Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

luật hôn nhân và gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.89 KB, 12 trang )

Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
Câu 8: Pháp luật về nuôi con nuôi với việc bảo vệ quyền trẻ em?
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ:
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là vấn đề đáng quan tâm của

toàn xã hội. Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ mục tiêu và động lực chính của sự
phát triển là do con người, cho con người và vì con người, trong đó, vấn đề bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được đặt vào vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bác Hồ đã từng nói:
“Muốn có chế độ XHCN thì phải có con người XHCN
Muốn có con người XHCN thì phải có tư tưởng XHCN”
và Người đã khẳng định vai trò của việc giáo dục và rèn luyên trẻ em:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Các ngành luật nước ta ngành luật nào cũng coi trẻ em là một chủ thể đặc
biệt và dành cho trẻ em những quy định riêng theo đặc thù của ngành luật mình.
Trong đó, Luật hôn nhân và gia đình với quy phạm điều chỉnh đặc thù của mình
đã xem trẻ em là một thành viên đặc biệt của gia đình, cần có sự bảo hộ pháp lý
đặc biệt. Một trong những vấn đề quan trọng về trẻ em là vấn đề về nuôi con
nuôi. Việc pháp luật hôn nhân và gia đình quy định về việc nuôi con nuôi nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, đảm bảo cho trẻ phát triển bình
thường trong sự đầy đủ về tình cảm, vật chất và trong một môi trường trong sạch
lành mạnh.

II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1



Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08

1. Khái niệm chung về nuôi con nuôi

Nuôi con nuôi có thể được hiểu theo hai góc độ: Là sự kiện pháp lí
hoặc là quan hệ pháp luật. Theo điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2003
quy định:
1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người
nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho
người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi.
Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có
các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này.
2. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi,
trẻ bị tàn tật làm con nuôi.
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động,
xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Với quy định trên thì nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý thể hiện ý chí
của các bên liên quan. Thứ nhất, nuôi con nuôi thể hiện ý chí của người nhận
nuôi con nuôi mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con
với đứa trẻ đó. Nhằm mục đích bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi
được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Ý
chí, mong muốn đó của người nhận nuôi phải được thể hiện qua đơn xin nhận
nuôi con nuôi. Thứ hai, còn có ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ
em được cho làm con nuôi đó là sự tự nguyện. Sự thể hiện ý chí còn ở bản thân
người con nuôi có mong muốn được làm con nuôi hay không. Pháp luật quy định
2



Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
trẻ em từ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình khi được
nhận làm con nuôi. Ngoài ra còn là sự thể hiện ý chí của Nhà nước. Ý chí của
Nhà nước được thể hiện qua việc công nhận (hay không công nhận) việc nuôi
con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi (hay từ chối việc đăng kí
nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lí của việc nuôi con nuôi.
Với quy định trên, dưới góc độ là sự kiện pháp lí, việc nuôi con
nuôi là cấu thành sự kiện – sự kiện pháp lí phức hợp. Để việc nhận con nuôi có
hiệu lực, phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi Luật hôn
nhân và gia đình năm 2003 đã quy định các điều kiện cụ thể về nhận con nuôi
hợp pháp, hậu quả pháp lý và thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi.
2. Những quy định về nuôi con nuôi trong luật hôn nhân và gia đình
năm 2003 đối với quyền trẻ em

Luật hôn nhân và gia đình 2003 đã dành hẳn một chương đó là chương XIII
để quy định về vấn đề nuôi con nuôi, trong đó bao gồm 11 điều (từ điều thứ 67
đến điều thứ 78). Những quy định đó đã thể hiện được sự quan tâm đối với trẻ
em, thể hiện quyền được bảo vệ của trẻ em. Cụ thể như sau:
Trước hết, về điều kiện của người được nhận làm con nuôi bị ràng buộc bởi độ
tuổi. Theo quy định tại Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, người
được nhận làm con nuôi là người từ 15 tuổi trở xuống, trừ trường hợp con nuôi là
người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người
già yếu cô đơn. Quy định này, hướng tới đối tượng không chỉ là trẻ em không
3


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt mà cả người già yếu cô đơn,

qua đó đã phản ánh phần nào truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi chỉ thực sự cần thiết và vì lợi ích của trẻ em
được cho làm con nuôi khi trẻ em đó không thể được nuôi dưỡng, chăm sóc
trong gia đình ruột thịt của mình vì những lý do nhất định. Chỉ khi đó việc cho –
nhận trẻ em làm con nuôi mới phù hợp với quyền của trẻ em được sống trong gia
đình, phù hợp với nguyên tắc: “Trẻ em không bị buộc cách ly khỏi cha mẹ trái
với ý muốn của cha mẹ, trừ trường hợp một sự cách ly như thế là cần thiết cho
lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Ngay cả trong trường hợp phải cách ly khỏi cha mẹ
thì ý muốn của trẻ em cũng phải được quan tâm trước tiên khi trẻ em có khả
năng thể hiện ý chí của mình. Vì vậy, việc đưa trẻ em ra khỏi gia đình ruột thịt
của mình để làm con nuôi người khác chỉ có thể xuất phát từ lợi ích của chính trẻ
em. Quy định về các điều kiện của việc cho – nhận con nuôi phải xuất phát từ
nguyên tắc cơ bản này. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích
việc nhận con nuôi khi người nhận con nuôi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
độ tuổi là từ hai mươi tuổi trở lên; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện thực tế
bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Hơn nữa,
người có điều kiện nhận con nuôi không phải là người đang bị hạn chế một số
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá
án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng,
con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp
người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các
tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (điều 69, Luật hôn nhân và gia đình 2003).

4


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
Những quy định trên nhằm đảm bảo cho trẻ được yêu thương, chăm sóc, nuôi

dưỡng đầy đủ.
Việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh bạch, và xuất phát từ sự tự nguyện thật
sự của bản thân cha mẹ hoặc người giám hộ mà không có bất cứ sự tác động,
thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực nào. Nội dung của ý chí đó là đồng ý
cho con mình làm con nuôi của người khác. “Việc nhận người chưa thành niên,
người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự
đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự
đồng ý bằng văn bản của người giám hộ”. Sự đồng ý đó có thể thể hiện bất cứ
lúc nào nhưng nó chỉ có ý nghĩa sau khi đứa trẻ được sinh ra mà còn sống. Hơn
nữa, nhận con nuôi còn là sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi. “Việc
nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em
đó”. Trong trường hợp này đứa trẻ tuy chưa được coi có năng lực hành vi đầy đủ
nhưng đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận biết và bày
tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con nuôi người
khác, cũng như cảm nhận được sự an toàn hay không an toàn khi được cho làm
con nuôi người khác, khi phải thay đổi môi trường sống… Do đó, pháp luật quy
định đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn
đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; sự đồng ý làm con nuôi của
đứa` trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị
pháp lí. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền trẻ em, quyền được tham gia bày tỏ
ý kiến của mình.
Những thủ tục để nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao
nhận con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Quy định
5


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
này nhằm đảm bảo việc nuôi con nuôi là hợp pháp, đảm bảo quyền trẻ em, ngăn

chặn những trường hợp nhận con nuôi với mục đích xấu, lạm dụng trẻ em, buôn
bán trẻ em...
Cha mẹ nuôi có quyền và nghĩa vụ kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi.
Đối với con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng được
người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con
liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng.
Ngoài ra, việc thay đổi họ, tên; xác định dân tộc của con nuôi cũng cần có
sự đồng ý của người được nhận làm con nuôi: “Việc thay đổi họ, tên của con
nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó”. Qua đó đã thể
hiện quyền được tham gia của trẻ em trong việc tự quyết định họ, tên, dân tộc
của mình.
Hơn nữa, trẻ em còn có quyền tự quyết trong trường hợp con nuôi đã thành niên
tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi với cha mẹ nuôi. Trẻ em có quyền
được chấm dứt quan hệ với cha mẹ nuôi nếu cha mẹ nuôi có hành vi dụ dỗ, ép
buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo,
chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục,
ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Trong xu thế nên kinh tế thị trường, pháp luật còn có những quy định việc nhận
con nuôi có yếu tố nước ngoài. Pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế hiện hành ở
Việt Nam gồm có hai nguồn: nguồn quốc tế và nguồn quốc gia. ở nguồn quốc tế,
trong 15 hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký với các nước thì có khá
nhiều hiệp định đã đề cập ở mức độ nhất định về vấn đề nuôi con nuôi quốc tế.
Việc xem xét để giải quyết cho và nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi người
nước ngoài không chỉ là đòi hỏi nhằm đáp ứng nhu cầu của người nước ngoài,
mà hơn hết, chính là nhằm góp phần tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em Việt
6


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
Nam. Sự lựa chọn tích cực và đầy hiệu lực cho những vấn đề toàn cầu, trong đó

có con nuôi quốc tế chính là ký kết, tham gia những thỏa thuận song và đa
phương. Gia nhập Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước Lahaye 1993), đang là một yêu cầu cấp
bách đối với Việt Nam hiện nay.
Việc ban hành Luật Nuôi con nuôi là rất cần thiết, nhằm tạo khung pháp luật ổn
định, có hiệu lực pháp lý cao để thu hút sự quan tâm, ủng hộ và giúp đỡ của toàn
xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em, nâng cao trách
nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc bảo
đảm quyền của trẻ em, nhất đối với đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, cần
sự giúp đỡ nhiều nhất trong xã hội. Ở Việt Nam hiện có 91/378 cơ sở nuôi
dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được phép cho trẻ em làm con nuôi ở nước
ngoài. Trong quá trình toàn cầu hóa, vấn đề nhận con nuôi nước ngoài đã đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Để hạn chế tối đa tình trạng buôn bán trẻ em vì mục
đích con nuôi, ông Nguyễn Công Khanh, Phó Cục trưởng Cục Con nuôi, Bộ Tư
pháp cho biết, một trong những nội dung cơ bản của Dự thảo Luật Con nuôi
trình Quốc hội vào tháng 5/2010 là đưa ra quy định nghiêm cấm xử phạt đối với
những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mục đích, ý nghĩa nhân đạo của việc nuôi
con nuôi như: lợi dụng việc nuôi con để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại
tình dục, mua bán trẻ em… Quá trình xây dựng và điều chỉnh về con nuôi, Việt
Nam đi theo hướng tách bạch quyền nuôi dưỡng, quyền tiếp nhận viện trợ nhân
đạo cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và quyền cho con nuôi. Việc ban hành luật
nuôi con nuôi đã đảm bảo được bốn nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em:

7


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
- Quyền được sống: bao gồm quyền của trẻ em được sống và được đáp
ứng những nhu cầu để tồn tại, như: mức sống đủ, có nơi ở, dinh dưỡng
và chăm sóc sức khoẻ.

- Quyền được phát triển: gồm những thứ trẻ em cần có để phát triển
đầy đủ hất như quyền giáo dục, vui chơi, các hoạt động văn hóa, tiếp
cận thông tin...
- Quyền được bảo vệ: đòi hỏi trẻ em phải được bảo vệ, chống tất cả các
hình thức lạm dụng, sao nhãng và bóc lột.
- Quyền được tham gia: cho phép trẻ em đóng một vai trò tích cực
trong cộng đồng và đất nước của các em, gồm sự tự do diễn đạt, bày tỏ
quan điểm.
3. Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về nuôi con nuôi đối với
bảo vệ quyền trẻ em
- Cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong việc quản lý nhà nước về nuôi
con nuôi là Bộ Tư pháp, cụ thể là “Cơ quan con nuôi Trung ương”. Vì
vậy, cần bổ sung vào dự thảo Luật các quy định cụ thể về thủ tục thành
lập cơ quan này, về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn…
- Mục tiêu của việc ban hành Luật Nuôi con nuôi là tôn trọng và bảo
đảm các quyền trẻ em; bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên
nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của em vì vậy dự thảo Luật
không nên phân biệt hình thức nuôi con nuôi đơn giản và nuôi con nuôi
trọn vẹn nhằm tránh gây bất ổn cho trẻ, đảm bảo cho trẻ được sống
trong gia đình trọn vẹn, bình yên hưởng được quyền như trẻ bình
thường khác. Dự thảo Luật chỉ nên quy định chung về hình thức con
nuôi nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho đối tượng trẻ em này đồng
8


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
thời các văn bản hướng dẫn cũng phải thống nhất về thủ tục, hồ sơ
nhận nuôi con nuôi.
- Thực tế hiện nay không chỉ có trẻ bị bỏ rơi tại các cơ sở y tế mà còn
nhiều trường hợp trẻ bị bỏ rơi tại một số nơi như chợ, khu chế xuất,

khu công nghiệp … Vì vậy, đề nghị bổ sung thêm quy định trẻ bị bỏ
rơi “nơi công cộng”. Ngoài ra, cần quy định thêm trường hợp trẻ em bị
bỏ rơi ở các cơ sở tôn giáo khi không được sự đồng ý cho chuyển đến
cơ sở nuôi dưỡng thì giải quyết như thế nào?
- Cần có quy định tạo mọi điều kiện cho trẻ em có môi trường chăm sóc
thay thế phù hợp (gia đình thay thế) Luật mới quan tâm đến khía cạnh
pháp lý và thủ tục hành chính của việc cho và nhận con nuôi; chưa
quan tâm đến khía cạnh chất lượng bảo vệ chăm sóc trẻ em, khi trẻ em
được nhận làm con nuôi; vì vậy cần bổ sung một số điều về bảo vệ
quyền lợi cơ bản của trẻ em được nhận làm con nuôi; các tiêu chuẩn
thực hành tốt nhất để bảo vệ trẻ em.

III.

KẾT LUẬN

Việc ban hành Luật nuôi con nuôi thể hiện sự quan tâm sâu sắc của
Đảng, Nhà nước đối với công tác bảo vệ trẻ em, tạo cơ sở để Chính phủ ban
hành và thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm khuyến khích, động viên và
9


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
tăng cường trách nhiệm của toàn xã hội trong việc giúp đỡ trẻ em nhất là đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Hơn hết, tạo điều kiện để các em được chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình, hòa nhập với cộng đồng và
có điều kiện phát triển thành người có ích cho xã hội. Luật Nuôi con nuôi cũng
tạo cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các cặp vợ
chồng trong nước mong muốn có con nuôi; bảo vệ quyền và lợi ích của cha mẹ
nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con

nuôi như con đẻ. Ngoài ra việc ban hành Luật Nuôi con nuôi còn thể hiện sự tôn
trọng các cam kết quốc tế của Nhà nước đã đưa ra khi tham gia Công ước quốc
tế về quyền trẻ em, tôn trọng và bảo đảm các quyền trẻ em…

MỤC LỤC
I.

LỜI MỞ ĐẦU

II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
10


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08

1. Khái niệm chung về nuôi con nuôi
2. Những quy định về nuôi con nuôi trong luật hôn nhân và gia đình
năm 2003 đối với quyền trẻ em
3. Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về nuôi con nuôi đối
với bảo vệ quyền trẻ em

III.

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt

Nam, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009
11


Bài tập lớn hôn nhân và gia đình _Lớp N02.Nhóm08
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2003, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lí về nuôi con nuôi ở Việt
Nam, Nguyễn Phương Lan, Luận án tiến sĩ luật học, 2007
4. Tham khảo Internet

12



×