Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.05 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------

NGUYỄN THỊ THU THỦY

VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM.

Chuyên ngành
Mã số

: Triết học
: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐINH CẢNH NHẠC

HÀ NỘI - 2008


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn các thầy cô giáo trong Khoa Triết học – Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn cũng như toàn thể các thầy cô giáo khác ngoài khoa đã dạy dỗ và
dìu dắt nhiệt tình trong suốt thời gian em học tập, nghiên cứu tại Khoa, tại


Trường.
Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Đinh Cảnh Nhạc đã trực tiếp
hướng dẫn tận tình, chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thành bản
Luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn rằng, những hạn chế và
thiếu sót trong Luận văn là điều không tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để bản Luận
văn này của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2008
Học viên

Nguyễn Thị Thu Thủy

1


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNCS

: Chủ nghĩa cộng sản

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

LLSX

: Lực lượng sản xuất

QHSX

: Quan hệ sản xuất

CNH

: Công nghiệp hóa

HĐH

: Hiện đại hóa

BCH

: Ban chấp hành

TW


: Trung ương

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng ghi: “Trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn chúng ta chưa thực sự nắm vững và vận dụng đúng quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất” [24, tr 23]. Một trong
những bài học lớn cũng đã được Đại hội rút ra là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát
từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan” [24, tr 30]. Kết luận
này được rút ra từ kết quả tổng kết thực tiễn lãnh đạo xây dựng CNXH thời kỳ
trước đổi mới của Đảng ta.
Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang diễn ra trong những điều kiện mới
chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Chúng ta đang thực sự phải nhận thức và giải
quyết nhiều vấn đề phức tạp nhất trong lịch sử không chỉ ở nước ta, mà mang tính
quốc tế của quá trình xây dựng CNXH.
Thật vậy, đường lối phát triển kinh tế ở nước ta trước hết phải xuất phát từ
hiện thực đất nước, thời đại và nguyện vọng thiết tha của đông đảo nhân dân,
đồng thời phải dựa trên những quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử, trong
đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX làm nền tảng, từ
những kinh nghiệm thành công, chưa thành công của chúng ta và thế giới.
Xét từ phương diện thứ nhất, hiện thực khách quan mà chúng ta lấy đó làm
điểm xuất phát để đề ra đường lối đổi mới kinh tế tự nó đã hết sức biện chứng, đầy
mâu thuẫn. Kinh tế thị trường bản thân nó bên cạnh mặt tích cực lại đã bao hàm
nhiều hạn chế với tính chất tiêu cực do quan hệ kinh tế tạo ra. Chúng ta chủ trương
kiến tạo nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là cả một vấn đề mới mẻ
và chưa từng có tiền lệ. Phải làm thế nào để phát triển nền kinh tế thị trường một

cách nhanh nhất nhưng lại không để yếu tố thị trường làm chệch định hướng
CNXH? Ngược lại, phải hoạch định đường lối như thế nào để không lặp lại những
sai lầm cũ về cơ chế tập trung, quan liêu và bao cấp cản trở phát triển của nền kinh
tế thị trường?

3


Hơn 20 năm đổi mới cũng đồng nghĩa với việc từng bước xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta đã có nhiều thành tựu đáng kể:
kinh tế có bước tăng trưởng khá, yếu tố thị trường của nền kinh tế ngày càng rõ
hơn; vấn đề sở hữu ngày càng đi vào chiều sâu; năng lực quản lý nền kinh tế tỏ ra
năng động và hiệu quả hơn; phân phối sản phẩm cũng như nhiều quan hệ xã hội
khác hợp lý hơn; năng lực của các thành phần kinh tế đang phát huy hiệu quả; nội
lực nền kinh tế và kinh tế đối ngoại diễn ra rất năng động; nhiều nước trên thế giới
đã và sẽ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường… Nhưng mặt khác, như
Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đã nhận định nguy cơ chệch hướng XHCN vẫn
tiềm ẩn và diễn biến phức tạp. Nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng lại
đang rơi vào giai đoạn khó khăn của sự suy thoái kinh tế toàn cầu; hàng ngàn
doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngay cả một số tập đoàn kinh tế có nguy cơ phá sản
trong tương lai gần; tình trạng gia tăng thất nghiệp, bỏ việc của hàng loạt công
chức và lao động là hiện tượng chưa từng có kể từ ngày đổi mới cho đến nay; đời
sống của nhân dân đang nghèo đi trông thấy và có nhiều diễn biến phức tạp với
tâm tư lo lắng và niềm tin suy giảm. Sự nghiệp phát triển kinh tế càng triển khai
bao nhiêu, chúng ta càng phải giải quyết nhiều vấn đề mới và phức tạp bấy nhiêu.
Phát triển nền kinh tế thị trường nhưng phải định hướng XHCN, trong đó không
chỉ là sự khác nhau, ngược lại không loại trừ mâu thuẫn, đối lập. Mục tiêu của
cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế mà chúng ta đang tiến hành là cơ sở bảo
đảm thực hiện trong thực tế lý tưởng: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” nhưng trên thực tế, nước ta vẫn thuộc nhóm quốc gia nghèo

nhất thế giới; các yếu tố của LLSX, đặc biệt là người lao động phát triển chậm; sự
nghiệp CNH nhằm phát triển LLSX đang gặp nhiều vấn đề, mục tiêu hoàn thành
CNH, HĐH vào năm 2020 đang có nguy cơ khó hoàn thành. Trong khi xem nội
lực là chính thì chất lượng đào tạo con người đang xuống cấp hết sức báo động,
các mặt của QHSX đều đang tỏ ra nhiều bất cập làm cho không chỉ không thúc
đẩy nền kinh tế phát triển mà còn góp phần tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh tế

4


đồng thời tạo ra khe hở để quốc nạn “tham nhũng ngày càng nghiêm trọng gây bất
bình trong xã hội” [28, tr 17].
Xét từ phương diện thứ hai, mặc dù nhận thức của chúng ta về vai trò của
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ngày càng đúng đắn
hơn, nhưng không chỉ khuynh hướng coi thường giá trị của di sản kinh điển đó,
mà cả sự giáo điều hóa và bệnh kinh nghiệm cũng chưa bị đẩy lùi; năng lực nhận
thức và vận dụng sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX còn xa so với nhu cầu của thực tiễn kiến tạo nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Hơn nữa, ngày nay chúng ta đang phải giải quyết nhiều vấn đề mà
đương thời các nhà kinh điển mácxít chưa gặp phải. Thực tiễn của những yếu kém
của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay không
thể chỉ đổ lỗi cho sự khủng hoảng của tài chính thế giới mà phải nhận thấy rằng,
đó là hậu quả của bệnh chủ quan, duy ý chí và bệnh nóng vội khi đề ra những
quyết sách, trong đó chủ yếu là “sự yếu kém về lý luận của Đảng” [28, tr 18].
Như vậy, có thể nói, những vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN không thể giải quyết chỉ bằng triết học, cũng như không thể giải
quyết thành công nếu thiếu sự vận dụng linh hoạt quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX. Vì vậy, quán triệt quy luật QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX là một trong những điều kiện quan trọng góp phần vào sự
phát triển kinh tế.

Từ trình bày trên cho thấy, việc vận dụng có hiệu quả quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX vào trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế
của nước ta trở thành vấn đề rất bức thiết. Việc nhận thức và phát triển sáng tạo di
sản kinh điển đó của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm giàu thêm tiềm năng của quy
luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX - quy luật cốt lõi của hệ
thống các quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử và vận dụng sáng tạo quy luật đó
nhằm đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển trở thành một vấn đề bức xúc hơn
bao giờ hết.
5


Thực tiễn đã xác nhận, khi nào Đảng ta tôn trọng và nâng cao hiệu quả vận
dụng các quy luật của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, quy luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX nói riêng thì khi đó kinh tế xã hội giành được
thành tựu to lớn. Ngược lại, khi nào các nguyên lý, các quy luật của chủ nghĩa
Mác – Lênin không được vận dụng triệt để, sáng tạo trong việc đề ra các quyết
định về kinh tế xã hội thì thành quả của cách mạng bị hạn chế.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn
vấn đề: “Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
trong việc đề ra và thực hiện đường lối đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn. Đây là
một đề tài quan trọng, hấp dẫn nhưng cũng rất khó. Vì thế, từ trước đến nay đó có
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Một số cuốn sách gần đây được xuất bản đề cập đến vấn đề này nhưng lại
viết ở tầm vĩ mô hoặc đi sâu vào phân tích việc phát triển các thành phần kinh tế
riêng biệt, phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo công bằng xã hội như:

“Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến
bộ công bằng xã hội ở Việt Nam” của GS. TSKH. Lương Xuân Qùy (chủ biên)
(2002), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội . Cuốn sách đưa ra những yêu cầu và
hướng xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN và QHSX mới xây dựng đó
phải đảm bảo để phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng tiến bộ xã hội
ở Việt Nam.
“Về tiến bộ xã hội trong nền kinh tế thị trường” của TS. Nguyễn Hữu
Vượng (2004), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, đề cập đến vấn đề phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam phải gắn liền với việc tiến bộ xã hội,
tạo ra công bằng và dân chủ.

6


“Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của
GS. TS. Nguyễn Công Nghiệp (chủ biên) (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Cuốn sách phân tích thực trạng phân phối trong thời kỳ đổi mới ở nước ta,
đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế phân phối, đảm bảo phát
triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.
“Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức lý luận” của PGS. TS.
Nguyễn Trọng Phúc (2007), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã phân
tích thời kỳ đổi mới ở Việt Nam toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về thực tiễn và
lý luận nhưng trên cơ sở tổng quát và ở tầm vĩ mô. Cuốn sách cũng đã phân tích
đến quá trình đổi mới nền kinh tế nhưng lại trên khía cạnh tư duy kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS. TS.
Vũ Đình Bách (chủ biên) (2008), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách giới
thiệu những vấn đề như: nhận thức về nền kinh tế, thể chế và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN; giải quyết các vấn đề về kinh tế và động lực phát

triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ đó, phân tích, đưa ra các
điều kiện để đảm bảo cho sự vận hành và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.
“ Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay” của
các tác giả: GS. TS. Tô Huy Rứa, GS. TS. Hoàng Chí Bảo, PGS. TS. Trần Khắc
Viện, PGS. TS. Lê Ngọc Tùng (đồng chủ biên) (2008), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Cuốn sách phân tích quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô
hình kinh tế ở nước ta và quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về cơ cấu kinh
tế và cơ chế quản lý kinh tế.
“Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” của GS. Lê Xuân Tùng (2008), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS Lê
Xuân Tùng đã phân tích một số vấn đề về QHSX trong thời kỳ đổi mới và phân
tích về kinh tế thị trường – sự thực hiện về kinh tế quyền sở hữu...

7


Ngoài ra còn có một số bài báo viết về xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam; xây dựng QHSX mới và cơ chế quản lý mới trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta; Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam thực trạng và giải pháp; giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay... trên các báo tạp chí Triết học, tạp chí Cộng sản,
tạp chí Kinh tế...
Luận án tiến sĩ triết học liên quan đến vấn đề này có:
“Tính biện chứng của chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin và ý nghĩa
của nó đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc
Thành đề cập đến việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam thông qua việc phân tích chính sách kinh tế mới
của V.I. Lênin.
“Sự vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong giai đoạn đổi

mới hiện nay” (2003) của tác giả Đinh Cảnh Nhạc. Luận án phân tích: phép biện
chứng, ý nghĩa của phép biện chứng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay trong đó có cả đổi mới nền kinh tế....
Nhìn chung, ở những công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả có đề cập
đến sự phù hợp biện chứng giữa QHSX và LLSX trong việc đề ra đường lối đổi
mới kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhưng theo
những mức độ khác nhau, tuỳ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên,
theo tôi nhận thấy thì các tác giả trên thường đi trực tiếp vào vấn đề nghiên cứu
mà bỏ qua phân tích kỹ phần lý luận, nhất là phân tích về quy luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX và chỉ ra vị trí, vai trò của nó trong lý luận cũng
như trong thực tiễn. Chính vì vậy, mà tôi kế thừa, tiếp thu về cơ bản những quan
điểm của các nhà nghiên cứu trước đó và tổng hợp, bổ sung, phát triển hơn nữa,
trình bày một cách có hệ thống theo sự nghiên cứu và hiểu biết của mình, nhằm
giải quyết vấn đề đã nêu ra trong luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:

8


Trên cơ sở làm rõ vai trò của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX trong việc xây dựng và triển khai đường lối xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, những ưu điểm, khuyết điểm khi vận dụng quy luật
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở nước ta trong những năm đổi
mới vừa qua, luận văn trình bầy một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực
vận dụng quy luật này trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của sự vận dụng quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Trình bày sự vận dụng quy luật này, chỉ ra những cái được và chưa được
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN hơn 20
năm đổi mới vừa qua.
- Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực
vận dụng quy luật này trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vận dụng quy luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong quá trình chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong việc đề ra và tiến hành đường
lối đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

9


Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam thể hiện qua các văn kiện Đại hội Đảng.
Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn là phương pháp lôgíc và
lịch sử, phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của sự vận dụng
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, chỉ ra những cái được và

chưa được mà Đảng đã vận dụng trong đổi mới kinh tế. Từ đó đưa ra một số giải
pháp góp phần nâng cao năng lực vận dụng quy luật này trong giai đoạn đổi mới
kinh tế hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm rõ sự vận dụng quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong việc đề ra và thực hiện
đường lối đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực vận dụng QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN trong những năm tiếp theo.
Về mặt thực tiễn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy, nghiên cứu chuyên đề về đường lối đổi mới kinh tế và xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 7 tiết.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM

1.1. Nội dung và vị trí của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
1.1.1. Nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất

* Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
Thuật ngữ “Lực lượng sản xuất” lần đầu tiên được C. Mác nêu trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1846). Nội dung của khái niệm được ông phát biểu sâu
sắc thêm trong các tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học” (1847), “Lao động làm
thuê và tư bản” (1849) và đặc biệt là trong bộ “Tư bản”. Mác nêu rõ nội hàm của
khái niệm LLSX qua những yếu tố cấu thành, đó là người lao động và tư liệu sản
xuất. Các yếu tố này tác động với nhau thúc đẩy sự phát triển sản xuất, làm cho
LLSX luôn thay đổi. Từ đó, LLSX được hiểu là kết quả của năng lực thực tiễn của
con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội.
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm LLSX, nhưng
đều thống nhất ở việc nêu lên nội dung cơ bản của khái niệm gồm những yếu tố
sau:
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là kết quả năng
lực thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên.
LLSX là một thể thống nhất hữu cơ gồm yếu tố con người và tư liệu sản
xuất. Trong đó, con người là chủ thể tích cực, sáng tạo và sử dụng các phương
tiện, công cụ để tác động vào tự nhiên tạo ra những vật phẩm cần thiết cho xã hội.
Đây chính là nội dung cơ bản nhất của khái niệm LLSX.

11


LLSX được phát triển không ngừng trong quá trình sản xuất xã hội.
Từ đó có thể chỉ ra nội dung có tính chất tổng hợp của khái niệm LLSX
như sau: LLSX là biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là kết quả
năng lực thực tiễn của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, là một thể
thống nhất hữu cơ giữa yếu tố con người và tư liệu sản xuất, trong đó con người là
chủ thể tích cực và sáng tạo với trí tuệ là chủ đạo, có tri thức khoa học và kỹ thuật,
trình độ chuyên môn, kỹ năng và những kinh nghiệm, thói quen, biết chế tạo và sử
dụng các phương tiện lao động tác động vào các đối tượng của tự nhiên, cải tạo

chúng, biến chúng thành của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu xã hội, LLSX phát
triển không ngừng trong quá trình sản xuất xã hội.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là, trong
quá trình sản xuất xã hội, con người chinh phục tự nhiên bằng cách tổng hợp các
sức mạnh hiện thực của mình. LLSX nói lên năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên. Nhưng không phải mọi mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên đều là LLSX. Vì con người còn có nhiều mối quan hệ khác với tự nhiên như
quan hệ thẩm mỹ, quan hệ tình cảm, quan hệ nhận thức, quan hệ thích nghi và cải
tạo. Chỉ có mối quan hệ nào mà trong đó con người cải tạo những vật phẩm của tự
nhiên thành những sản phẩm vật chất cho xã hội mới là biểu hiện của LLSX.
LLSX bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và người lao động sử dụng tư liệu
sản xuất đó với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của
họ.
Thứ nhất, về tư liệu sản xuất: Trong quá trình sản xuất, để cải biến đối
tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình, con người phải sử
dụng tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là yếu tố không thể thiếu trong quá trình
sản xuất, thiếu nó thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Tư liệu sản
xuất được cấu thành từ hai bộ phận căn bản là tư liệu lao động và đối tượng lao
động, Mác nói: “Cả tư liệu lao động và đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư
liệu sản xuất” [65, tr 17].

12


Đối tượng lao động là vật thể tự nhiên mà con người tác động vào và cải
tạo chúng thành những của cải vật chất khác nhau. Vật thể đó có thể nằm sẵn
trong giới tự nhiên bao quanh con người. Trong trường hợp này, nó còn được tách
ra khỏi giới tự nhiên và là đối tượng lao động của ngành công nghiệp khai thác.
Trong nhiều ngành sản xuất, đối tượng lao động là những vật liệu chịu sự

tác động của lao động con người một hoặc vài lần. Đối tượng lao động là nguyên
liệu. Nguyên liệu này có thể là cơ sở tự nhiên chủ yếu của sản phẩm đã được sản
xuất ra. Mác phân biệt hai loại đối tượng này như sau: “Mọi nguyên liệu đều là
đối tượng. Nhưng không phải mọi đối tượng đều là nguyên liệu, đối tượng lao
động chỉ trở thành nguyên liệu sau khi đã trải qua một sự biến đổi nào đó do lao
động gây ra”[65, tr 232].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu đối tượng lao động chính là những thứ mà
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào nó, biến nó thành những sản
phẩm hữu ích. Nó có thể có sẵn trong tự nhiên như đất, nước, cây rừng…Song
phần lớn do con người tạo ra dưới dạng nguyên vật liệu - sản phẩm của quá trình
chế biến như sắt, thép, các loại nhựa hoá học…
Tư liệu lao động chính là khâu trung gian của người lao động và đối tượng
lao động. Mác định nghĩa tư liệu lao động như sau:
“Tư liệu lao động là một vật, hay là toàn bộ những vật mà đặt ở giữa họ và
đối tượng lao động và được họ lấy làm vật truyền dẫn hoạt động của họ vào đối
tượng ấy” [65, tr 232].
Theo nghĩa đó, tư liệu lao động gồm: công cụ sản xuất, ví dụ như: máy
móc, dụng cụ thủ công…chúng cấu thành hệ xương và hệ cơ của nền sản xuất;
các yếu tố phục vụ trực tiếp sản xuất hoặc gián tiếp quá trình sản xuất ví dụ như:
đất đai trong công nghiệp, nhà cửa dùng cho sản xuất, các công trình xây dựng,
các sông đào, đường xá, bến bãi…(còn gọi là cơ sở hạ tầng của sản xuất); các đồ
dùng để chứa đựng, bảo quản nguyên vật liệu và sản phẩm làm ra như: kho, bể
chứa, thùng, chậu… Những thứ này đã cấu thành hệ huyết quản của nền sản xuất.

13


Thứ hai là người lao động: Người lao động chính là nguồn cung cấp sức
lao động (tổng hợp thể lực và trí lực) là chủ thể của lao động sản xuất. Quá trình
lao động chính là quá trình con người sử dụng công cụ lao động để tác động vào

đối tượng lao động một cách có mục đích và kết quả. Trong các yếu tố hợp thành
LLSX, người lao động là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất. Vì nếu không có con
người thì ngay cả một kỹ thuật hoàn thiện nhất cũng trở thành một kỹ thuật chết.
Dù cho trình độ cơ khí hoá và tự động hoá của sản xuất như thế nào, sản xuất bao
giờ cũng do con người tiến hành. Dựa vào trình độ đã đạt được của sản xuất, vào
kinh nghiệm sản xuất, vào thói quen lao động của mình, vào nhận thức về tự
nhiên, tất cả những nhân tố này cùng phát triển với sự phát triển của sản xuất, con
người sáng chế, sử dụng và cải tiến công cụ sản xuất. Vì lẽ đó V.I. Lênin đã nhấn
mạnh rằng, LLSX thứ nhất của loài người là người công nhân, người lao động.
Công cụ lao động chỉ có thể tác động được vào đối tượng lao động khi nó
kết hợp với sức lao động của con người, nếu tách khỏi con người thì bản thân
công cụ sản xuất không thể trở thành LLSX của xã hội được. Công cụ sản xuất và
tất cả các tư liệu lao động đều là sự nghiệp của bàn tay con người, là sự vật chất
hoá kinh nghiệm và kiến thức đã tích lũy được, là chỉ số nói lên những thành công
của họ trong việc chinh phục giới tự nhiên. Vì thế, con người là LLSX chủ yếu.
Con người bằng sức lực và trí tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao động và
dùng công cụ đó tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm
thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình sản xuất, bản thân con
người đối diện với thực tế của tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên.
Để chiếm hữu được thực thể tự nhiên, cải tạo tự nhiên bắt chúng phục vụ những
mục đích, nhu cầu của mình, con người đã vận dụng đến sức mạnh tự nhiên của
bản thân họ như tay, chân, đầu và hai bàn tay. Chính vì thế, trong khi tác động vào
tự nhiên, con người cũng làm thay đổi chính bản thân mình.
Con người khi tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là một yếu tố
của LLSX sẽ làm cho con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn cả về thể
xác lẫn trí tuệ, tâm hồn. Chính quá trình con người tham gia lao động và thông
qua lao động thực tiễn, con người đã dùng trí tuệ để: nhận thức bản chất, quy luật
14



của các sinh vật, hiện tượng của thế giới khách quan, sử dụng chúng làm phương
tiện sản xuất, không ngừng sáng tạo ra cho mình những LLSX ngày càng lớn
mạnh, tinh vi, con người đã biến những phần vật chất do tự nhiên cung cấp thành
“khí quan nhân tạo” của mình để nhận thức sâu hơn, xa hơn, bản chất hơn cả lĩnh
vực vi mô cũng như vĩ mô của tự nhiên. Đây cũng chính là đặc trưng lao động
sáng tạo của con người mà thế giới động vật không thể nào có được. Con người
chính là động vật biết chế tạo công cụ lao động. Con người không chỉ quyết định
sự ra đời của công cụ lao động mà còn quyết định cả quá trình vận hành chúng.
Máy móc, công cụ dù có hiện đại, tinh vi đến đâu đi chăng nữa, nhưng nếu không
có con người sử dụng, vận hành thì cũng trở thành vô ích, sẽ giống như trạng thái
“nguyên thuỷ” của chúng mà thôi.
Công cụ lao động được coi là yếu tố động của LLSX. Nó luôn luôn được
cải tiến cho phù hợp với điều kiện mới, không ngừng được sáng tạo ra và chính sự
phát triển của công cụ lao động đã tạo nên nhiều biến chuyển kỳ diệu trong nền
sản xuất xã hội.
Công cụ lao động càng tình vi, điều đó chứng tỏ con người càng hiện đại
càng tách xa thế giới tự nhiên.
Công cụ lao động là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong quá trình
sản xuất, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, dấu ấn của nó đã
để lại trên tất cả mọi chặng đường lịch sử - xã hội.
Như vậy, các yếu tố hợp thành LLSX có quan hệ chặt chẽ với nhau trong
quá trình sản xuất, trong đó người lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định còn tư
liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng.
Ngoài những khái niệm đã nêu trên, khi nói về LLSX chúng ta không thể
không nói đến khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của LLSX.
Trình độ phát triển của LLSX là tổng hợp trình độ phát triển của các yếu tố
hợp thành LLSX trong đó trình độ của công cụ lao động và trình độ kiến thức (văn
hoá, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ…), kỹ năng của người lao động
có ý nghĩa quyết định nhất. Trình độ công cụ lao động, trình độ hiểu biết và kỹ


15


năng lao động của con người cũng như các yếu tố cấu thành khác càng cao, thì
năng suất lao động càng cao. Chính vì vậy, năng suất lao động biểu hiện rõ nhất
trình độ phát triển của LLSX, là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế và tiến bộ xã hội.
Tính chất của LLSX thể hiện ở tính cá thể, phân tán, sản xuất nhỏ hay tính
cộng đồng, tập trung (tính xã hội), sản xuất lớn. Nó thường tương ứng với trình độ
của LLSX mà chủ yếu là trình độ của công cụ lao động. Nếu công cụ lao động thô
sơ, thì LLSX mang tính chất cá thể, sản xuất nhỏ. Còn nếu công cụ lao động là
máy móc, thiết bị hiện đại thì LLSX mang tính xã hội cao, tính sản xuất lớn. Mỗi
sản phẩm làm ra là công sức đóng góp của nhiều người ở nhiều khâu khác nhau.
Công cụ lao động theo Ph. Ăngghen là “khí quan của bộ óc con người”, “là sức
mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên
sức mạnh trí tuệ của con người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đạt tới trình độ
được tin học hoá, được tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở
nên hết sức kỳ diệu. Do vậy, có thể nói, trình độ phát triển của công cụ lao động
chính là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Khoa học ngày càng phát triển, phát triển đến mức trở thành nguyên nhân
trực tiếp của những biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Ngày nay
cách thức mà khoa học và thể hiện trong hiện thực khác nhiều so với trước kia.
Mác dự kiến rằng khoa học trở thành “Lực lượng sản xuất trực tiếp”. Tư tưởng ấy
của Mác có ý nghĩa định hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt
động khoa học.
Khoa học, tri thức và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản
xuất. Do vậy, nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng, là lực lượng trực tiếp
quyết định LLSX hiện nay.
* Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
Khái niệm QHSX biểu hiện mặt thứ hai trong mối quan hệ “song trùng”

của bản thân sự sản xuất xã hội.

16


Khái niệm QHSX là khái niệm để chỉ mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông (trao đổi) và tiêu dùng. Sở dĩ quá
trình sản xuất có thể đưa ra một cách bình thường chính là vì trong sự sản xuất đó,
mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ con
người với tự nhiên.
Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện thành
những trình độ khác nhau của LLSX. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng
và thông qua những quan hệ khác nhau giữa người và người, tức là trong QHSX.
Mác đã viết “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người
ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để
hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau; Muốn sản xuất được, người ta
phải có những mối quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự
nhiên, tức là việc sản xuất”.
Như vậy, QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất,
sản xuất và tái sản xuất xã hội, được thể hiện ở ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất; quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phối
kết quả sản xuất.
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, QHSX là quan hệ mang tính vật chất trong đời
sống xã hội, Mác trong thư gửi P. V. Annencốp, ngày 28 tháng chạp năm 1846
viết: “Xã hội - bất cứ dưới hình thức nào là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động
lẫn nhau giữa người với người. Người ta có được tự do lựa chọn hình thức này
hay hình thức kia của xã hội được không? Hoàn toàn không, hãy giả dụ một trình
độ phát triển nhất định của LLSX trao đổi và tiêu thụ và ông sẽ có một chế độ xã
hội nhất định, một tổ chức nhất định của gia đình, của đẳng cấp hay giai cấp, nói

tóm lại, là một xã hội công dân nhất định”.
QHSX là hình thức xã hội của LLSX và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh
thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn luôn gắn bó
với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động

17


không ngừng của LLSX. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống QHSX có vai trò và ý
nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới
toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Ba mặt của QHSX cùng song song tồn tại. Điều này cho ta thấy tính liên
tục tất yếu của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Tính
liên tục, tất yếu đó do chính yêu cầu sản xuất đặt ra.
Tính chất của QHSX trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu là đặc trưng cơ bản của phương thức
sản xuất.
QHSX đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định và chi phối tới tất cả
các quan hệ xã hội khác trong mỗi một nền kinh tế - xã hội xác định. Quan hệ sở
hữu là quan hệ xuất phát, cơ bản và trung tâm của các QHSX. Ai sở hữu tư liệu
sản xuất thì người đó có quyền quyết định và chi phối việc tổ chức, quản lý quá
trình sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra.
Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử
đã được chứng kiến sự tồn tại của hai chế độ sở hữu sở hữu cơ bản đối với tư liệu
sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
Sở hữu tư nhân, tư hữu là tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số ít người
nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít đó, dẫn đến các quan
hệ xã hội trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội
trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay
gắt (CNTB là đỉnh cao của loại sở hữu này).

Ngược lại, sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc
về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Trên cơ sở đó về mặt nguyên tắc, các thành
viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân
phối sản phẩm. Quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. C. Mác và Ph. Ăngghen đã
chứng minh rằng chế độ TBCN không phải là hình thức sở hữu cuối cùng mà
CNXH dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ
đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.

18


Như vậy, cho đến nay trong lịch sử phát triển xã hội loài người đã có 2 hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất là công hữu và tư hữu. Mỗi hình thức đều có vai trò
lịch sử của nó, nhưng nói chung tư hữu hay công hữu đều là những hình thức của
hoạt động sản xuất vật chất của con người và là những quan hệ kinh tế hiện thực
giữa người với người trong xã hội.
Muốn xét sự tiến bộ của mỗi hình thức sở hữu, phải xem các hình thức sở
hữu đó có phù hợp với LLSX hiện có hay không, có tạo cho LLSX phát triển hay
không. Chúng ta không thể nói chế độ tư hữu là không tiến bộ nếu nó tạo địa bàn
cho sự phát triển của LLSX. Thực tế, lịch sử đã chỉ ra giá trị của cơ sở lý luận này,
khi tính chất và trình độ của LLSX còn lạc hậu mà áp dụng ngay QHSX tiên tiến
cũng sẽ không tạo điều kiện cho LLSX phát triển trái lại còn kìm hãm nó.
Trình độ và tính chất của LLSX xét trên phạm vi quốc gia hay quốc tế đều
không đều nhau. Giữa các ngành sản xuất khác nhau trong cùng một ngành mà ở
những nơi khác nhau thì trình độ và tính chất của LLSX đạt được cũng khác nhau.
Nếu áp dụng hình thức sở hữu duy nhất cho những LLSX là không hợp lý. Tuy
nhiên, cũng cần phải có chế độ, chính sách rõ ràng để xác định một chủ thể sở hữu
và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định. Đây chính là cơ sở quan
trọng để phát huy trình tự chủ về quản lý, tổ chức trong quá trình sản xuất.
Cùng với quan hệ sở hữu thì quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất là

hạt nhân của QHSX. Nó có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc
độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Các quan hệ về mặt tổ
chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở
hữu thống trị của xã hội đó. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức và quản
lý sản xuất vì không có tư liệu sản xuất thì không có sản xuất, như vậy sẽ không
có tổ chức và quản lý sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức và quản lý cũng có
tính độc lập tương đối, tác động ngược trở lại quan hệ sở hữu. Mặt tổ chức quản lý
sản xuất có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm các quá trình và kết quả của sản
xuất. Do vậy, nếu sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho
phép hệ thống QHSX có khả năng vươn tới tối ưu. Ngược lại, thì sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
19


Bên cạnh các quan hệ trên, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động
cũng là những yếu tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ
nền kinh tế - xã hội. Mặc dù chịu sự chi phối của quan hệ xã hội, người nắm
quyền tư liệu sản xuất là người nắm quyền tổ chức, quản lý sản xuất, đồng thời
cũng là người quyết định việc phân phối sản phẩm sau này. Nhưng quan hệ phân
phối sản phẩm lao động cũng có tác dụng tích cực hay tiêu cực trở lại đối với quá
trình sản xuất. Nó có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên
các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của các quá trình kinh tế - xã hội. Khi
quan hệ phân phối công bằng nó sẽ thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất làm
tăng năng suất lao động nhưng trong trường hợp ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát
triển xã hội.
Như vậy, các quan hệ trong QHSX cùng tồn tại và tác động qua lại với nhau,
tạo điều kiện cho nhau phát triển. Chính điều này khẳng định mối quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất là một tất yếu khách quan không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
QHSX quy định các quan hệ xã hội khác của con người, nhưng bản thân lại

chịu ảnh hưởng của chúng. Vì vậy, việc thực hiện QHSX phải đi cả bằng con
đường xã hội chứ không phải chỉ đi bằng con đường kinh tế. Chúng ta có thể
chứng minh một cách dễ dàng rằng: quan hệ phân phối không chỉ là quan hệ kinh
tế mà nó còn là quan hệ mang tính xã hội sâu sắc giữa những con người. Nếu
không có công bằng xã hội trong quan hệ phân phối thì cũng không thể hoàn thiện
được cả mặt kinh tế của QHSX và do đó cũng không thể hoàn thiện được toàn xã
hội.
* Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
LLSX và QHSX luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau để hình thành nên
phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ đó, LLSX là yếu tố động, là nội dung
quyết định QHSX, còn QHSX là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức biểu hiện
và có tác động trở lại LLSX. Sự tác động lẫn nhau giữa QHSX và LLSX biểu hiện
mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ

20


bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội - quy luật QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX.
Trong những tác phẩm của mình C. Mác và Ph. Ăngghen không bao giờ
coi những tư tưởng của các ông như một hệ thống khép kín, bất di bất dịch mà
luôn phát triển những tư tưởng mới dựa trên những nguyên lý chung và phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh thực tế. Bản thân các ông cũng thừa nhận còn có những
vấn đề chưa thể khái quát được do những điều kiện lịch sử chưa chín muồi và
không đủ thời gian.
Mặc dù C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX, nêu bật được tầm quan trọng của nó đối với đời
sống xã hội, nhưng trong các tác phẩm của mình chưa lần nào C.Mác gọi sự “phù
hợp” giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX là quy luật.
Sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX sau này, vào năm

1952 được Stalin nâng lên thành quy luật trong tác phẩm: “Những vấn đề kinh tế
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô”. Từ đó đến nay, sự phù hợp này được gọi tên là
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Vậy để hiểu được nội
dung quy luật một cách sâu sắc, khoa học thì chúng ta phải giải quyết và phân tích
được trình độ phát triển của LLSX là gì? tại sao QHSX lại phải phù hợp với
LLSX? Và như thế nào được coi là phù hợp?
Trước hết, nói đến trình độ phát triển của LLSX là nói đến khả năng của
con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến
giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình.
Trình độ LLSX thể hiện ở: trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức
lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ phân công lao
động, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
Trình độ LLSX quy định các hình thức tổ chức sản xuất như phân công lao
động, hiệp tác lao động, tập trung sản xuất… đòi hỏi những hình thức sở hữu,
quản lý, phân phối phù hợp.

21


Tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của LLSX chính là năng suất lao
động. Năng suất lao động đạt hiệu quả hay không, ít hay nhiều là phụ thuộc vào
khả năng trí tuệ của con người, vào chất lượng của công cụ lao động.
Tương ứng với trình độ của LLSX là quá trình phân công lao động, trình độ
tổ chức và quản lý cũng như trình độ phân phối sản phẩm. C. Mác cho rằng: Trình
độ phát triển LLSX của một nước ra sao, điều đó thể hiện rõ hơn hết ở sự phân
công lao động ở nước đó phát triển tới mức độ nào. Do vậy, phân công lao động
xã hội là nhân tố quan trọng biểu hiện sự phát triển trình độ của LLSX. Trình độ
của LLSX càng cao thì sự phân công lao động càng tỉ mỉ, có sự chuyên môn hoá
cao và trình độ tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm càng sâu sắc.
Xét một cách khái quát nhất thì loài người đã trải qua hai trình độ của

LLSX: trình độ LLSX thủ công, LLSX mang tính cá thể và QHSX là chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất (tư hữu). Ví dụ như ở thời kỳ phong kiến, nô lệ; trình
độ LLSX công nghiệp mang tính chất xã hội hoá cao, tương ứng QHSX sẽ là sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất như xã hội tư bản chủ nghĩa.
Bên cạnh khái niệm trình độ của LLSX còn có khái niệm tính chất của
LLSX. Chính Ph. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích LLSX trong
các phương thức sản xuất khác nhau. Khi sản xuất ở trình độ sử dụng các công cụ
lao động thủ công thì LLSX mang tính chất cá nhân là chủ yếu. Còn khi nền sản
xuất được thực hiện với các máy móc hiện đại thì sẽ mang tính chuyên môn hoá,
có sự hợp tác rộng rãi. Thật vậy, như chúng ta đã biết tính chất cá nhân của lịch sử
sản xuất xuất hiện từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô
lệ đến phương thức sản xuất phong kiến. Còn khi CNTB hình thành và phát triển
thì người lao động có sự hợp tác với nhau trong sản xuất, sản phẩm lao động làm
ra là sản phẩm lao động của nhiều người trong một dây chuyền nhất định, lúc đó
mới xuất hiện tính chất xã hội hoá của LLSX.
Ngày nay, khi quá trình CNH, HĐH tin học hoá đã được xác lập ngày càng
phát triển thì tính chất xã hội hoá của LLSX ngày càng cao, mỗi người lao động
chỉ sản xuất một bộ phận, làm một khâu trong quá trình sản xuất. Do đó, mà năng

22


suất, chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Như vậy, để có được tính chất tập thể,
tính chất xã hội hoá của lịch sử sản xuất, loài người đã phải trải qua thời kỳ lịch sử
lâu dài nhờ sự sáng tạo và đúc rút kinh nghiệm không ngừng của mỗi thế hệ.
Trong đó, kinh nghiệm sản xuất của thế hệ trước là cơ sở và điều kiện để thế hệ
sau kế thừa và phát huy. Dĩ nhiên là phải loại bỏ những yếu tố của cái cũ không
cần thiết, lưu giữ phát huy cái cũ phù hợp và bổ sung thêm nhằm xây dựng cho hệ
thống của cái mới hoàn chỉnh hơn. Đây chính là quá trình khách quan mà mỗi
nước bắt buộc phải trải qua, tự điều chỉnh vận dụng cho phù hợp với điều kiện

thực tế của nước mình để phát triển LLSX. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, do sự
phát triển không đều nhau của LLSX mà những yếu tố này có thể tiệm tiến dần
dần hay có sự tăng trưởng nhanh trong sự phát triển của LLSX.
Trên thực tế, tính chất và trình độ của LLSX không tách biệt với nhau.
Chúng có mối quan hệ hữu cơ tương ứng với nhau. Trình độ của LLSX như thế
nào thì tính chất được khẳng định như thế ấy. Do đó, nhận thức trình độ và tính
chất của LLSX có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc xác lập và sử dụng QHSX phù
hợp với LLSX. LLSX quyết định QHSX nhưng QHSX cũng tác động trở lại
LLSX. QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ có tác dụng “mở
đường” làm cho LLSX phát triển. Chẳng hạn như nhờ có sự hợp tác trong nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 1960 - 1970 mà nhiều công trình thuỷ lợi và hệ thống
đường giao thông trên đồng ruộng được hình thành. QHSX lỗi thời lạc hậu hoặc
quá tiến bộ không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát
triển của LLSX. Ví dụ như cơ chế phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp
trong những năm trước đổi mới đã hạn chế nhiều tới sự năng động, sáng tạo của
người lao động và thủ tiêu động lực phát triển sản xuất kinh doanh.
QHSX đóng vai trò là nhân tố thúc đẩy, là lực lượng chủ yếu quyết định
đối với sự phát triển của LLSX. Ngược lại, khi QHSX đã không còn phù hợp trình
độ phát triển của LLSX: lạc hậu hoặc đi trước LLSX thì QHSX không cho phép
sử dụng những khả năng mới để phát triển LLSX; Trái lại, nó còn hạn chế, kìm
hãm sự phát triển của LLSX. Chính vì thế, yêu cầu cơ bản của quy luật QHSX với
LLSX là sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX. Chúng ta có

23


thể đưa ra một số tiêu chí để xác định sự phù hợp này của QHSX với trình độ phát
triển của LLSX như sau:
Một là, trình độ của LLSX tạo ra cơ chế kinh tế quy định QHSX và QHSX
phải kích thích sản xuất, đầu tư kỹ thuật vào quá trình sản xuất tức là QHSX mở

đường, tạo ra địa bàn rộng lớn cho LLSX phát triển.
Hai là, khi LLSX nói riêng và sản xuất xã hội nói chung phát triển thì nó
làm cho năng suất lao động tăng lên, của cải dồi dào. Tuy nhiên, năng suất lao
động mới chỉ là điều kiện cần, chưa thể là điều kiện đủ. Năng suất lao động tự nó
chưa hẳn đã đem lại cho người lao động mức sống cao và cuộc sống hạnh phúc
một cách tương ứng. Do đó, sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX ở đây là phải làm cho người lao động đảm bảo được cuộc sống và nâng cao
được cuộc sống, làm cho người lao động nỗ lực, say mê làm việc, kích thích và
khai thác được yếu tố năng động, sáng tạo của họ.
Ba là, sự phù hợp của QHSX với LLSX còn thể hiện ở QHSX ấy phải tạo
nên những hình thức thực hiện tốt nhất cho quá trình tái sản xuất mở rộng.
Bốn là, sự phù hợp của QHSX với LLSX phải là sự phù hợp giữa ba mặt
của QHSX: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối. Ba
mặt này tương hỗ, bổ trợ cho nhau cùng phát triển.
Như vậy, sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là
nguyên lý cơ bản của sự phát triển sản xuất vật chất. Nhưng cũng như mọi sự phát
triển, sự phát triển này là một quá trình có mâu thuẫn. Vì thế, QHSX không thể
phù hợp một cách thường xuyên với LLSX đang phát triển. LLSX là yếu tố
thường xuyên biến đổi do khoa học - kỹ thuật thay đổi không ngừng. QHSX
thường biến đổi chậm hơn, trở nên lạc hậu so với LLSX. Sự phát triển của LLSX
đến một trình độ nhất định làm cho QHSX cũ không còn phù hợp nữa, trở thành
yếu tố kìm hãm sự phát triển khi đó sẽ xảy ra một cuộc cách mạng, xoá bỏ QHSX
cũ xác lập QHSX mới tiến bộ hơn và một phương thức sản xuất mới ra đời. Điều
này là một quy luật.

24


×