Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.86 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***************

ĐỖ HỒNG HUYỀN

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
VÀO VIỆC NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành Triết học

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***************

ĐỖ HỒNG HUYỀN

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN
THỨC VÀO VIỆC NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80


Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Dương Văn Thịnh

HÀ NỘI – 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 2
NỘI DUNG ............................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ
VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC ........................... 9
1.1. Khái niệm thực tiễn và nhận thức trong triết học Mác - Lênin ......... 9
1.1.1. Thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của con ngƣời ........................ 9
1.1.2. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi
con ngƣời .............................................................................................. 20
1.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức .......................................... 29
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ VIỆC NHẬN
THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CON ĐƢỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ................... 38
2.1. Tính tất yếu của con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ... 38
2.2. Thực tiễn xã hội Việt Nam và sự đổi mới nhận thức về con đƣờng
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ........................................ 44
2.2.1. Thực tiễn xã hội và sự nhận thức của Đảng về con đƣờng đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trƣớc thời kỳ đổi mới .............................. 45
2.2.2. Nhận thức của Đảng về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ đổi mới ở Việt Nam .................................................................. 50
2.3. Tiếp tục đổi mới nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội
trong bối cảnh toàn cầu hoá .................................................................. 71
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 83


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việc đƣa phạm trù thực tiễn vào làm cơ sở cho lý luận nhận thức
là bƣớc phát triển về chất của triết học Mác. Quan điểm coi thực tiễn là nền
tảng của toàn bộ đời sống xã hội, là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức,
là tiêu chuẩn của chân lý đã khắc phục đƣợc những hạn chế, sai lầm có tính
siêu hình, duy tâm, không khoa học của nhận thức luận trƣớc Mác, đồng thời
bác bỏ mọi luận điệu nhằm tách rời thực tiễn khỏi nhận thức, từ đó phủ nhận
khả năng nhận thức thế giới của con ngƣời.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức, về khả năng hiểu biết thế giới của con ngƣời đƣợc coi là
thành quả vĩ đại của nền triết học khoa học. Luận điểm đó đã khuyến khích
con ngƣời tích cực tƣ duy, tích cực tìm hiểu thực chất các hiện tƣợng để phát
hiện ra các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và vận dụng những quy
luật đó vào phục vụ chính cuộc sống con ngƣời.
Lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong quan điểm của triết học
Mác về thực tiễn và nhận thức, mà một trong những hoạt động thực tiễn quan
trọng nhất là thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nƣớc đi theo con
đƣờng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, định hƣớng xã hội chủ nghĩa và con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội là vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn rất cơ bản, vừa liên quan
đến đƣờng lối, chính sách, giải pháp, vừa liên quan tới nhận thức, ý chí cách
mạng. Trƣớc những biến động không ngừng của thực tiễn xã hội trong và
ngoài nƣớc, đặc biệt là với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những thập niên
70, 80 thế kỷ trƣớc ở nƣớc ta, sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu năm 1991 và
xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, việc nhận thức về

con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội luôn đứng trƣớc đòi hỏi cần đƣợc hoàn

2


thiện dần. Qua 10 kỳ Đại hội, Đảng ta không ngừng tổng kết thực tiễn, thẳng
thắn chỉ ra những ƣu, khuyết điểm trong công cuộc xây dựng đất nƣớc, từ đó
bổ sung, hoàn chỉnh thêm một bƣớc nhận thức về vấn đề này. Đó là biểu hiện
sinh động của việc vận dụng quan điểm có tính chất phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Thực tiễn công tác lý luận hiện nay của chúng ta cho thấy trong việc
nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta còn một số biểu hiện
sách vở, giáo điều, lý luận xa rời thực tiễn, không bám sát vào tình hình thực
tiễn đất nƣớc để xem xét toàn diện vấn đề. Vì lẽ đó việc làm rõ vai trò thực
tiễn đối với nhận thức, từ đó vận dụng vào phân tích, xây dựng, phát triển
đƣờng lối đổi mới là công việc mang tính cấp thiết.
Với những lý do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Vận dụng quan
điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào
việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sỹ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề vai
trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức đã đƣợc đề cập, đặc biệt là ở các
tác phẩm: “Luận cƣơng về Phoi-ơ-bắc” của C. Mác; “Chống Đuyrinh”, “Biện
chứng của tự nhiên” của Ăngghen; “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” của V.I. Lênin... Qua các tác phẩm đó, thực tiễn đƣợc
khẳng định là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân
lý. Và trong mối quan hệ với thực tiễn, nhận thức cũng có tác động trở lại,
góp phần biến đổi thực tiễn theo ý muốn của con ngƣời.
Ở tác phẩm “Lênin và vai trò của thực tiễn trong nhận thức” (Nxb. Sự

thật, Hà Nội, 1961), tác giả M.A. Tác-khốp-va đã chỉ ra một cách khá thuyết
phục sự đối lập giữa chủ nghĩa Ma-khơ và chủ nghĩa thực dụng với chủ nghĩa

3


Mác - Lênin trong quan điểm về thực tiễn và nhận thức. Những kẻ theo chủ
nghĩa Ma-khơ, chủ nghĩa thực dụng cho rằng thế giới là tập hợp của các cảm
giác, kinh nghiệm của con ngƣời, vì thế không thể đƣa tới chân lý khách
quan. Bọn chúng hoặc tách rời thực tiễn khỏi nhận thức, hoặc quy quá trình
nhận thức vào thực tiễn dẫn tới quan điểm sai lầm về vai trò thực tiễn đối với
nhận thức. Tác giả cũng có sự phân tích kỹ càng về thực tiễn với tƣ cách là
tiêu chuẩn chân lý. Song khi bàn đến vai trò là cơ sở, mục đích, động lực cho
nhận thức của thực tiễn thì tác giả vẫn chƣa có sự trình bày cụ thể, sâu sắc.
Sau khi công cuộc đổi mới đƣợc tiến hành ở nƣớc ta, nhiều vấn đề về lý
luận nhận thức, thực tiễn đƣợc đề cập. Đã có rất nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu khoa học đƣợc công bố, đăng tải trên các báo, tạp chí nhƣ: Báo
Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Triết học, Tạp chí Lý luận chính trị,
Tạp chí Khoa học xã hội, Tạp chí Giáo dục lý luận… Trong đó có một số
công trình đáng chú ý nhƣ: “Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của GS. Phạm Thành (Tạp chí
Cộng sản, số 15, 1998); “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta” của
GS.TS. Lê Hữu Nghĩa (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9, 2003), “Tiến trình đổi
mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đƣờng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” của PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (Tạp chí khoa học xã hội, số 3,
2003), “Nhận thức mới của Ðảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của GS. TS. Trịnh Quốc Tuấn” (Báo Nhân Dân
ra ngày 23/1/2010)… Mỗi công trình tuy nghiên cứu những khía cạnh khác
nhau nhƣng đều đi sâu khai thác vấn đề ở góc độ lý luận và thực tiễn cơ bản.

Tuy nhiên dễ dàng nhận thấy giữa việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nƣớc ta và cơ sở thực tiễn của việc nhận thức ấy đƣợc các tác giả bàn
đến một cách riêng lẻ mà chƣa quan tâm nhiều tới sự thống nhất giữa chúng

4


với tƣ cách là phƣơng pháp để nhận thức rõ hơn con đƣờng đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nƣớc ta.
Trong cuốn “Về định hƣớng xã hội chủ nghĩa và con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001), các tác giả
đã phân tích vấn đề định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta dƣới nhiều góc độ,
gắn liền con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội với công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời các tác giả cũng đã đƣa ra những nhận xét mang tính tổng
kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta trong thời gian 15 năm tiến
hành công cuộc đổi mới. Cuốn sách cũng đã dành một phần quan trọng làm rõ
hơn nữa bản chất của chủ nghĩa xã hội và sự cần thiết phải giữ vững định
hƣớng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới cùng với những thách thức không
nhỏ.
Năm 2009, với cuốn sách “Đổi mới tƣ duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam”, GS.VS. Nguyễn Duy Quý đã nhấn mạnh muốn hiểu rõ đổi mới tƣ duy
một cách khoa học cần làm rõ lý luận và phƣơng pháp luận tiếp cận khái niệm
tƣ duy trên bình diện triết học. Đây là cách giúp chúng ta tìm hiểu bản chất
của tƣ duy mà ta muốn đổi mới và để làm đƣợc điều này phải lấy thực tiễn để
làm cơ sở nghiên cứu. Đổi mới đã dẫn đến những thành công đặc biệt trên
phƣơng diện tƣ duy lý luận nhƣ: đạt đƣợc chuyển biến từ tƣ duy quản lý kinh
tế dựa trên mô hình kinh tế tập trung, kế hoạch hoá với cơ chế bao cấp và
bình quân sang tƣ duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của nhà nƣớc, theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa; Đảng ta quan niệm sự hình thành và phát triển

của chủ nghĩa xã hội phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
điều kiện thực tiễn cụ thể; Đảng ta quan tâm đến các nhận thức mới về nhân
tố con ngƣời, khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết của nhận thức về xã
hội chủ nghĩa có liên quan đến vấn đề con ngƣời…

5


Có thể thấy số lƣợng các bài viết bàn về thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, về thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhận thức của Đảng ta về con
đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội là khá đồ sộ. Song bàn đến một cách trực tiếp
vấn đề vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và sự vận dụng quan điểm này
vào việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta thì chƣa
nhiều. Tuy nhiên với những cách tiếp cận, triển khai vấn đề khác nhau, cùng
với những kết luận quan trọng, các công trình ở trên đã có tác dụng gợi mở,
định hƣớng cho công việc nghiên cứu của chúng tôi.
Xuất phát từ đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng đất nƣớc, việc
nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc hơn quan điểm nêu trên của triết học
Mác - Lênin là một công việc quan trọng, góp phần hoàn thiện hơn nữa nhận
thức lý luận về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội cũng nhƣ hiện thực hóa lý
luận đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ quan điểm triết học Mác Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, luận văn chỉ ra cơ sở của
việc nhận thức đúng đắn con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta trong
giai đoạn hiện nay. (Con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở đây đƣợc nghiên
cứu dƣới góc độ là cách thức, đƣờng lối mà Đảng ta tiến hành trong giai đoạn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện 2 nhiệm vụ:
Thứ nhất: Khái quát quan điểm của triết học Mác - Lênin về thực tiễn,
nhận thức và mối quan hệ giữa chúng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thực

tiễn đối với nhận thức.
Thứ hai: Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin để phân tích cơ
sở khoa học của việc nhận thức đúng đắn con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở

6


Việt Nam trong giai đoạn mới cũng nhƣ yêu cầu cần hoàn thiện hơn nhận
thức về chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa thực tiễn và
nhận thức, trong đó nhấn mạnh chủ yếu đến vai trò của thực tiễn trong việc
nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn là cơ sở,
mục đích, động lực của nhận thức, vì thế nhận thức về con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam phải xuất phát từ chính thực tiễn Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm của
Mác, Ăngghen, Lênin về quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức trong phạm vi
một số tác phẩm kinh điểm của Mác, Ăngghen, Lênin nhƣ: “Luận cƣơng về
Phoi-ơ-bắc”, “Hệ tƣ tƣởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Chống
Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, “Bút ký triết học”…; đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng; thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trƣớc năm 1986 và từ năm 1986 trở lại
đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nhƣ: phân tích - tổng hợp,
logic - lịch sử, khái quát hóa… để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn

Luận văn đã hệ thống hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
từng thời kỳ, có sự so sánh đối chiếu giữa các thời kỳ đó để làm nổi bật lên
bƣớc tiến trong nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử, trƣớc những biến động của thực tiễn, nhận thức

7


của Đảng (cụ thể hóa qua các Văn kiện Đại hội Đảng) lại có sự biến đổi, vận
động để trƣớc hết là phản ánh đúng đắn thực tiễn khách quan, và sau đó là tìm
ra phƣơng thức thích hợp hƣớng dẫn thực tiễn, chỉ đạo thực tiễn hƣớng theo
con đƣờng đúng đắn đã xác định.
7. Ý nghĩa luận văn
Luận văn làm rõ nội hàm các khái niệm thực tiễn và nhận thức, chỉ ra
mối quan hệ giữa chúng, trong đó thực tiễn có vai trò quyết định. Luận văn
còn chỉ ra tầm quan trọng của việc tổng kết, nghiên cứu thực tiễn, lý luận hóa
thực tiễn và sự vận dụng, phát triển lý luận nhận thức trong điều kiện thực
tiễn một cách sáng tạo, đó là thực tiễn hóa lý luận.
Luận văn cũng đã làm rõ sự vận dụng của Đảng về quan điểm thực tiễn,
nhận thức của triết học Mác - Lênin vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn
đang đặt ra, đồng thời thấy đƣợc sự hoàn thiện dần trong nhận thức về con
đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa
đang diễn ra gay gắt hiện nay.
Ở một mức độ nhất định, luận văn có thể giúp ích cho những ai quan
tâm đến quá trình phát triển nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam của Đảng ta.
8. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm hai chƣơng, 5 tiết.


8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
1.1. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
1.1.1. Thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của con ngƣời
Thực tiễn là một phạm trù cơ bản, nền tảng của lý luận nhận thức mácxít nói riêng và của toàn bộ triết học Mác - Lênin nói chung. Việc nhìn nhận
đúng đắn khái niệm thực tiễn và vai trò của thực tiễn là một vấn đề quan trọng
đối với hoạt động nhận thức của con ngƣời.
a. Quan niệm của triết học trước Mác về thực tiễn
Có thể thấy rằng một trong những giá trị khoa học đích thực của
phƣơng pháp luận duy vật trƣớc Mác dù là siêu hình hay biện chứng đó là đã
sử dụng phƣơng pháp đặc trƣng riêng của mình để giải thích và nhận thức thế
giới. Những nhà duy vật trƣớc Mác có công trong việc phát triển thế giới quan
duy vật, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể
biết. Song, do hạn chế về mặt lịch sử và khoa học, thiếu sót căn bản nhất
trong tất cả các phƣơng pháp luận trƣớc Mác là chỉ dừng lại ở việc nhận thức
và giải thích thế giới, không thấy đƣợc vai trò của hoạt động thực tiễn đối với
nhận thức. Chủ nghĩa duy vật trƣớc Mác cũng chỉ mang tính trực quan, siêu
hình và máy móc. Mác đã chỉ ra “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa
duy vật – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc – là sự vật, hiện thực, cái
cảm giác đƣợc, chỉ đƣợc nhận thức dƣới hình thức khách thể hay hình thức
trực quan chứ không đƣợc nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là

9



thực tiễn” [55, tr. 9]. Có thể coi đây là sự khác nhau về nguyên tắc giữa chủ
nghĩa duy vật cũ, là sự đối lập giữa tính chất thực tiễn và tính trực quan của
toàn bộ hoạt động của con ngƣời.
Có những nhà triết học duy tâm tuy đã thấy đƣợc mặt năng động, sáng
tạo trong hoạt động của con ngƣời nhƣng cũng chỉ hiểu thực tiễn nhƣ là hoạt
động tinh thần chứ không phải hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm
tính của con ngƣời, “thành thử mặt năng động đƣợc chủ nghĩa duy tâm phát
triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật, nhƣng chỉ phát triển một cách trừu tƣợng
vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác
đƣợc, đúng nhƣ hoạt động hiện thực, cảm giác đƣợc” [55, tr. 9]. Cho tới đỉnh
cao nhất trong cách tiếp cận phạm trù thực tiễn của triết học trƣớc Mác là
phép biện chứng của Hêghen thì thực tiễn cũng chỉ là phƣơng tiện giúp cho
việc “tha hóa” ý niệm tuyệt đối, thực hiện một bƣớc trong quá trình tự hoàn
thiện của ý niệm tuyệt đối.
Lý luận của Hêghen đã chỉ ra rằng: bằng thực tiễn, chủ thể “tự nhân đôi
mình”, đối tƣợng hóa bản thân mình trong quan hệ với bên ngoài. Theo ông,
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con ngƣời chính là công cụ để
“tinh thần tuyệt đối” với tƣ cách là sự thống nhất giữa tƣ duy và tồn tại, tinh
thần và vật chất, chủ thể và khách thể nhận thức và trở về với chính bản thân
mình. Thực tiễn theo Hêghen chỉ dừng lại ở mức độ “ý niệm”, ở hoạt động tƣ
tƣởng, thực tiễn chỉ là một “suy lý logic, một hình tƣợng logic” [67, tr. 234].
Trong việc xây dựng lý luận nhận thức, Hêghen cho rằng “Thực tiễn là hoạt
động có ý chí của tƣ tƣởng”, là ý niệm tuyệt đối tự tạo mục đích cho mình,
với tƣ cách là cái chủ quan nó lại “có tiền đề là một tồn tại tự nó; nó là khuynh
hướng tự mình hiện thực mình, nó là cái mục đích muốn cho mình, qua bản
thân mình, một tính khách quan trong thế giới khách quan và muốn thực hiện
mình” [67, tr. 228-229]. Nhƣ vậy thực tiễn theo Hêghen là sự thống nhất giữa

10



tính khách quan và tính chủ quan, bằng thực tiễn, chủ thể đối tƣợng hóa mình
trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Và vì thế, “thực tiễn cao hơn nhận thức
(lý luận) vì nó có ƣu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện
thực trực tiếp” [67, tr. 230].
Quan niệm của Hêghen về thực tiễn mới chỉ giới hạn thực tiễn ở tính
mục đích của ý niệm tuyệt đối, ở hoạt động lý luận trừu tƣợng của con ngƣời.
Con ngƣời nhận thức đƣợc thế giới nhƣng không phải là thế giới hiện thực mà
là thế giới của “ý niệm tuyệt đối”. Song với quan niệm này Hêghen cũng đã
thấy đƣợc vai trò của thực tiễn nhƣ là một mắt khâu của quá trình nhận thức.
Các nhà triết học duy tâm mà tiêu biểu là Hêghen nhìn chung đã thấy
đƣợc mặt tích cực, sáng tạo của thực tiễn nhƣng mới chỉ hiểu thực tiễn là hoạt
động tinh thần chứ chƣa thấy đƣợc tính khách quan của hiện thực, tính độc
lập có mục đích trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy tâm là quan điểm của
các nhà duy vật cũ, song chủ nghĩa duy vật cũ cũng chỉ nhìn thấy vai trò của
cái khách thể đối với nhận thức, không thấy đƣợc vai trò của hoạt động cảm
giác đƣợc của con ngƣời là thực tiễn đối với nhận thức.
Chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc – nhà duy vật triệt để nhất trƣớc Mác
– không thể vƣơn tới chủ nghĩa duy vật lịch sử đƣợc bởi Phoi-ơ-bắc muốn
xem xét những khách thể “cảm giác đƣợc” thực sự khác biệt với khách thể
của tƣ tƣởng, nhƣng ông không xem xét hoạt động của con ngƣời nhƣ là hoạt
động khách quan. Đối với ông, những gì không liên quan tới tƣ tƣởng là
khách quan, do đó ông không thấy đƣợc hoạt động tƣ duy của con ngƣời cũng
là hoạt động khách quan – hoạt động cải tạo hiện thực. Mác chỉ ra việc Phoiơ-bắc quá đề cao hoạt động lý luận, cho rằng chỉ có hoạt động lý luận là hoạt
động đích thực của con ngƣời dẫn tới nhận thức sai lầm về thực tiễn, coi nhẹ
vai trò của thực tiễn, “thực tiễn chỉ đƣợc ông xem xét và xác định trong hình

11



thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi. Vì vậy, ông không hiểu đƣợc
ý nghĩa của hoạt động “cách mạng”, của hoạt động “thực tiễn - phê phán” ”
[55, tr. 9].
Tuy nhiên, cho dù các nhà duy vật cũ đã thừa nhận sự tồn tại khách
quan, độc lập của thế giới vật chất với ý thức của con ngƣời nhƣng họ chỉ
dừng lại ở sự hiểu biết về thế giới đó nhƣ một sự tồn tại thuần túy, không chịu
sự tác động trở lại của con ngƣời, không thấy đƣợc tự nhiên là sản phẩm hoạt
động sáng tạo của con ngƣời khi “thế giới không thỏa mãn con ngƣời, và con
ngƣời quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” [66, tr. 229].
Đó là hành động sáng tạo, có ý thức và tự giác, thông qua đó con ngƣời tự cải
biến bản thân mình. Con ngƣời không chỉ là một thực thể vật chất mà hơn thế
còn là thực thể xã hội năng động, sáng tạo và không ngừng hoàn thiện, không
chỉ thích nghi đƣợc với cuộc sống hiện thực mà luôn có ý thức cải tạo, nắm
bắt hiện thực. Do đó, qua hoạt động thực tiễn, con ngƣời ngày càng phát triển
hơn về nhận thức. Chủ nghĩa duy vật trƣớc Mác đã không thấy đƣợc ý nghĩa
của hoạt động thực tiễn đối với con ngƣời, không thấy đƣợc tính tích cực chủ
động cải tạo thế giới của con ngƣời, do đó đã phủ nhận vai trò hết sức quan
trọng của thực tiễn trong nhận thức, cải tạo thế giới và rơi vào quan điểm duy
tâm về lịch sử.
Có thể thấy trong phƣơng pháp luận và nhận thức luận trƣớc Mác, chức
năng thực tiễn – cải tạo hiện thực – đã bị lãng quên. Mác khẳng định “các nhà
triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách, song vấn đề là cải tạo thế
giới” [55, tr. 12]. Luận điểm này của Mác đã nói lên thực chất của bƣớc tiến
mới về chất trong cách hiểu chức năng thực tiễn – cải tạo thế giới, điều mà
các nhà triết học trƣớc đó đã không thể vƣơn tới.
b. Quan niệm của triết học Mác - L ênin về thực tiễn

12



Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót
trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trƣớc đó và cùng với
Ăngghen xây dựng nên một hệ thống quan điểm đúng đắn, khoa học về thực
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phủ định quan điểm về thực tiễn của
các trào lƣu triết học trƣớc đó nhƣng không phải là sự phủ định sạch trơn. Đó
là do các nhà duy vật biện chứng đã lấy vấn đề “con ngƣời hiện thực hoạt
động” làm xuất phát điểm khi nghiên cứu lịch sử - xã hội, có thể coi xuất phát
điểm này là trung tâm cho mọi vấn đề khác. Mác đã tìm hiểu tác động của con
ngƣời đối với hiện thực để giải thích hiện thực. Mác khẳng định: “những tiền
đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là
giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà ngƣời ta chỉ có thể bỏ qua trong
trí tƣởng tƣợng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn
cũng nhƣ những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Nhƣ vậy, những
tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm đƣợc bằng con đƣờng kinh nghiệm thuần
túy” [55, tr. 28-29]. Con ngƣời hiện thực đƣợc bàn đến ở đây không phải là
con ngƣời chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tƣởng tƣợng, biểu
tƣợng của ngƣời khác mà là con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt với những hoạt
động thực tiễn của họ. Luận điểm xuất phát của Mác thực sự là một luận điểm
có tính chất đột phá, mang đến một cách tiếp cận khoa học về vấn đề thực
tiễn, loại bỏ những quan điểm trực quan, duy tâm về lịch sử, tạo ra cơ sở hiện
thực cho quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội của triết học Mác.
Nếu nhƣ “phái Ma-khơ” ở nƣớc Nga đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái
giúp mỗi ngƣời phân biệt đƣợc ảo tƣởng và hiện thực, đặt ra ngoài giới hạn
của khoa học, ngoài giới hạn của lý luận về nhận thức thì ngƣợc lại Mác,
Ăngghen và Lênin cho rằng thực tiễn của con ngƣời chứng minh sự đúng đắn


13


của lý luận duy vật về nhận thức và hai ông gọi những ý định không dựa vào
thực tiễn để giải quyết vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức là “triết học kinh
viện” và là “những điều quái tƣởng trong triết học”. “Chính nơi mà tƣ biện
dừng lại – chính trong đời sống hiện thực – là nơi bắt đầu khoa học thực sự,
thực chứng sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát
triển của con ngƣời” [54, tr. 39].
Nguyên tắc thực tiễn của Mác với tƣ cách là cơ sở lý luận để chỉ đạo
hoạt động thực tiễn cách mạng không phải đã đƣợc hoàn chỉnh ngay từ đầu
mà đƣợc hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời của các nhà tƣ tƣởng
xây dựng nên học thuyết đó. Những luận điểm mà Mác, Ăngghen, Lênin đề ra
không phải từ sự suy tƣ tƣ biện mà đƣợc rút ra từ sự kế thừa, phát huy những
tinh hoa lý luận của tất cả các học thuyết triết học trƣớc đó và từ sự khái quát
những thành tựu khoa học mới. Với việc đƣa phạm trù thực tiễn vào trong lý
luận của mình, Mác và Ăngghen đã tạo nên một bƣớc chuyển biến cách mạng
trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Triết học Mác - Lênin quan niệm “Thực tiễn là toàn bộ những hoạt
động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội” [3, tr. 261]. Hoạt động thực tiễn trƣớc hết là hoạt
động vật chất, mà hình thức cơ bản nhất là sản xuất vật chất, vì đời sống xã
hội, sự sống con ngƣời là do sản xuất quyết định.
Hoạt động sản xuất vật chất của con ngƣời là dạng hoạt động cơ bản
bởi nó là cơ sở cho sự tồn tại xã hội và phân biệt con ngƣời với tƣ cách chủ
thể xã hội với con vật. Bản chất của hoạt động này đƣợc thể hiện ra là sự tác
động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể của hoạt động thực tiễn là con
ngƣời (tồn tại ở những cấp độ khác nhau) thông qua việc sử dụng công cụ,
phƣơng tiện lao động để biến đổi khách thể nhằm đạt những mục đích nhất
định, đồng thời chủ thể cũng tự biến đổi cả bản thân mình. Con ngƣời với tƣ


14


cách là chủ thể của hoạt động thực tiễn luôn có sự tác động một cách tự giác,
sáng tạo lên thế giới khách quan – khách thể của hoạt động con ngƣời. Theo
đó, khách thể của hoạt động thực tiễn là tất cả những gì con ngƣời hƣớng sự
tác động vào nhằm cải tạo theo yêu cầu của mình. Và nhƣ vậy, triết học Mác Lênin không chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
Quan hệ giữa con ngƣời với thế giới khách quan là mối quan hệ vật chất, quan
hệ thực tiễn. Con ngƣời tồn tại và không ngừng phát triển là do xác lập đƣợc
mối quan hệ mật thiết với thế giới. Đó là mối quan hệ vật chất và là một quá
trình biện chứng. Thông qua hoạt động thực tiễn, con ngƣời chủ thể hoá
khách thể. Con ngƣời không chỉ tiêu dùng sản phẩm có sẵn trong tự nhiên mà
còn biết sử dụng cả những công cụ lao động do chính mình tạo ra để có đƣợc
sản phẩm mới, qua đó chủ thể làm giàu thêm năng lực của mình. Song song
với quá trình đó là quá trình khách thể hóa chủ thể. Qua việc sử dụng công cụ,
phƣơng tiện lao động, con ngƣời thực hiện phƣơng thức sống đặc thù của
mình. Năng lực vật chất, năng lực tinh thần của con ngƣời đƣợc chuyển vào
sản phẩm, con ngƣời luôn thấy mình ngay trong đối tƣợng mình chinh phục
và tác động tới sản phẩm nhƣ đối xử với chính mình. Do đó “họ là nhƣ thế
nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng nhƣ
với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là nhƣ thế nào, điều đó phụ thuộc
vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ” [55, tr. 30].
Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động thực tiễn là
dạng quan hệ có tính phổ biến song đó cũng là quan hệ đặc biệt – quan hệ vật
chất và ý thức. Nó đòi hỏi con ngƣời phải hoạt động không ngừng và không
ngừng cải biến giới tự nhiên bởi chỉ qua đó con ngƣời mới có thể thiết lập
đƣợc vị trí của mình trong thế giới, buộc thế giới vật chất bộc lộ ngày càng
nhiều hơn thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến, tất yếu, những quy luật,


15


bản chất,… để con ngƣời ngày càng có thể đi sâu, khám phá và nhận thức sâu
sắc hơn về thế giới.
Song thực tiễn không chỉ dừng lại là dạng hoạt động vật chất giản đơn,
thụ động mà hơn thế còn có tính mục đích. Nếu nhƣ con vật chỉ hoạt động
theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài thì
con ngƣời nhờ vào thực tiễn nhƣ là hoạt động có mục đích, có tính xã hội, mà
cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động,
tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Có thể nói lao động và ngôn ngữ
là hai động lực cơ bản nhất giúp cho con ngƣời thực sự thoát ra khỏi thế giới
loài vật.
Trong bài viết “Tác động của lao động trong quá trình chuyển biến từ
vƣợn thành ngƣời”, Ăngghen đã chỉ ra vai trò của lao động là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài ngƣời và nhƣ thế đến một mức và trên
một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói “Lao động đã sáng tạo ra chính bản
thân con ngƣời”. “Con ngƣời không chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự
nhiên có tính chất người”, nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do
đó là thực thể loài” [56, tr. 234]. Con ngƣời không bằng lòng với những gì tự
nhiên ban phát, có sẵn mà tiếp tục lao động sản xuất ra của cải vật chất nuôi
sống mình qua việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Đó là cơ sở giúp
cho sự tồn tại của bản thân con ngƣời, là yêu cầu tất yếu của cuộc sống, đồng
thời là động lực cho sự đấu tranh sinh tồn.
Nhƣ vậy, nếu không có hoạt động thực tiễn mà trƣớc hết là sản xuất vật
chất thì con ngƣời và xã hội loài ngƣời không thể tồn tại và phát triển đƣợc.
Thực tiễn được xem như phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội,
là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế
giới. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, trình độ và các hình thức
hoạt động thực tiễn có thay đổi nhƣng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động


16


cơ bản và phổ biến của xã hội loài ngƣời, nó chỉ có thể tiến hành trong các
quan hệ xã hội, bị các quan hệ xã hội chi phối. Nhƣng mặt khác thực tiễn
cũng có quá trình vận động và phát triển riêng của nó, trình độ phát triển của
thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con
ngƣời. Sự phát triển nội tại của thực tiễn ngày càng khẳng định vai trò, vị thế
của con ngƣời trong việc chinh phục tự nhiên, cải biến chính bản thân mình.
Có thể kết luận rằng thực tiễn xét về mặt nội dung cũng nhƣ phƣơng
thức thực hiện mang tính lịch sử - xã hội. Hoạt động con ngƣời không phải là
cái bất di bất dịch mà luôn thay đổi, trải qua những giai đoạn khác nhau theo
hƣớng hoàn thiện dần. Mỗi sự kiện, mỗi bƣớc tiến của thực tiễn tạo tính lịch
sử của chính nó. Trong khi đó tính xã hội của thực tiễn biểu hiện ở hai mặt:
thứ nhất, đó là sự liên hệ giữa con ngƣời với con ngƣời không phải trong hoạt
động nói chung mà trong phƣơng tiện họ hoạt động; thứ hai, hoạt động thực
tiễn đƣợc tiến hành trong những tổ chức xã hội, những chế độ xã hội nhất
định, do đó hoạt động của cá nhân tách ra khỏi xã hội không đƣợc coi là hoạt
động thực tiễn. “Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả
những sự thần bí đang đƣa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều đƣợc giải đáp
một cách hợp lý trong thực tiễn của con ngƣời và trong sự hiểu biết thực tiễn
ấy” [55, tr. 12].
Thực tiễn có nhiều dạng hoạt động và bất kỳ một dạng hoạt động nào
cũng bao gồm những yếu tố nhƣ nhu cầu, lợi ích, mục đích, phƣơng tiện và
kết quả. Chúng có sự liên hệ với nhau, tác động hữu cơ và quy định lẫn nhau
mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra đƣợc.
Hoạt động thực tiễn có những dạng cơ bản sau:
Dạng thứ nhất là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng cơ bản nhất,
nguyên thủy, sơ khai nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển toàn xã hội

loài ngƣời, đồng thời quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn. Từ

17


hoạt động sản xuất vật chất, tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của
con ngƣời hình thành và đƣợc coi là cơ sở nền tảng cơ bản giúp con ngƣời
thoát khỏi giới hạn của động vật, thoát khỏi những gì thuộc về bản năng
không mang tính ngƣời. “Bản thân con ngƣời bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con ngƣời sản xuất ra những tƣ liệu sinh hoạt của mình – đó
là một bƣớc tiến do tổ chức cơ thể của con ngƣời quy định. Sản xuất ra những
tƣ liệu sinh hoạt của mình, nhƣ thế con ngƣời đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình” [55, tr. 29]. Rõ ràng hoạt động sản xuất vật chất
là hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản nhất mà thông qua đó con ngƣời biến
đổi không những sự tồn tại hiện thực của mình mà cả tƣ duy và sản phẩm của
tƣ duy.
Dạng cơ bản thứ hai của thực tiễn là dạng hoạt động chính trị - xã hội
nhằm biến đổi quan hệ xã hội, chế độ xã hội thông qua hàng loạt các hoạt
động khác nhƣ: đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh
cho tự do, bình đẳng, đấu tranh vì hòa bình… Hoạt động chính trị - xã hội ở
một góc độ nào đó cũng đƣợc xem là hoạt động cách mạng. Hoạt động này
thuộc về những lực lƣợng xã hội, những giai cấp, tập đoàn xã hội nhằm mục
đích xóa bỏ chế độ xã hội nào già cỗi, không còn phù hợp với sự phát triển
của xã hội đƣơng đại để thay thế vào đó bằng một chế độ xã hội mới, tiên
tiến, phù hợp và thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội. Cách mạng xã hội là sự
cải biến căn bản chế độ xã hội, là sự thay thế chế độ xã hội này bởi chế độ xã
hội khác tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển của lịch sử.
Tiêu biểu cho cách mạng xã hội thời nay là cách mạng xã hội chủ nghĩa
– một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tƣ bản chủ nghĩa lỗi thời bằng
chế độ xã hội chủ nghĩa khi những điều kiện vật chất và tinh thần cho sự thay

thế đó đã có ở mức nhất định và khi đã hình thành tình thế cách mạng. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,

18


toàn diện và lâu dài, nó chỉ kết thúc khi xã hội mới đƣợc xây dựng xong, phát
triển trên cơ sở của chính nó. Đây là vấn đề thực tiễn nóng hổi đang đặt ra cho
giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay – thời đại mà xã hội xã hội chủ
nghĩa đang dần đi tới thủ tiêu xã hội tƣ bản chủ nghĩa – một chế độ xã hội
không còn phù hợp và là rào cản đối với sự tiến bộ xã hội loài ngƣời. Cuộc
cách mạng này tuy kéo dài và hết sức cam go nhƣng thực tiễn chứng minh
rằng thắng lợi ắt sẽ thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
toàn thế giới.
Bên cạnh đó cùng với sự ra đời và phát triển của khoa học, dạng cơ bản
khác của thực tiễn xuất hiện đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng
hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của xã hội,
đặc biệt trong thời kỳ cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại ngày nay.
Ngƣời ta liên tiếp đƣợc chứng kiến sự thành công của vật lý hạt nhân, công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin… Những công nghệ hiện đại đó đang dần
thay thế con ngƣời trong hoạt động sản xuất, giảm bớt thời gian lao động chân
tay của con ngƣời, làm biến đổi về chất lực lƣợng sản xuất, biến khoa học kỹ
thuật thành nhân tố chủ đạo của sự phát triển nền sản xuất xã hội, thành lực
lƣợng sản xuất trực tiếp. Cách mạng khoa học - kỹ thuật tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội, đòi hỏi chúng ta ngày càng phải nâng cao trình độ
chuyên môn, trình độ văn hoá, tổ chức, làm thay đổi thói quen, tập tục lỗi
thời; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Thế kỷ XXI
đƣợc đánh giá là thế kỷ của khoa học và công nghệ tiên tiến.
Trong ba hình thức của hoạt động thực tiễn kể trên thì hoạt động sản
xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản nhất. Nó quyết định sự tồn tại,

phát triển của hai hình thức sau. Song giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ và
đều là những dạng hoạt động cơ bản và cần thiết cho sự phát triển xã hội.

19


Nhƣ vậy thực tiễn theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thực sự là
dạng hoạt động cơ bản của con ngƣời, là phƣơng thức tồn tại của con ngƣời
và xã hội loài ngƣời, qua thực tiễn có thể nhìn nhận đƣợc mối quan hệ của
con ngƣời và thế giới. Khi cuộc sống ngày càng phát triển, ngƣời ta lại càng
phải công nhận vai trò hết sức quan trọng của thực tiễn đối với nhận thức.
Thực tiễn là cơ sở, nền tảng nhận thức của con ngƣời.
1.1.2. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con
ngƣời
Việc tìm hiểu bản chất quá trình nhận thức là một vấn đề khá phức tạp,
đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau xung quanh vấn đề này.
Trong tác phẩm “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức”, Ăngghen khẳng định rằng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
là những trào lƣu triết học cơ bản và “vấn đề tối cao của bất cứ triết học nào
là vấn đề mối quan hệ giữa tƣ duy và tồn tại, giữa tinh thần và giới tự nhiên”.
Ngoài ra vấn đề cơ bản của triết học còn một mặt khác nữa tức là tƣ tƣởng của
chúng ta về cái thế giới xung quanh chúng ta có quan hệ với bản thân thế giới
đó nhƣ thế nào? Tƣ duy của chúng ta có khả năng nhận thức thế giới của con
ngƣời hay không là việc mà không phải bất cứ trƣờng phái triết học nào cũng
thừa nhận. Các quan điểm triết học khác nhau có những câu trả lời khác nhau
về vấn đề nêu trên.
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về nhận thức
Các nhà triết học duy tâm khách quan mà tiêu biểu là Hêghen mặc dù
không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới song coi nhận thức cũng không
phải là sự phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ là sự tự nhận thức của ý

niệm, tƣ tƣởng tồn tại đâu đó ngoài con ngƣời. Hêghen coi “thế giới hiện thực
là sự thể hiện của một “ý niệm tuyệt đối” tồn tại vĩnh viễn, hơn nữa khi tinh
thần của con ngƣời nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực thì cũng nhận thức

20


đƣợc, trong thế giới hiện thực và thông qua thế giới hiện thực, cái “ý niệm
tuyệt đối ấy” ” [27, tr. 113].
Cùng chung tƣ tƣởng với các nhà duy tâm khách quan, các nhà duy tâm
chủ quan cho rằng mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp những cảm giác của
con ngƣời. Do đó nhận thức chẳng qua là sự nhận thức các cảm giác, biểu
tƣợng của con ngƣời. Sau khi biết đƣợc rằng theo Cantơ “vật tự nó” là cái
không thể nhận thức đƣợc, Ăngghen đã đảo ngƣợc cái định lý ấy và kết luận
rằng tất cả những cái chƣa nhận thức đƣợc đều là “vật tự nó”. Ăngghen đã nói
rõ ràng, dứt khoát rằng ông bác bỏ cái vật tự nó không thể nắm bắt đƣợc của
Cantơ. Đó là quan điểm hết sức duy vật.
Bên cạnh quan điểm duy tâm khi xem xét bản chất nhận thức còn tồn
tại quan điểm của những ngƣời theo thuyết hoài nghi. Họ nghi ngờ tính chính
xác của tri thức và biến sự nghi ngờ đó thành một nguyên tắc nhận thức, hơn
thế còn chuyển thành nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài.
Những ngƣời theo thuyết không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới của con ngƣời. Họ cho rằng lý trí của con ngƣời có tính chất hạn chế và
ngoài giới hạn của cảm giác ra, con ngƣời không thể biết thêm gì nữa. Những
quan điểm sai lầm của thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết đã bị bác bỏ
bởi thực tiễn và sự phát triển của nhận thức con ngƣời.
Những nhà triết học duy vật trƣớc Mác với quan điểm tiến bộ hơn đã
thừa nhận con ngƣời có khả năng nhận thức thế giới và coi nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con ngƣời. Đại biểu xuất sắc phải
kể đến đó là Phoi-ơ-bắc. Chủ nghĩa duy vật của ông cũng nhƣ chủ nghĩa duy

vật thế kỷ XVII-XVIII đều thừa nhận có những “khách thể tự nó” tồn tại ở
ngoài ý thức của chúng ta. Cái “vật tự nó” của Phoi-ơ-bắc hoàn toàn trái
ngƣợc với cái “vật tự nó” của Cantơ. “Đối với Phoi-ơ-bắc thì “vật tự nó” là
một “sự trừu tƣợng có tính thực tại”, tức là thế giới tồn tại ở ngoài chúng ta,

21


hoàn toàn có thể nhận thức đƣợc và về nguyên tắc không có gì khác với hiện
tƣợng” cả” [27, tr. 137]. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính siêu hình, máy móc và
trực quan nên chủ nghĩa duy vật trƣớc Mác đã không giải quyết đƣợc một
cách khoa học những vấn đề lý luận nhận thức, đặc biệt chƣa thấy đƣợc vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức đƣợc thực hiện.
b. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về nhận thức
Triết học Mác - Lênin quan niệm “Nhận thức là quá trình phản ánh
tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở
thực tiễn” [4, tr. 260]. Đó là quá trình phản ánh dựa trên cơ sở thực tiễn lịch
sử - xã hội. Nó diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, nhận thức không
phải là cái có sẵn, bất di bất dịch mà là quá trình phản ánh thế giới khách quan
vào bộ óc con ngƣời, theo đó nhận thức của con ngƣời đi từ không biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, “từ hiện tƣợng đến bản chất, từ
bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn” [67, tr. 240].
Quan niệm về nhận thức đƣợc Mác, Ăngghen và Lênin xây dựng dựa
trên 4 nguyên tắc:
Một là, chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận thế giới vật chất tồn tại
khách quan, ở ngoài con ngƣời, độc lập với cảm giác, tƣ duy, ý thức con
ngƣời. Do yêu cầu của hoạt động thực tiễn đòi hỏi con ngƣời phải có những
hiểu biết về các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới ấy. Và cũng từ hoạt động
thực tiễn, thông qua thực tiễn mà con ngƣời mới có đƣợc những tri thức cụ

thể về sự vật, hiện tƣợng đó. Hoạt động thực tiễn là hoạt động có ý thức của
con ngƣời cải biến hiện thực khách quan, có sự hƣớng dẫn của tri thức con
ngƣời, và tri thức chỉ có đƣợc khi trải qua quá trình nhận thức. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng khẳng định: thế giới tồn tại khách quan và con ngƣời có thể

22


nhận thức đƣợc thế giới, đó là quá trình con ngƣời phản ánh một cách biện
chứng hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử xã hội.
Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con ngƣời. Theo
nguyên tắc này thì con ngƣời có thể nhận biết đƣợc mọi sự vật, hiện tƣợng,
không có và không thể có đối tƣợng nào mà con ngƣời không thể biết đƣợc,
chỉ có những cái hiện con ngƣời chƣa biết nhƣng với sự phát triển của khoa
học và thực tiễn trong tƣơng lai con ngƣời rồi sẽ biết đƣợc. Quan niệm cho
rằng toàn bộ những quá trình của tự nhiên đều nằm trong mối liên hệ có hệ
thống sẽ thúc đẩy khoa học phải chỉ rõ mối liên hệ ấy ở khắp mọi nơi, trong
những bộ phận cũng nhƣ trong toàn bộ. Nhƣng trình bày mối liên hệ ấy một
cách triệt để, khoa học là việc không thể làm đƣợc đối với chúng ta cũng nhƣ
đối với mọi thời đại. Nếu nhƣ vào một giai đoạn phát triển nào đó của nhân
loại ngƣời ta xây dựng đƣợc một hệ thống hoàn thiện cuối cùng nhƣ vậy của
tất cả những mối liên hệ thế giới về vật thể cũng nhƣ về tinh thần và về lịch
sử thì nhƣ vậy có nghĩa là lĩnh vực nhận thức của nhân loại đã đạt tới giới hạn
cuối cùng của nó và sự phát triển hơn nữa của lịch sử sẽ dừng lại từ khi xã hội
đƣợc tổ chức phù hợp với hệ thống đó – và đó là điều phi lý. Nhƣ vậy con
ngƣời đứng trƣớc một mâu thuẫn: “một mặt, con ngƣời phải nhận thức một
cách cặn kẽ hệ thống thế giới trong toàn bộ mối liên hệ của nó, nhƣng mặt
khác, bản tính của con ngƣời và bản tính của hệ thống thế giới lại không bao
giờ cho phép con ngƣời có thể giải quyết hoàn toàn nhiệm vụ đó” [55, tr. 57].
Tuy nhiên mâu thuẫn này không phải chỉ nằm trong bản tính của hai nhân tố:

thế giới vật chất và nhận thức của con ngƣời, nó còn là đòn bẩy chủ yếu của
toàn bộ sự tiến bộ tinh thần và đƣợc giải quyết hàng ngày, thƣờng xuyên
trong quá trình phát triển tiến lên không ngừng của nhân loại.
Với khẳng định ở trên, lý luận nhận thức mác-xít đề cao sức mạnh của
con ngƣời trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Nhờ nhận thức con ngƣời

23


×