách nhiệm cao hơn, số
tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh được nâng lên; không khí đoàn kết;

tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình thẳng thắn trung thực hơn, việc tiếp
thu phê bình để khắc phục khuyết điểm cũng vô tư hiệu quả hơn; năng lực của đội
ngũ cán bộ các cấp được nâng lên nhất là đội ngũ cán bộ ở cơ sở…
Những kết quả trên đã khẳng định sự phát triển về nhận thức, tư duy và hành động
của Đảng bộ trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay Đảng bộ Lào Cai đang nỗ lực cố
gắng làm cho trong toàn Đảng bộ luôn đảm bảo trong sạch, vững mạnh; năng lực lãnh
đạo Đảng bộ xứng tầm với nhiệm vụ trong tình hình mới.
24


Bài 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ- XÃ HỘI
MỚI NỔI LÊN TRÊN THẾ GIỚI, TRONG NƯỚC VÀ ĐỊA PHƯƠNG
(TỪ 2011 ĐẾN 2014)
I. Một số nét lớn về các vấn đề kinh tế- xã hội mới nổi lên trên thế giới tác
động đến nước ta.
Trong 3 năm qua, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, tác
động trực tiếp đến quá trình phát triển của nước ta:
- Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Kinh tế thế giới dưới tác động của
cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2008 ở Mỹ đã kéo theo nhiều cuộc khủng
hoảng khác ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có cuộc khủng hoảng nợ công và nguy
cơ tan rã đồng euro kéo dài nhiều năm, đến nay cũng vẫn chưa hoàn toàn được khắc
phục. Cuộc khủng hoảng kinh tế lần này được đánh giá là có mức độ trầm trọng nhất
kể từ cuộc Đại suy thoái kinh tế thế giới năm 1929- 1933 và có ảnh hưởng sâu rộng
đến mọi mặt đời sống kinh tế và xã hội toàn cầu.
- Nhiều nước công nghiệp phát triển lâm vào khủng hoảng, trì trệ hoặc gặp khó
khăn đã điều chỉnh chính sách mạnh mẽ theo hướng khuyến khích phát triển công
nghiệp trong nước khiến cơ hội thị trường cho những nền kinh tế mới nổi, các nền
kinh tế hội nhập sau dựa nhiều vào xuất khẩu, trong đó có Việt Nam phải đối mặt với
nhiều thách thức mới. Đồng thời, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

trên toàn cầu cũng có xu hướng giảm đi.
- Chủ nghĩa bảo hộ sản xuất trong nước được tiến hành dưới nhiều hình thức và
phương pháp, gây khó khăn cho việc phát triển thị trường xuất khẩu, trong đó có
Việt Nam.
- Tình hình an ninh chính trị thế giới có nhiều biến động khó lường:
+ Bất ổn chính trị bùng phát ở khu vực Trung Đông - Bắc Phi, nơi cung cấp
nguồn dầu mỏ lớn trên thế giới, không những gây ra nhiều hệ lụy về kinh tế và chính
trị thế giới, mà còn tác động trực tiếp đến những đối tác ở các mức độ khác nhau,
trong đó có Việt Nam.
+ Khủng hoảng ở Ucraina và việc bán đảo Crưm thuộc Ucraina thông qua trưng
cầu dân ý để tách ra khỏi Ucraina, sáp nhập vào Liên Bang Nga đang có diễn biến
phức tạp, làm thay đổi cục diện giữa Nga với Eu và các nước phương Tây ở khu vực.
+ Bán đảo Triều Tiên tiếp tục có những diễn biến xấu, phức tạp. Cộng hòa dân
chủ nhân dân Triều Tiên liên tục thử vũ khí hạt nhân, có những tuyên bố mang tính
thách thức Mỹ, Hàn Quốc gây ra những lo ngại trong khu vực.
+ Diễn biến tình hình Sy Ry dẫn đến sự thỏa hiệp của các nước lớn trong năm
2013 và có những phức tạp mới trong năm 2014.
+ Trên lãnh thổ Irắc xuất hiện Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) đang gây sự quan
ngại cho thế giới, nhất là Mỹ. Theo đó Mỹ đang vận động các nước trên thế giới tham
gia thành lập Liên minh chống lại Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS).

25


×