Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Phân tích điều hành chính sách tỷ giá việt nam qua các giai đoạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.47 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------**------

BÀI TẬP NHÓM 2

PHÂN TÍCH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VIỆT
NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN

Lớp

: QH 2014 E - TCNH3

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Trần Thị Vân Anh

Hà Nội, 4/2015
1


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
STT

Mã học viên

Họ và tên

Ngày sinh

1



14057037

Phạm Hải Định

06/7/1982

2

14057040

Nguyễn Thị Hà

04/08/1984

3

14057052

Phạm Thị Thu Hương

03/04/1980

4

14057058

Vũ Đức Luân

06/11/1987


5

14057073

Kiều Văn Quyền

05/03/1989

6

14057064

Nguyễn Thị Ngọc

13/09/1992

7

14057070

Vũ Lan Phương

15/09/1990

8

14057067

Nguyễn Thị Nhâm


18/10/1990

9

14057061

Đoàn Phương Ngân

09/11/1989

10

14057063

Bùi Trần Hồng Ngọc

18/03/1985

11

14057079

Nguyễn Thị Thu

29/11/1988

2



PHÂN TÍCH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VIỆT NAM
QUA CÁC GIAI ĐOẠN

MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, vừa là mục tiêu
vừa là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của mọi quốc gia. Chính sách điều hành
tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các
mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế, giúp cho nền kinh tế trong nước có điều
kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn. Việc phân tích chính
sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và gợi ý một số giải pháp
nhằm cải thiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt để thúc đẩy quá trình tăng trưởng
và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

I. LÝ THUYẾT CHUNG
3


Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của thương mại quốc tế, được xác định dựa trên mối quan hệ cung cầu ngoại tê. Tác
động đến các mối quan hệ kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế, giá cả hàng hóa trong
nước và lưu thông tiền tệ...
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai đồng tiền với
nhau; nói cách khác, TGHĐ là giá cả của đơn vị tiền tệ nước này được thể hiện
bằng số lượng đơn vị tiền tệ nước khác (Trần Hoàng Ngân - 2014).
Chính sách tỷ giá là những định hướng và giải pháp của nhà nước nhằm đảm
bảo sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, thực hiện chính sách ổn định tiền
tệ nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đã dự định.
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
1. Chính sách tỷ giá thời kỳ 1976 - 1989: Tỷ giá cố định, đa tỷ giá.

Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mang nặng tính bao cấp, Nhà nước thực
hiện chính sách tỷ giá cố định. Quan hệ tỷ giá của VNĐ chủ yếu là với SUR và các
nước trong khối XHCN theo phương thức thỏa thuận, còn lại với các đồng tiền
khác về cơ bản là ko xác lập quan hệ tỷ giá.
Tỷ giá được chia làm 2 khu vực, bao gồm Khu vực 1: Tỷ giá trong phe XHCN
và Khu vực 2: Tỷ giá ngoài phe XHCN.

a. Tỷ giá khu vực I:
Trong thời gian này, VN có quan hệ thương mại chủ yếu với các nước XHCN.
Hình thức buôn bán phổ biến là hàng đổi hàng theo 1 tỷ giá cố định được quy định
trong các hiệp định song phương và đa phương. Tỷ giá được chia thành nhiều nhóm
tương thích với từng mục đích quan hệ KT khác nhau, bao gồm:
- Tỷ giá mậu dịch: Là tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán hàng
hóa, dịch vụ vật chất giữa các nước trong phe XHCN. Nó được xác định dựa trên cơ
sở so sánh giá hàng hóa xuất khẩu tính bằng VND và tính bằng ngoại tệ ở nước
ngoài.
- Tỷ giá phi mậu dịch: Là tỷ giá dùng trong thanh toán, chi trả hàng hóa hoặc dịch
vụ vật chất không mang tính thương mại giữa các nước trong phe XHCN, như chi
về ngoại giao, đào tạo, hội thảo, hội nghị… Nó được xác định trên cơ sở giá bán lẻ
4


của một số mặt hàng tại 2 nước tính theo đồng tiền của 2 nước. Tại VN trong 1 thời
kỳ dài đã quy định tỷ giá phi mậu dịch thấp hơn rất nhiều so với tỷ giá mậu dịch để
điều tiết lại phần "chênh lệch giá" do những người nước ngoài được mua rẻ ở VN.
Trong thời kỳ này nếu tỷ giá mậu dịch là 3,27 VND/SUR thì tỷ giá phi mậu dịch là
1,7 VND/SUR cùng thời điểm. Tất cả các tỷ giá phi mậu dịch giữa VN với các nước
đều dần dần hết hiệu lực trong năm 1989 và cuối cùng là ngày 31/12/1999.
-


Tỷ giá kết toán nội bộ: Được xác định trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm
hệ số phần trăm để bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này không công bố
ra ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ (nên gọi là kết toán nội bộ).
Tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) do Nhà nước công bố và cố định trong một
thời gian dài. Tại thời điểm công bố, tỷ giá chính thức thường thấp hơn tỷ giá
thị trường (tức VND bị định giá cao), do đó hoạt động xuất khẩu tính theo tỷ
giá chính thức bị lỗ. Để bù lỗ cho xuất khẩu, Nhà nước dùng tỷ giá kết toán nội
bộ bằng tỷ giá chính thức cộng thêm một tỷ lệ phần trăm quy định cho từng
nhóm hàng.
Đối với hàng nhập khẩu như vật tư nguyên liệu, thiết bị, Nhà nước đứng ra phân

phối cho các ngành trong nền KTQD tính theo tỷ giá chính thức (giá phân phối).
Như vậy các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư, nguyên liệu thì
được lợi, còn Nhà nước không thu được chênh lệch giá. Để hạn chế nhập khẩu hàng
hóa tiêu dùng hoặc hàng xa xỉ phẩm, Nhà nước áp dụng mức tỷ giá cao hơn rất
nhiều so với tỷ giá chính thức.
Tỷ giá chính thức thấp nên các tổ chức KT và cá nhân có ngoại tệ không bán cho
ngân hàng vì như vậy sẽ bị thiệt. Các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân
nước ngoài cũng hạn chế chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà
thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị
trường tự do. Do đó, cơ chế tỷ giá thời kỳ này đã trở thành 1 yếu tố tạo cho ngoại tệ
bị thả nổi, mua bán trên thị trường tự do, tạo môi trường tốt cho đô la hóa.
-Tỷ giá kiều hối: Nhằm thu hút nguồn ngoại tệ mạnh từ các nước tư bản do kiều
bào chuyển về hoặc khuyến khích khách du lịch tại VN (nên còn gọi là tỷ giá
du lịch), Nhà nước tính thêm 1 hệ số thu hút cộng vào tỷ giá chính thức. Vì
vậy, tỷ giá này thường cao hơn tỷ giá công bố chính thức và có thể lên tới
5


50%.


b. Tỷ giá khu vực II: Thời kỳ này Ngân hàng VN dựa vào quan hệ tỷ giá giữa
VND với đồng đô la Hongkong và tính chéo ra tỷ giá với các đồng ngoại tệ
khác. Chính sách xuyên suốt về tỷ giá đối với các nước ngoài phe XHCN là
ngay từ đầu VN chỉ áp dụng một loại tỷ giá chính thức, không phân biệt theo
các loại quan hệ mậu dịch hay phi mậu dịch.
c. Nhận xét: Giai đoạn này nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối
do đó độc quyền về ban hành và ấn định tỷ giá. Việc ấn định tỷ giá ko tuân
theo quan hệ cung cầu trên thị trường làm bóp méo tỷ giá thực, gây khó khăn
cho hoạt động xuất khẩu trong thời gian dài.
2. Chính sách tỷ giá thời kỳ 1989 - 1992: Tỷ giá thả nổi.
Tỷ giá được xác định dựa hoàn toàn trên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Mặc
dù tỷ giá được NHTW công bố nhưng thực chất là thả nổi theo giá thị trường.

Bảng 2.1: Diễn biến tỷ giá hối đoái USD/VND giai đoạn 1989-1992
Năm
1989
- Ngân hàng
- Tư nhân
1990
- Ngân hàng
- Tư nhân
1991
- Ngân hàng
- Tư nhân
1992
- Ngân hàng
- Tư nhân

Tháng 1


Tháng 3

Tháng 6

Đơn vị tính: Đồng
Tháng 9
Tháng 12

3 .5 0 0
5 .2 0 0

4 .2 0 0
5 .3 5 0

4 .3 5 0
4 .4 0 0

4 .1 0 0
4 .2 2 5

4 .2 0 0
4 .5 7 5

4 .3 0 0
4 .6 5 0

4 .3 0 0
4 .4 5 0


4 .8 0 0
5 .6 0 0

5 .7 5 0
6 .3 0 0

6 .6 5 0
7 .0 5 0

7 .0 0 0
7 .4 0 0

7 .4 0 0
7 .9 0 0

8 .3 0 0
8 .8 3 0

10.700
11.050

12.900
12.550

11.880
12.200

11.550
11.550


11.285
11.290

10.950
10.980

10.720
10.650

Nguồn: Ngân hàng nhà nước

Năm 1990 mức tỷ giá USD/VND vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so
với đầu năm. Mức tăng giá USD năm 1991 còn cao hơn. Tình trạng leo thang của
giá USD đã kích thích tâm lý dự trữ USD nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá.
Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất khẩu mà bị
6


buôn bán lòng vòng giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của
chính phủ đều không thành công, có những quyết định của Chính phủ về quản lý
ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Ngân hàng không kiểm soát
được lưu thông ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ mà ngân hàng nắm được trong các năm
1991 - 1992 chỉ đủ cho 7 ngày nhập khẩu.
Như vậy, mặc dù trên danh nghĩa Nhà nước thi hành cơ chế quản lý chặt chẽ
đối với lưu thông ngoại tệ nói chung, tỷ giá hối đoái nói riêng, nhưng trên thực tế tỷ
giá hối đoái đã bị thả nổi ngoài ý muốn của Chính phủ. Tình trạng tỷ giá hối đoái bị
thả nổi thời kỳ này có nguyên nhân do cơ chế quản lý ngoại tệ chậm được sửa đổi,
không theo kịp bước chuyển của kinh tế theo hướng thị trường. Nhưng nguyên
nhân quan trọng nhất là do những khó khăn trong kinh tế đối ngoại: cán cân ngân
sách, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt. Do mất nguồn "nhập siêu" từ Liên Xô

(cũ) nên Việt Nam thiếu ngoại tệ nghiêm trọng, cán cân thương mại với Liên Xô
(cũ) năm 1991 - 1992 thay đổi so với thời kỳ từ năm 1990 trở về trước như sau:
Bảng 2.2: Cán cân thương mại Việt Nam từ 1986-1992
Đơn vị: triệu USD
Năm

1986

1989

1990

1991

1992

- Xuất khẩu

282,5

548,6

889,7

214,5

119

- Nhập khẩu


1.434,20

1.487,00

1.209,50

357

91,1

- Cân đối

-1.151,70

-938,4

-319,8

-142,5

29,7

Chỉ tiêu

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam

Những số liệu trên Bảng 2.2 cho thấy sự giảm sút nghiêm trọng của nhập
khẩu trong các năm 1991 - 1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại
thương với Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Những năm 1990 trở về trước phần nhập
siêu với Liên Xô thường được chuyển thành nợ với lãi suất thấp (một dạng của

ODA) thậm chí xóa được nợ hay chuyển thành viện trợ không hoàn lại. Đó là một
nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt mậu dịch của Việt Nam.
Việc từ năm 1991 trở đi bị giảm mất nguồn "nhập siêu" đó rõ ràng là nguyên
nhân quan trọng của tình trạng thiếu ngoại tệ khiến cho nhiều đơn vị xuất khẩu phải
áp dụng hình thức "nhập trả chậm", tức nhập hàng trước, trả tiền sau, tất nhiên điều
7


này chịu lãi suất cao hơn. Tình trạng mua vét USD để trả nợ đến hạn đã dẫn đến
các cơn "sốt" USD theo chu kỳ vào cuối quý, cuối năm.
Tình trạng leo thang giá USD đã thúc đẩy lạm phát do đồng Việt Nam bị
mất giá mạnh và do giá hàng nhập khẩu tăng nhanh. Trước tình hình đó, từ năm
1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới về
chính sách và cơ chế nêu trên là:
- Thay thế bằng biện pháp hành chính: Bắt buộc các đơn vị quốc doanh có
ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định; bằng biện pháp kinh tế: mở
trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi, mua
bán ngoại tệ với nhau theo thỏa thuận. Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại TPHCM và
Hà Nội được mở từ tháng 8/1991.
- Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương
giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên
cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng Nhà nước
(NHNN) công bố tỷ giá chính thức.
Nhận xét: Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẽo như trên cộng với
sự can thiệp điều tiết của NHNN đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao
dịch đã xóa được tâm lý đầu cơ ngoại tệ và ngăn được xu hướng tăng giá USD trên
thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm. Tỷ giá USD/VND vào thời
điểm cuối năm 1991 tại thị trường tư nhân Hà Nội có lúc lên đến 14.500, nhưng
đến tháng 3/1992 chỉ còn 11.550 và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992.
3. Chính sách tỷ giá thời kỳ 1992 - 1998: Tỷ giá cố định có điều tiết

3.1. Giai đoạn 1992 – 1996:
Trong giai đoạn này nhà nước chủ trương đổi mới quan hệ đối ngoại và chính
sách tỷ giá, từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền ngoại thương, cho phép các tổ chức
kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài.
NHNN công bố tỷ giá chính thức và biên độ dao động nhưng mang tính cố
định và tăng cường các biện pháp quản lý hành chính về tỷ giá như:
-

Quy định biên độ dao động của tỷ giá so với tỷ giá chính thức được công bố

-

mỗi ngày.
Buộc các đơn vị kinh tế có ngoại tệ phải bán ngoại tệ cho Ngân hàng theo tỷ
8


-

giá ấn định.
Công khai hóa các chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức và biên độ
dao động, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, giá vàng …

Trong giai đoạn này tốc độ tăng của tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng lạm
phát. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian khá dài đã đóng vai trò quan
trọng trong việc củng cố sức mua của VND, kiềm chế lạm phát, góp phần đẩy
mạnh việc thu hút vốn ngoại tệ vào ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài;
tuy nhiên không khuyến khích xuất khẩu, ngoại thương kém phát triển.
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của NHNN vào thị
trường ngoại tệ, tỷ giá USD/VND dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của

các doanh nghiệp được giải tỏa khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh
xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ bên ngoài vào nhiều (ước tính từ 1 18/01/1993, nhân dịp tết nguyên đán Nhâm Thân có khoảng 60.000 người Việt
Nam ở nước ngoài về ăn tết, mang về một lượng ngoại tệ khoảng 300 đến 400 triệu
USD) nên tình hình cung cầu ngoại tệ có lúc đảo ngược, cung lớn hơn cầu, khiến
cho giá USD giảm nhanh. Mức tỷ giá USD/VND phổ biến trên thị trường tư nhân
tại Hà Nội trong tháng 01/1993 là 10.300 - 10.400. Có ngày giá USD tụt xuống chỉ
còn 9.950 tại Hà Nội và 9.750 tại TPHCM (13/01/1993).
Tình trạng giá USD giảm nhanh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích
thích nhập khẩu quá mức nên NHNN lại phải can thiệp nhằm tăng giá USD. Trong
hầu hết các phiên giao dịch của quý I/1993, hệ thống ngân hàng đã phải mua USD
vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này. Từ tháng 3/1993 đồng
USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định. Từ cuối năm
1994 đồng USD liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt so với
đồng Yên Nhật Bản, nhưng trên thị trường Việt Nam, đồng USD vẫn đứng vững,
tuy với tốc độ nhỏ (tăng 1,7% trong năm 1994 và tăng 0,4% trong quý I/1995) đã
tạo điều kiện cân đối lợi ích của xuất khẩu và nhập khẩu và phù hợp kinh tế hướng
ngoại.
Ngày 20/9/1994, Thống đốc NHNNVN đã ban hành quyết định số 203/QĐ-NH
về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thành lập và tổ chức vận hành
tốt hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng chính là tiền đề, là nền
9


tảng ban đầu vô cùng quan trọng cho việc thiết lập thị trường hối đoái hoàn chỉnh một nhu cầu khách quan và vô cùng bức xúc của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Sau khi thành lập, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã có những đóng góp nhất
định trong việc giải quyết mâu thuẩn giữa cung và cầu ngoại tệ của nền kinh tế một
cách có tổ chức, thu hút các nguồn ngoại tệ và đưa nó vào luồng chu chuyển trên
một thị trường chính thức, thống nhất và có tổ chức, đáp ứng một cách có hiệu quả
nhất các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Đồng thời, hạn chế các chu chuyển ngoại
tệ tự phát, hình thành giữa các chủ thể, vốn dĩ là nơi tiềm ẩn những hiện tượng tiêu

cực và bất lợi trong lĩnh vực quản lý ngoại hối và ổn định tiền tệ.
Việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho
NHNN phát huy vai trò chủ động điều tiết, can thiệp trên thị trường, bình ổn tỷ giá
hối đoái.
Sự ổn định của tỷ giá hối đoái trong các năm 1993, 1994, 1995 chứng tỏ sự hợp
lý của chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam trong giai đoạn này và tạo điều kiện cho
Việt Nam hoàn thành một cách toàn diện các kế hoạch sản xuất trong nước và xuất
khẩu. Cơ chế xuất nhập khẩu đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ xuất nhập khẩu trong
thời kỳ 1991 - 1995 là 1/1,2. Đầu năm 1996, mức dao động tỷ giá là + 0,2% sau đó
tăng nhanh trong các tháng cuối năm.
Năm 1996 là năm có mức thâm hụt cán cân thương mại cao ở Việt Nam là 4
tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên đến mức 16%, cao gấp ruỡi so với các nước
có mức nhập siêu cao trên thế giới.
Từ những vấn đề trên đã làm tăng sức ép giảm giá lên đồng Việt Nam. Do vậy
NHNN đã có biện pháp mở rộng biên độ giao dịch từ 0,5% trước đây lên 1% vào
tháng 11/1996. Ngoài ra, tỷ giá chính thức cũng được nâng dần lên từ cuối năm
1996 đến đầu năm 1997 đã góp phần giảm bớt sức ép đối với tỷ giá hối đoái của
đồng Việt Nam.
3.2. Giai đoạn 1997 – 1998:
Đây là giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông
Nam Á, điểm xuất phát là Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và có tầm ảnh
hưởng rộng khắp trên phạm vi thế giới, Việt Nam cũng không tránh khỏi những
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Xét trên góc độ vĩ mô, nền kinh tế Việt Nam
10


phải đối đầu với những cơn sốc rộng khắp trong các lĩnh vực như tài chính - ngân
hàng; ngoại thương; đầu tư; chính sách tài khoá; tăng trưởng kinh tế, dự trữ ngoại
tệ và nợ nước ngoài. Mặt khác, những hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái thời
kỳ từ năm 1992-1996 đã trở nên trầm trọng khi cuộc khủng hoảng xảy ra và đặt

chúng ta trước những vấn đề nan giải cấp bách trong việc lựa chọn, điều chỉnh
chính sách tỷ giá hối đoái. Cuộc khủng hoảng đã làm cho một loạt đồng tiền của
các nước trong khu vực như: đồng Won (Hàn Quốc), đồng Baht (Thái Lan), đồng
Rupiah ( Indonesia), đồng Ringgit (Malaysia) giảm giá mạnh so với đồng USD.
Điều này vô hình trung làm cho VND bị định giá cao hơn thực tế so với các đồng
tiền của các nước trong khu vực. Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng
7/1997 chỉ có một lần duy nhất điều chỉnh biên độ giao dịch từ ± 1% lên ± 5% vào
ngày 27/02/1997, thì từ tháng 7/1997 đến đầu năm 1999 NHNN đã nhiều lần thay
đổi biên độ (khoảng 10 lần).
NHNN công bố tỷ giá chính thức và biên độ nhưng liên tục được điều chỉnh
để phản ánh và điều tiết tỷ giá thị trường. Trong giai đoạn này nhu cầu mua ngoại
tệ luôn lớn hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng có lúc bị ngừng trệ. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á gây ảnh hưởng tâm lý
xã hội, đẩy tỷ giá thị trường tự do tăng mạnh.
Chính phủ đã triển khai các giải pháp mạnh trong điều hành chính sách tiền
tệ như cung ứng tiền cho mở rộng tín dụng, xây dựng cơ bản, thu mua lúa tạm trữ
chờ xuất khẩu, cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước. Ngày
14/02/1998, Chính phủ ban hành quyết định 37/1998/QĐ - TTg " Về một số biện
pháp quản lý ngoại tệ " nhằm kiểm soát hoạt động ngoại tệ trên khắp lãnh thổ Việt
Nam, quy định các tổ chức có nguồn thu ngoại tệ từ bán hàng hóa và dịch vụ phải
chuyển ngay vào tài khoản ngoại tệ của mình ở các TCTD được phép kinh doanh
ngoại tệ và phải bán hết số dư ngoại tệ còn lại sau khi đã trừ các nhu cầu chi ngoại
tệ hợp lý. Chính phủ khẳng định quyền và kiểm soát duy nhất của Nhà nước đối với
mọi nguồn ngoại tệ lưu hành trên thị trường cũng như việc chu chuyển ngoại tệ của
nền kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam. Đi đôi với việc triển khai Quyết định 37, các cơ
quan chức năng đã ra quân một cách đồng bộ, xử lý một cách kiên quyết các sai
phạm đã làm nhu cầu tăng giả tạo ngoại tệ giảm hẳn.
11



Ngày 10/01/1998, Thống đốc NHNNVN đã ra Quyết định số 17/98/QĐ NHNN ban hành "Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái". Với sự xuất hiện của quy
chế này, hoạt động kinh doanh ngoại hối đã có được những cơ sở pháp lý cần thiết.
Sau hàng loạt các biện pháp kiểm soát tỷ giá, giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ,
kiểm tra trạng thái ngoại hối tại các ngân hàng, ngày 30/9/1998, Thủ tướng chính
phủ đã ban hành Quyết định 173 và NHNN đã có Thông tư 08 hướng dẫn thực hiện
nhằm giải tỏa tình trạng găm giữ ngoại tệ một cách mạnh mẽ hơn, giúp nền kinh tế
có thể điều hòa cung cầu ngoại tệ thông qua việc mua bán bình thường. Có thể
khẳng định Quyết định 173 của Thủ tướng chính phủ về nghĩa vụ bán và quyền
mua ngoại tệ là hoàn toàn đúng đắn. Nó giúp việc điều hòa cung cầu ngoại tệ trong
nền kinh tế giữa các tổ chức có ngoại tệ nhưng chưa hoặc không có nhu cầu sử
dụng, trong khi đó các tổ chức khác có nhu cầu thanh toán nhưng lại không có
ngoại tệ. Biện pháp này còn giúp cho nền kinh tế sử dụng nguồn vốn ngoại tệ năng
động hơn, thay vì tập trung đóng băng ở một vài đơn vị; góp phần xóa bỏ đầu cơ,
găm giữ ngoại tệ chờ hưởng chênh lệch giá. Đây cũng là biện pháp bình thường, trở
thành thông lệ đối với các nước có lượng dự trữ ngoại hối tính trên đầu người thấp
hoặc đối với các nước có đồng bản tệ chưa trở thành đồng tiền chuyển đổi; quan hệ
cung cầu ngoại tệ còn mất cân đối.
Những biện pháp đồng bộ đã làm hạ nhiệt nhanh chóng cơn sốt tỷ giá ngoại
tệ. Giá USD ở thị trường tự do giảm hơn. Tỷ giá thị trường tự do, thị trường có tổ
chức (ngân hàng, thị trường liên ngân hàng) đã sát lại gần nhau, mức chênh lệch
không đáng kể.
Chính phủ và NHNN đã đưa ra hàng loạt giải pháp kinh tế để điều hành
chính sách tiền tệ như: Điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn khu vực thành thị từ
1% lên 1,2%/tháng bằng trần lãi suất khu vực nông thôn; nâng trần lãi suất cho vay
trung dài hạn từ 1,1% lên 1,25%/tháng, tạo biên độ rộng hơn để các ngân hàng
thương mại thu hút vốn. NHNN đồng thời điều chỉnh giảm trần lãi suất ngoại tệ của
các tổ chức kinh tế nhằm hạn chế, triệt tiêu tình trạng găm giữ USD trên tài khoản
của một số doanh nghiệp và Quyết định 37, cũng không buộc dân chúng có ngoại tệ
phải bán cho ngân hàng nên đã tránh được xáo động không cần thiết đã được người
dân đồng tình.

12


NHNN cũng đã điều chỉnh tỷ giá USD/VND chính thức từ 11.175
VND/USD lên 11.800 VND/USD, đã làm tỷ giá mua bán của thị trường có tổ chức
gần sát với thị trường tự do, khoảng cách về tỷ giá triệt tiêu. Ngân hàng có lợi vì
mua được, bán được ngoại tệ; các doanh nghiệp và dân chúng có lợi vì bán được
ngoại tệ với tỷ giá thực, không bị ép giá; Nhà nước có điều kiện thu hút ngoại tệ từ
bên ngoài bổ sung cho nhu cầu dự trữ. NHNN cũng đã quy định giới hạn mua bán
ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi đối với các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh
ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi (28 ngân hàng) nhằm đảm bảo hạn chế rũi ro cho các
doanh nghiệp và ngân hàng khi có biến động tỷ giá.
Nhận xét: Nhìn chung, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái của NHNN sau khi
cuộc khủng hoảng nổ ra là hợp lý. Nhưng có thể đây mới chỉ là những biện pháp
cấp bách mang tính chất đối phó để giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt về
tỷ giá hối đoái nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định chiến
lược lâu dài, ổn định đối với vấn đề tỷ giá hối đoái.
4. Chính sách tỷ giá thời kỳ từ năm 1999 đến nay: Tỷ giá thả nổi có quản lý
4.1. Giai đoạn 1999 – 2006.
Giai đoạn này NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng; thực hiện mở rộng quyền giao dịch ngoại tệ, từng bước thực hiện
tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn thích ứng với yêu
cầu hội nhập.
Ngày 25/2/1999, NHNN thay đổi cách công bố tỷ giá phù hợp với yêu cầu thị
trường thông qua hai quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá hối
đoái của đồng Việt Nam so với ngoại tệ. Hàng ngày NHNN công bố tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng Việt Nam với đồng
đôla Mỹ thay cho việc công bố tỷ giá chính thức. Quyết định số 65/1999/QĐNHNN về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán giao ngay của đồng
Việt Nam đối với đôla Mỹ tối đa không vượt quá biên độ ±0,1% do NHNN quy
định so với tỷ giá NHNN công bố hàng ngày. Có thể nói, các biện pháp tổng hợp

này đã phát huy hiệu quả tích cực và có thể rút ra bài học kinh nghiệm: Chỉ có thể
can thiệp vào hoạt động kinh tế bằng những biện pháp kinh tế có tính toán đến lợi
13


ích nhiều chiều, thỏa đáng cho mỗi bên.
Ngày 1/6/2001 NHNN thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ theo sát lãi
suất thị trường quốc tế. Do những hạn chế của cơ chế tỷ giá con rắn tiền tệ trong
một biên độ rộng (crawling band), NHNN đã có những bước điều chỉnh căn bản
trong tỷ giá. Đây là một sự thay đổi về cơ chế tỷ giá cho phù hợp với quy luật thị
trường. Việc chuyển đổi sang cơ chế điều hành tỷ giá mới, tỷ giá biến động theo
chênh lệch lãi suất giữa USD - VND và theo xu hướng tăng cùng với biện pháp
quản lý ngoại hối ngày càng thông thoáng đã đem lại những bước phát triển đáng
được ghi nhận trong các chỉ báo tiền tệ.
Ngày 1/6/2002, NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đối với VND ở
mức 8,5% - 9,5%/năm, tỷ giá thị trường tự do tăng cao so với tỷ giá ở ngân hàng,
tình hình ngoại tệ căng thẳng, một số ngân hàng thực hiện hoán đổi sang đồng tiền
thứ ba, hợp thức hoá USD cho doanh nghiệp mua ngoại tệ trên thị trường tự do.
Từ 1/7/2002 NHNN đã nới lỏng biên độ dao động để ổn định tỷ giá trên thị
trường, biên độ giao dịch mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với hầu hết
các kỳ hạn giao dịch tăng lên ± 0,25% so với mức ± 0,10% trước đó đối với nghiệp
vụ giao ngay; lên ± 0,50% so với mức ± 0,40% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30
ngày; lên ± 2,53% so với mức ± 2,5% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn trên 90 ngày.
Việc điều chỉnh tăng biên độ đáp ứng yêu cầu của các Tổ chức tín dụng cũng
như của các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với ngân hàng, không bị gò
bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước đây và phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngày
13/9/2002 NHHN ra quyết định 958/2002/QĐ-NHNN quy định quản lý ngoại hối
đối với việc mua bán chứng khoán của tổ chức, cá nhân nước ngoài; sửa đổi
phương pháp tính và tỷ lệ khống chế trạng thái ngoại hối của các Tổ chức tín dụng.
Năm 2003, NHNN cho phép các NHTM thực hiện nghiệp vụ quyền lựa

chọn tiền tệ (Option), giảm tỷ lệ kết hối các doanh nghiệp xuống 0%. Các biện
pháp trên giúp thu hút ngoại tệ, ổn định tỷ giá đem đến sự thặng dư của cán cân
vốn, cán cân tổng thể mặc dù cán cân thương mại thâm hụt. Ngày 28/5/2004
NHNN đã cho phép các NHTM được thoả thuận tỷ giá kỳ hạn với khách hàng trên
cơ sở chênh lệch lãi suất cơ bản do NHNN công bố và lãi suất USD của FED. Đây
là một điểm đổi mới quan trọng trong điều hành chính sách tỷ giá, vì chúng sẽ giúp
14


làm giải toả tâm lý của thị trường về những kỳ vọng tương lai đối với các biến động
tỷ giá.
Ngày 8/12/2004 NHNN ban hành quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về
điều chỉnh giao dịch hối đoái của các TCTD có hiệu lực thi hành thay thế những
quy định được ban hành từ năm 1998. Nội dung quyết định trên đã mở rộng quyền
giao dịch ngoại tệ; nới lỏng quy định về kiểm soát, cung cấp thêm cho thị trường
công cụ phòng ngừa rủi ro Option; làm thị trường ngoại tệ diễn biến linh hoạt và tỷ
giá phản ánh cung cầu ngoại tệ đúng đắn hơn. Từ năm 2004 - 2006, USD bị mất giá
so với các đồng tiền chủ chốt nhưng vẫn lên giá so với VND gây bất lợi trong nhập
khẩu. FED điều chỉnh tăng lãi suất liên tục nên rút ngắn chênh lệch lãi suất USD và
VND, góp phần ổn định tỷ giá USD/VND. Ngày 1/6/2006 chính phủ ban hành
Pháp lệnh ngoại hối theo hướng tự do hoá các mức lãi suất trong nghiệp vụ Option,
không kiểm tra chứng từ giao dịch ngoại tệ, bỏ mức khống chế trần tỷ giá giao dịch
kỳ hạn….các quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế theo hướng tự do hoá, giúp
Việt Nam tiến sát đến việc gia nhập WTO. Quý III, quý IV/2006 vốn nước ngoài
đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán tăng mạnh kéo theo dân chúng cũng
chuyển đổi USD thành VND để đầu tư làm tỷ giá bán và tỷ giá mua công bố bằng
nhau ở ngân hàng. Ngày 31/12/2006, NHNN ban hành quyết định 2554/QĐ-NHNN
nới lỏng biên độ dao động tỷ giá USD/VND từ ±0,25% lên ±0,5%.
Tuy nhiên, trong năm 2005 đến 2006, tình hình thế giới bất ổn cùng với việc
Mỹ tuyên chiến với các tổ chức và quốc gia có liên quan đến khủng bố và vũ khí hạt

nhân làm USD giảm giá so với EUR, JPY nhưng lại tăng giá so với VND đẩy giá
vàng tăng kỷ lục gây bất lợi cho xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Chênh lệch lạm
phát giữa Việt Nam với các đối tác thương mại tăng cao, nhưng năm 2004 NHNN
công khai duy trì tỷ giá biến động không quá 1% làm ảnh hưởng đến tính linh hoạt
trong điều hành tỷ giá. IMF đã xếp Việt Nam trở lại nhóm các nước có cơ chế cố
định truyền thống từ năm 2005.
4.2. Giai đoạn 2007 – 2011.
Trong năm 2007 và quý I/2008, tiền đồng Việt Nam lên giá do vốn nước
ngoài vào nhiều, lãi suất VND tăng cao, lãi suất USD giảm mạnh. Tỷ giá
VND/USD đã hạ đến mức thấp nhất (kịch sàn), các NHTM đều niêm yết giá mua
15


bằng giá bán để cạnh tranh. Bên cạnh đó, có những thời điểm hầu hết các NHTM
đều mua ngoại tệ theo giá thỏa thuận. Thậm chí không yết tỷ giá mua USD vào để
tránh tình trạng dư thừa USD không bán được hoặc kinh doanh bị lỗ. Ngày
24/12/2007, NHNN đã ban hành Quyết định 3039/QĐ-NHNN nâng biên độ niêm
yết USD từ +/- 0.5% lên +/- 0.75%. Việc nới rộng biên độ này đồng nghĩa với việc
nới rộng chênh lệch mức sàn và trần đối với tỷ giá niêm yết của USD so với VND,
một phần đã tạo thế chủ động hơn cho các NHTM trong việc niêm yết tỷ giá
USD/VND theo đúng với diễn biến của thị trường. Đối phó với những biến động
của thị trường trong nước cũng như nhằm cân đối ổn định cung cầu ngoại tệ,
NHNN đã nhiều lần điều chỉnh biên độ tỷ linh hoạt theo sát diễn biến cung cầu
ngoại tệ trên thị trường.
Bước sang Quí II/2008, nhu cầu về ngoại tệ có xu hướng tăng trở lại, chấm
dứt cho một giai đoạn dài tỷ giá VND/USD luôn được yết ở mức kịch sàn, dấu hiệu
khan hiếm ngoại tệ đã xuất hiện và kéo dài đến hết năm 2011. Song song với việc
điều chỉnh biên độ tỷ giá cũng như TỶ GIÁ BÌNH QUÂN LIÊN NGÂN HÀNG,
NHNN cũng đã điều chỉnh lãi suất cơ bản của VND, lãi suất tái chiết khấu, tái cấp
vốn... nhằm điều tiết và ổn định thị trường tiền tệ. Sự lệch pha giữa cung và cầu

ngoại tệ đã tạo nên những khó khăn nhất định cho ngân hàng thương mại (NHTM)
trong việc đáp ứng nhu cầu mua - bán ngoại tệ của khách hàng. Đáng lo ngại là
lượng vốn vay vượt quá bằng USD của khu vực ngân hàng sẽ tạo nên lực cầu mạnh
về USD khi những khoản vay đến hạn phải trả (dư nợ tín dụng bằng USD tính đến
giữa tháng 10/2010 đã tăng đến 52% trong khi tín dụng bằng tiền đồng chỉ tăng
14,6%). Chưa kể áp lực của cán cân thanh toán do thâm hụt thương mại vẫn ở mức
cao và sự sụt giảm mạnh của tổng dự trữ ngoại hối chính thức. Đã có thời điểm cuối
năm 2010 ước tính dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ đủ cho nhập khẩu 6 tuần tương đương khoảng 11 tỷ USD. NHNN liên tục bán ngoại tệ ra để can thiệp tỷ giá.
Sau mỗi lần can thiệp thị trường ổn định được thời gian, áp lực trở lại. Quan trọng
nhất là tình hình tỷ giá ngày càng biến động theo chiều giảm giá mạnh của đồng
Việt Nam trên thị trường tự do. Tỷ giá này đã lên vọt từ 19.500 đồng/USD vào đầu
tháng 9/2010 vượt qua mức cảnh báo tâm lý là 20.000 đồng trong tuần thứ ba của

16


tháng 10/2010 và đạt mức 20.500 đồng vào cuối tháng, thậm chí còn lên trên 21.000
đồng từ giữa 11/2010 và kéo dài trong một thời gian.
Tuy nhiên, kể từ khi NHNN sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, giải pháp để
kiểm soát, điều tiết thị trường, tác động đến cả cung và cầu ngoại tệ, ổn định thị
trường, ngăn chặn hiện tượng đầu cơ làm rối loạn thị trường ngoại hối và hạn chế
tình trạng đô la hóa, vàng hóa nền kinh tế, như ngày 01/03/2011, Thống đốc NHNN
ra chỉ thị số 01/CTNHNN-CSTT về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân
hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội;
Ban hành Thông tư 07/2011/TT-NHNN ngày 24/3/2011 quy định cho vay bằng
ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Ngày 09/04/2011, NHNN tiếp tục
ban hành Quyết định số 750/QÐ-NHNN về tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ
đối với các TCTD; đồng thời, ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN quy định
giảm mức lãi suất huy động bằng đôla Mỹ không quá 2%/năm và điều chỉnh Thông
tư 13 nâng hệ số rủi ro đối với Tài sản có bằng ngoại tệ của TCTD từ 20% lên 50%

và 250% đối với khoản vay bảo đảm bằng vàng... Các qui định này nhằm thu hẹp
đối tượng được vay ngoại tệ trong nước; thắt chặt tín dụng ngoại tệ và tín dụng bảo
đảm bằng vàng; đồng thời khuyến khích chuyển quan hệ huy động (vay mượn) sang
quan hệ mua bán ngoại tệ; góp phần ổn định thị trường ngoại tệ và chống đô la hóa
nền kinh tế.
Biểu đồ 1: Diễn biến tỷ giá VND/USD từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2011

Nguồn: NHNN và tổng hợp của nhóm
17


4.3. Giai đoạn 2012 – Đến nay.
Các giải pháp tiền tệ của NHNN nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô và đảm bảo an sinh xã hội đã tạo cho thị trường ngoại tệ có những chuyển biến
tích cực như: thị trường tự do gần như ngừng hoạt động, các cá nhân có nhu cầu bán
ngoại tệ sẽ bán cho ngân hàng thay vì bán ra thị trường tự do như trước đây.
Thu hẹp chênh lệch giữa tỷ giá liên ngân hàng và tỷ giá niêm yết của NHTM
(chênh lệch 100 - 300 đồng/USD). Từ đó giảm dần tâm lý găm giữ ngoại tệ của tổ
chức, cá nhân. Các tổ chức, các nhân có nguồn thu ngoại tệ đã chủ động bán ngoại
tệ cho NHTM theo tỷ giá niêm yết. Thị trường ngoại hối đã đi vào ổn định. Tỷ giá
USD/VND trên thị trường tự do đã giảm mạnh, chỉ xoay quanh tỷ giá của NHTM
giao dịch với khách hàng, thậm chí nhiều thời điểm còn thấp hơn.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua
việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như tỷ giá bình quân liên ngân hàng
được NHNN công bố hàng ngày, mức trạng thái ngoại tệ của TCTD (Thông tư số
07/2012/TT-NHNN ngày 20/3/2012 quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài: quy định tổng trạng thái ngoại tệ của các
TCTD sau khi quy đổi thành VND không được vượt quá +/- 20 % vốn tự có của
TCTD); Ngân hàng Nhà nước công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng
giữa đồng Việt Nam và USD áp dụng cho ngày 19/06/2014 từ mức 21.036

VNĐ/USD (tỷ giá đã được duy trì trong một thời gian dài không thay đổi từ ngày
28/06/2013) lên 21.246 VNĐ/USD, mức điều chỉnh tương đương 1%. Thực hiện
phương án mua bán trên thị trường ngoại tệ, hay còn gọi là thị trường liên ngân
hàng, NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá hối đoái thông qua việc mua vào hay bán ra ngoại
tệ.
Biểu đồ 2: Diễn biến tỷ giá VND/USD từ tháng 01/2012 đến tháng 06/2014

18


Nguồn: NHNN và tổng hợp của nhóm
Nhận xét chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam:
Thứ nhất, quy mô GDP của Việt Nam quá nhỏ bé so với quy mô GDP khu
vực châu Á lẫn toàn thế giới, do đó độ mở thương mại của Việt Nam không thể thu
hẹp hơn, mức chênh lệch lạm phát của Việt Nam so với các nước có quan hệ
thương mại lớn rất cao nên không thể thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi ngay được.
Thứ hai, việc neo chặt tỷ giá VND vào USD, trong khi vị thế của đồng USD
đã bị giảm sút, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước khác Hoa Kỳ lại
tăng lên đáng kể, dẫn đến việc neo chặt tỷ giá theo USD đã ảnh hưởng phần nào đến
hoạt động thương mại, đầu tư với các đối tác.
Thứ ba, tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày
không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực chất cung cầu của thị trường nhất là
những thời điểm xảy ra tình trạng dư thừa hay căng thẳng ngoại tệ.
Thứ tư, quá trình tự do hóa thương mại ngày càng được mở rộng, cán cân
vốn tự do, nếu cơ chế điều hành tỷ giá kém linh hoạt, cứng nhắc, phi thị trường thì
sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ
GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM
1.


Giải pháp ngắn hạn
Xem xét lại chính sách cho vay ngoại tệ đối với các doanh nghiệp. NHNN đã

quy định và giới hạn đối tượng được phép vay USD, chỉ gồm những doanh nghiệp
xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ hoặc doanh nghiệp được NHTM cam kết bán ngoại
19


tệ. Hiện nay, chính sách này đã hạn chế tình trạng cho vay USD tràn lan nhưng vẫn
chưa hẳn ngăn chặn hoàn toàn nguy cơ khan hiếm USD khi đến kỳ trả nợ, do các
doanh nghiệp có thể không bán hoặc bán không đủ số USD đã nhận nợ vay, hoặc
các NHTM vẫn cho các doanh nghiệp chỉ nhập khẩu vay USD và cơ cấu lại đồng
tiền nhận nợ khi đến hạn trả nợ, đây cũng là cách để các NHTM có thể thực hiện
mua bán theo tỷ giá vượt trần tại thời điểm trả nợ cho các doanh nghiệp khi tỷ giá
có sự biến động mạnh. Do đó, NHNN cần giám sát chặt chẽ hơn các khoản vay
USD của doanh nghiệp. Yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu chứng minh nguồn tiền
xuất khẩu có được bằng chứng từ xuất trình tại NHTM khi muốn vay USD, hoặc
không cho cơ cấu lại đồng tiền nhận nợ. Ngoài ra, mới đây, NHNN một mặt điều
chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên 1%, mặt khác nới lỏng cho vay USD
để vừa tăng trưởng dư nợ ngoại tệ, vừa tạo ra được một lượng USD cho thị trường
khi các doanh nghiệp nhận nợ USD, bán USD lấy VND thanh toán trong nước. Vì
vậy, chính sách cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp cần được xem xét điều chỉnh
nới lỏng hay siết chặt phù hợp với từng thời kỳ nhất định.
NHNN cần tiếp tục can thiệp hoạt động ngoại tệ một cách hiệu quả hơn thông
qua chức năng người mua bán cuối cùng. Nếu thị trường căng thẳng, ngoại tệ khan
hiếm thì Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp bán ngoại tệ ra. Ngân hàng Nhà nước
bán USD ra kéo giá xuống, bình ổn thị trường trở lại. Ngược lại, trong trường hợp
thị trường có tình trạng dư thừa ngoại tệ, thì NHNN phải thực hiện chức năng mua
vào trên thị trường liên ngân hàng nhằm giảm bớt tình trạng ứ đọng ngoại tệ, gây
khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Khuyến khích đa dạng hóa ngoại tệ trong việc thanh toán hàng nhập khẩu. Xu
hướng thanh toán các hợp đồng ngoại thương cho nước ngoài phần lớn bằng USD
là điều dễ hiểu, khi mà USD là đồng tiền thanh toán phổ biến, thông dụng và mạnh
nhất trên thế giới hiện nay. Mặt khác, khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán bằng
ngoại tệ khác USD thì thông thường phải bỏ ra một chi phí lớn hơn là thanh toán
bằng USD do giá bán các ngoại tệ khác USD không bị NHNN khống chế trần. Do
đó, NHNN cần có chính sách khuyến khích các bên tham gia thanh toán xuất, nhập
khẩu bằng đa dạng các loại ngoại tệ khác có khả năng thanh toán chuyển đổi. Thực
hiện xây dựng một trung tâm mua - bán ngoại tệ khác USD trong nước, khuyến
20


khích doanh nghiệp sử dụng thanh toán ngoại tệ khác USD trong thanh toán quốc tế
thông qua việc hộ trợ giá tốt nhất có thể cho doanh nghiệp.
Siết chặt kỷ cương hoạt động của bàn đại lý thu đổi ngoại tệ. Việc cấp phép
thành lập ồ ạt các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ của những năm trước đã dẫn đến tình
trạng việc thu đổi, mua bán ngoại tệ bất hợp pháp diễn ra tràn lan, không thể kiểm
soát nổi. Thêm vào đó, chế tài xử phạt hành chính quá nhẹ và lỏng lẻo trong quản lý
đã làm cho tình trạng tồn tại song song hai hình thức giá kéo dài. Tuy nhiên, nhờ
những biện pháp quyết liệt, trong thời gian qua, NHNN đã hạn chế rất nhiều trong
việc cấp phép hoạt động cho các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ, chế tài xử phạt cũng
mạnh tay hơn, đồng thời đã có sự phối hợp chặt chẽ liên ngành, đặc biệt là với Bộ
Công an trong việc kiểm tra, phát hiện và xử lý các sai phạm. Việc quản lý hoạt
động của bàn đại lý thu đổi ngoại tệ cần phải chặt chẽ hơn nữa, chế tài xử phạt cần
nghiêm khắc cùng với việc điều hành tỷ giá hạn chế tạo nên các cú sốc cho thị
trường thì sẽ ngăn chặn được sự hoạt động bất hợp pháp của các bàn đại lý thu đổi
ngoại tệ.
NHNN kết hợp điều hành giữa vàng và ngoại tệ. USD và vàng là hai loại
ngoại hối có giá trị dự trữ lớn nhất trong tổng lượng dự trữ ngoại hối của Nhà nước,
việc bình ổn thị trường sẽ tránh được tình trạng hàng năm một lượng lớn USD chảy

ra nước ngoài do nhập khẩu vàng (kể cả nhập khẩu chính thức và nhập lậu). Do đó
sẽ giảm bớt và xóa bỏ dần tình trạng căng thẳng, khan hiếm USD, kéo theo sức ép
tỷ giá USD/VND tăng khi giá vàng tăng cao và nhu cầu nhập khẩu vàng lớn.
Ổn định tâm lý người dân. Khi thị trường chịu tác động của yếu tố tâm lý, tỷ
giá tăng cao hoặc thấp hơn mức hợp lý. Nếu tỷ giá chính thức luôn kịch trần và thấp
hơn thị trường tự do sẽ lại dẫn đến bài toán thị trường tồn tại thực tế 2 tỷ giá. Muốn
ổn định tâm lý thị trường, Ngân hàng Nhà nước cần phải minh bạch hơn nữa trong
quá trình quản lý và điều hành. Nếu chính sách điều hành thu hút được người dân
đồng thuận, tin tưởng thì sẽ tránh được tình trạng ghim giữ ngoại tệ, nâng cao được
vị thế của đồng nội tệ. Có thể thấy, thời gian vừa qua, người dân đã rất tin tưởng
vào chính sách điều hành tỷ giá của NHNN.
2.

Giải pháp trung - dài hạn
21


Cơ cấu cán cân Xuất - Nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển
xuất khẩu một cách bền vững và hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu. Chuyển dịch
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao.
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng
không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu trong dài hạn. Ngoài ra,
cần xây dựng các biện pháp, rào cản kỹ thuật cần thiết nhằm bảo vệ sản phẩm trong
nước khỏi sự cạnh tranh không công bằng trên thị trường trong nước nhưng vẫn phù
hợp với các quy định của WTO và các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả, hợp lý. Bên cạnh việc xây dựng cơ
sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng như phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh để thu hút vốn FDI, Chính phủ cần nhận định
chính xác tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI để đưa ra những phương

hướng và chính sách thu hút vốn FDI kết hợp với tái cấu trúc nền kinh tế chuyển
hướng từ chiều rộng sang chiều sâu nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng sâu
rộng của nền kinh tế thế giới. Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà
đầu tư nước ngoài.
Giám sát chặt chẽ nợ công, thu chi công bằng ngoại tệ, cần giảm dần các
khoản vay ưu đãi, vay từ nguồn vốn ODA, tiến tới chuyển sang vay ngắn hạn. Tăng
tỷ trọng vay trong nước đối với khu vực công; tăng nguồn vốn vay trong nước,
giảm dần nguồn vốn vay nước ngoài. Rà soát toàn bộ dự án sử dụng vốn vay nhằm
đánh giá xem dự án nào nên huy động vốn nước ngoài và dự án nào có thể huy
động vốn trong nước nhằm giảm tối đa rủi ro về tỷ giá, lãi suất.
Hướng tới việc chống đô-la hóa nhằm giảm bớt căng thẳng ngoại tệ, cần có
chiến lược triệt để chống đô-la hoá. Phải coi ngoại tệ nói chung là một loại hàng hoá
đặc biệt chỉ do Nhà nước độc quyền quản lý bằng đồng tiền nội và quản lý bằng các
công cụ hành chính để kiểm soát và điều hành việc sử dụng. Mọi nhu cầu ngoại tệ
hợp pháp đều phải mua hoặc bán thông qua NHTM hay qua thị trường ngoại hối có
tổ chức theo duy nhất một tỷ giá thị trường và đa dạng các công cụ phái sinh ngoại
22


tệ được khuyến khích sử dụng trong thị trường ngoại tệ chính thức, có sự quản lý,
giám sát của NHNN.
Giảm bớt dần tình trạng kiểm soát tỷ giá mang tính hành chính, mạnh dạn
giảm bớt can thiệp mang tính hành chính, đồng thời nâng cao hơn tính chỉ đạo và
kiểm soát vĩ mô của NHNN trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực
ngân hàng thương mại, kiểm tra và giám sát từ xa để điều tiết thị trường và hướng
thị trường đến mục tiêu đã đặt ra.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu về chính sách tỷ giá của Việt Nam thời gian qua cho ta thấy

được sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Đây là
một biến số quan trọng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại thương và
những biến số khác trong nền kinh tế. Sự thay đổi trong cán cân thương mại do biến
động của tỷ giá là một vấn đề quan trọng và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô.
Năm 2015 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế,
cơ hội và thách thức cũng ngày càng lớn, do đó Ngân hàng Nhà nước cần tiếp chính
sách tỷ giá hối đoái với cơ chế điều chỉnh linh hoạt nhằm thúc đẩy quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

23



×