Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) và thực tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.93 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh khu vực hóa, tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới, Việt Nam
đang trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kinh doanh bảo hiểm đã và đang trở
thành một trong những hoạt động sôi động, mục đích đạt được lợi ích tối đa
trong việc tham gia quan hệ kinh doanh bảo hiểm trở thành động lực chính của
các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay. Nhưng có thể thấy người tham gia bảo
hiểm nói chung và người được bảo hiểm nói riêng lại ln ở vào thế yếu so với
người khổng lồ - bên bảo hiểm. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật nói
chung, pháp luật kinh doanh bảo hiểm nói riêng là phải bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, giúp cho quan hệ đó
ổn định và phát triển phù hợp với tình hình của đất nước.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những quy định về kinh doanh bảo
hiểm cụ thể là Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010. Một
trong những nguyên tắc cơ bản được thể hiện xuyên suốt, nổi bật trong quá trình
xây dựng, ban hành và trong các chế định của Luật kinh doanh bảo hiểm là
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm. Với việc thực hiện
nguyên tắc này, Luật kinh doanh bảo hiểm đã góp phần quan trọng vào việc bảo
đảm sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đặt nhân tố con người và
lợi ích chính đáng của họ vào vị trí trung tâm của mọi chế độ, chính sách tạo
điều kiện cho người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm phát huy mọi
khả năng của mình, đảm bảo an tồn cho cuộc sống của mỗi con người, của các
tổ chức, ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, nguồn
an ủi và bồi thường kịp thời khi họ gặp phải những rủi ro, thiệt hại – điều mà họ
không bao giờ mong muốn. Trên cơ sở đảm bảo ổn định đời sống cho họ, đảm
bảo trật tự xã hội vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội cơng bằng , dân chủ
văn minh.
Với ý nghĩa đó, nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về nguyên
tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm được
thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) và thực tế hiện nay”.

1




Trong q trình thực hiện đề tài này, nhóm chúng em cũng phải một số
khó khăn như nhận thức cịn hạn chế, q trình làm việc nhóm cịn chưa đạt hiệu
quả cao. Tuy nhiên, nhóm chúng em hy vọng sẽ nhận được sự đóng góp từ thầy
cơ để bài tập nhóm chúng em hồn thiện hơn và rút kinh nghiệm cho những bài
tập nhóm tiếp theo.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm.
Dưới góc độ pháp lý thì kinh doanh được hiểu là: "Việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi"
(Theo khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005). Hoạt đông kinh doanh trong
một số trường hợp được hiểu như hoạt động thương mại, khoản 1 Điều 3 Luật
Thương mại 2005 giải thích: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít
người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng
cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung
và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may
bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra.1
Căn cứ theo Khoản 1, Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 sửa đổi bổ
sung năm 2010 định nghĩa về “kinh doanh bảo hiểm” như sau: “kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó
doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở
bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm”.
Như vậy, Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, chia sẻ tổn thất với

khách hàng, sản phẩm bảo hiểm là những dịch vụ mang tính đặc thù, riêng có,
1

Theo: www. Wikipedia.com
2


trừu tượng nhưng lại rất cụ thể, và thực tế hơn tất cả những sản phẩm khác trên
thị trường một khi những điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm được thực thi kịp
thời, hiệu quả sẽ đảm bảo được lợi ích của các bên.
2. Khái niệm người được bảo hiểm.
Theo định nghĩa tại Khoản 7, Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm
2000, sửa đổi bổ sung năm 2010 thì người được bảo hiểm là “tổ chức, cá nhân
có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo
hiểm”. Tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng của người được bảo hiểm chính là
đối tượng của hợp đồng bảo hiểm, được doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý bảo
hiểm theo các quy định trong Quy tắc và Điều khoản bảo hiểm. Tên Người được
bảo hiểm phải được thể hiện trong hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có
thể nhưng khơng nhất thiết là bên mua bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Người
được bảo hiểm có thể đồng thời là bên mua bảo hiểm và/hoặc Người thụ hưởng.
Vào lúc được cấp hợp đồng bảo hiểm hoặc vào Ngày hiệu lực hợp đồng,
Người được bảo hiểm phải đang cư trú tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam và trong độ tuổi từ 18 Tuổi đến 65 Tuổi (nằm trong độ tuổi bảo hiểm
theo Quy tắc và Điều khoản của Hợp đồng bảo hiểm). Người được bảo hiểm và
Bên mua bảo hiểm phải có quan hệ có thể được bảo hiểm tuân theo yêu cầu của
Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm hiện hành.2
II. NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM
TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM THEO LUẬT KINH DOANH
BẢO HIỂM.
1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm

trong kinh doanh bảo hiểm.
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo
hiểm được thể hiện trong những văn bản pháp lý mà đầu tiên là văn bản có giá
trị pháp lý cao nhất đó là Hiến pháp. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 tại Điều 50 quy định:
“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính
2

Theo “Thuật ngữ bảo hiểm” - www.manulife.com.vn
3


trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công
dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”.
Cụ thể hơn, nguyên tắc này được điều chỉnh bởi một hệ thống các văn bản
pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: Luật Kinh doanh Bảo
hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010;
Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định 123/2011/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh
doanh bảo hiểm và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định định số
45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 quy định
chế độ tài chính đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm; Thơng tư 156/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy
định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới
bảo hiểm và những văn bản hướng dẫn khác. Ngoài ra, tùy thuộc từng trường
hợp cụ thể, hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn chịu sự điều chỉnh của các luật
khác có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại...

Theo khoản 7 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000: “Người được
bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được
bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là
người thụ hưởng”. Điều 3 cũng quy định người được bảo hiểm có thể đồng thời
là bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo
hiểm chỉ ra rằng người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo
hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong
đối tượng bảo hiểm. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật kinh doanh
bảo hiểm, tuy không được đưa ra trực tiếp như là một điều luật cụ thể nhưng
nguyên tắc này được thể chế hóa thơng qua những quy định cụ thể về hợp đồng
bảo hiểm, trong đó nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tại Điều 17 và Điều 18

4


Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Điều 21 Về giải thích hợp đồng bảo hiểm.
Các điều khoản khác về cơ chế giải quyết tranh chấp, các yêu cầu về an tồn tài
chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, xử lý vi phạm,...
2. Nội dung của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong
kinh doanh bảo hiểm được thể hiện Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa
đổi).
Nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là tư tưởng chủ đạo
trong việc kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm và tham gia bảo
hiểm của tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm
là hoạt động mang tính rủi ro cao nên các doanh nghiệp cần phải tuân thủ các
nguyên tắc kinh doanh trong đó có nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo
hiểm.
Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích của người tham gia bảo hiểm khi
mua bảo hiểm là xử lý các rủi ro, khắc phục khó khăn về tài chính khi có rủi ro

xảy ra. Mặt khác, sự hiểu biết của người dân về bảo hiểm còn hạn chế, các hợp
đồng bảo hiểm thường là hợp đồng mẫu do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo.
Do đó, người được bảo hiểm thường ở thế “bấp bênh”. Vì vậy, cần đảm bảo
quyền lợi của người mua bảo hiểm nói chung cũng như người được bảo hiểm
nói riêng cần có một nguyên tắc bảo vệ lợi ích của họ trong kinh doanh bảo
hiểm.
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo
hiểm được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bố sung năm
2010 được thể hiện qua các nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Về giải thích hợp đồng bảo hiểm:
Theo quy định tại Điều 27 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bố sung
năm 2010 thì: “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản khơng rõ
ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo
hiểm”.
Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo

5


hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm
(sửa đổi). Như vậy, trên cơ sở sự thỏa thuận các bên về điều khoản của hợp
đồng, các bên có quyền và nghĩa vụ tương xứng. Tuy nhiên trong quá trình thỏa
thuận có những điều khoản khơng rõ ràng, cụ thể thì sẽ được giải thích cho bên
được bảo hiểm. Bởi, như chúng ta đã biết, việc tham gia bảo hiểm là một trong
những cách nhằm khắc phục khó khăn về tài chính khi xảy ra rủi ro. Do đó, là
một bên bị chịu thiệt hại hay nói cách khác “yếu thế hơn” vì vậy nhằm giúp khắc
phục khó khăn đó, pháp luật quy định theo hướng có lợi cho bên được bảo hiểm
khi giải thích hợp đồng. Đây là một quyền rất quan trọng được Luật kinh doanh

bảo hiểm dành cho bên mua bảo hiểm nói chung và người được bảo hiểm nói
riêng.
Thứ hai, Trường hợp bên được bảo hiểm chính là bên mua bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm khơng được phép kiện địi nộp phí khi bên mua bảo
hiểm khơng tiếp tục đóng phí cho dù đó có là lý do chính đáng hay khơng mà
phải trả lại cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hoạt động. Đóng phí bảo
hiểm là một trong những nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm nhưng pháp luật không
quy định cho bên bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua đóng phí bảo hiểm theo
đúng thỏa thuận. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm khơng tiếp tục đóng phí
dù đó có là lí do chính đáng hay khơng có nghĩa là bên mua bảo hiểm đã không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, do đó theo Khoản 2 Điều 23 Luật kinh doanh
bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực, bên bảo hiểm phải trả lại giá trị
hồn lại của hoạt động. Quy định này nhằm tơn trọng và tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho bên mua bảo hiểm khi họ khơng cịn khả năng tài chính để tiếp tục mua
bảo hiểm.
Thứ ba, Bảo đảm cho việc được bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ
của mình là thanh tốn số tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm trong thời gian
thỏa thuận ở hợp đồng kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm, nếu quá hạn mà vẫn

6


khơng chi trả số tiền đó thì doanh nghiệp phải chịu mọi trách nhiệm vật chất về
số tiền.
Theo Khoản 2 Điều 6 Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) quy định:
“Doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm các yêu cầu về tài chính để thực hiện
các cam kết của mình đối với bên mua bảo hiểm”.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 45/2007/NĐ-CP cũng quy định như sau: “Tổ
chức, cá nhân muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm,

hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam phải được Bộ Tài chính cấp Giấy
phép thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm”.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện cam kết bồi thường bảo hiểm trong
trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm. Điểm d khoản 1 Điều 18 Luật Kinh doanh
bảo hiểm quy định: “Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Đây là quyền quan trọng
nhất của bên mua bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm bị tổn thất. Khi đến một thời
điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả số
tiền bồi thường người được bảo hiểm. Để thực hiện quyền này bên mua bảo
hiểm phải thực hiện nghĩa vụ thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy
ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Quyền được bồi thường bảo hiểm bao gồm cả quyền được trả đúng và trả
đủ theo thời hạn quy định hoặc thỏa thuận trong hợp đồng. Điều 29 Luật kinh
doanh bảo hiểm quy định: “Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng bảo hiểm; trong trường hợp khơng có thoả thuận về thời hạn thì
doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm
hoặc bồi thường”. Ngoài ra, Luật kinh doanh bảo hiểm còn quy định thời hạn
yêu cầu trả tiền bồi thường là một năm kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm, trừ
trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác. Trong trường hợp bên
bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm thì phải trả cả lãi đối với số tiền chậm trả theo

7


lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền bảo
hiểm tương ứng với thời gian chậm trả. Luật kinh doanh bảo hiểm không ghi
nhận nghĩa vụ trả lãi của doanh nghiệp bảo hiểm đối với số tiền bồi thường

(nghĩa vụ này đã được quy định trong BLDS). Vì vậy quyền lợi của bên được
bảo hiểm vẫn được bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm thanh
tốn chẫm trễ. Ngồi nghĩa vụ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm cịn có nghĩa vụ trả những chi phí cần thiết như: Chi phí cần thiết hợp
lí để đề phịng hạn chế tổn thất và những chi phí phát sinh mà người được bảo
hiểm phải chịu để thực hiện chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. Chi phí liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp về trách nhiệm đối với người thứ ba và lãi
phải trả chi người thứ ba do người được bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường theo
chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm.
Ngoài ra, hiện nay Luật kinh doanh bảo hiểm sửa đổi, bổ sung năm 2010
cũng đã quy định thêm về việc thành lập quỹ bảo vệ người được bảo hiểm.Theo
Khoản 3 Điều 97 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010 đã
quy định: “Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm được thành lập để bảo vệ quyền
lợi của người được bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm phá sản
hoặc mất khả năng thanh toán.
Nguồn để lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm được trích lập theo tỷ lệ
phần trăm trên phí bảo hiểm áp dụng đối với tất cả hợp đồng bảo hiểm.
Chính phủ quy định việc trích lập và quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ người
được bảo hiểm.”
Điều đó cho thấy nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người mua bảo hiểm đã được
đặt lên hàng đầu, ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm trong những
trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm phá sản hoặc mất khả năng thanh toán. Đây
cũng là một trong những quy định thể hiện được tính quan trọng trong vấn đề
bảo vệ quyền lợi người mua bảo hiểm.

8


3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong
luật kinh doanh bảo hiểm.

Xu thế hội nhập trong khu vực và trên thế giới đang mang lại cơ hội cho
các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nhưng đồng thời cũng đi liền với nhiều
thách thức và rủi ro ở mức cao hơn. Cùng với tốc độ mở cửa ngày càng tăng, sự
tác động đối với thị trường bảo hiểm trong nước cũng sẽ chịu tác động trực tiếp
của những thay đổi, biến động của thị trường tài chính và tiền tệ tại các nước
trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập tạo ra động lực thúc đẩy đổi mới và cải
cách hệ thống các doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm cũng sẽ ngày càng trở nên gay gắt để giữ và chiếm lĩnh thị
phần. Muốn thực hiện được điều đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải
hồn thiện và phát triển các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm, đa dạng hóa sản phẩm
bảo hiểm, mở rộng các loại hình doanh nghiệp.... Trước thực tế đó, đảm bảo
hoạt động bảo hiểm một cách an toàn, lành mạnh, quyền lợi của người được bảo
hiểm được bảo vệ tốt nhất sẽ duy trì và thu hút được tối đa nguồn vốn chi trả của
người mua bảo hiểm, phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước.
Là đối tượng được hướng tới trong một hợp đồng bảo hiểm, người được
bảo hiểm có vai trị rất quan trọng trong một quan hệ bảo hiểm. Xuất phát từ tầm
quan trọng của nhân tố con người, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người được
bảo hiểm, cùng với những nguyên tắc khác của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
như nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nguyên tắc bồi thường,... là một trong
những nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ý nghĩa
này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
• Mợt là, bảo vệ người được bảo hiểm đồng nghĩa với việc tạo nguồn lực
phát triển kinh tế một cách ổn định. Thông qua hoạt động bảo hiểm, các
doanh nghiệp bảo hiểm tạo nên nguồn thu lớn cho nền kinh tế.
• Hai là, người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm, khi gặp rủi ro, bệnh tật,
người được bảo hiểm sẽ được đền bù một mức phí cao hơn, hỗ trợ một
phần tài chính trong việc bảo vệ tính mạng, tài sản.
• Ba là, ngun tắc bảo vệ người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm
mang một ý nghĩa nhân văn, tính nhân đạo, đảm bảo cơng bằng xã hội,
9



tạo nên nguồn đóng góp từ cộng đồng, chuyển giao tiềm năng rủi ro một
cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thơng qua phí bảo hiểm.
Với những ý nghĩa như thế, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo
hiểm trong kinh doanh bảo hiểm đã được thể hiện xuyên suốt trong các chế định
của pháp luật kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt trong các chế định về hợp đồng bảo
hiểm.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM
ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM.
1. Những thành tựu trong việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người
được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm được thể hiện trong Luật
kinh doanh bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây đã rất sôi động,
đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các
loại hình sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba
lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự;
tính cạnh tranh của các cơng ty đã và đang từng bước thoả mãn tốt hơn nhu cầu
của các khách hàng. Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới
và khá độc đáo trên cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm – đầu tư bảo vệ,
được công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người
sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi và sản
xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo…
Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã đạt
được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư
cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo
hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui định của nhà nước về tái
bảo hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức phí giữ lại của tồn thị trường
tăng đều qua các năm. Tổng mức phí giữ lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo

hiểm gốc, giảm được một lượng khơng nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngồi.
Theo đánh giá của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, hiện nay doanh thu phí bảo

10


hiểm của thị trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển
trong khu vực thường đạt mức 8-10% GDP (bình qn thế giới khoảng 8%) do
đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các
ngành kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có
mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng
khơng; dầu khí; Nhà máy xi măng Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các tồ nhà,
khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà xưởng, văn phịng… Hoạt động đầu tư
của các cơng ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn cho xã hội.
Dịch vụ bảo hiểm cũng từng bước được nâng cao, mang đến chất lượng,
phục vụ tận tình cho khách hàng, mang lại cho khách hành cảm giác an toàn và
tiện lợi nhất. Bảo hiểm đã đáp ứng được nhu cầu không chỉ của những tầng lớp
trung lưu, giàu có mà nó đã đến tận tay với những người dân, công nhân….với
những mức phí phù hợp và đảm bảo.
Như vậy, có thể thấy với sự phát triển của thị trường kinh doanh bảo
hiểm, thì vấn đề đảm bảo quyền lợi của người mua bảo hiểm nói chung và người
được bảo hiểm nói riêng ngày càng được đảm bảo. Sự đảm bảo đó sẽ tạo ra uy
tín cho các doanh nghiệp bảo hiểm, góp phần giữ vững lịng tin của người được
bảo hiểm.
2. Những tồn tại và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc bảo vệ
quyền lợi của người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm được
thể hiện trong luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi).
Pháp luật hiện hành có các qui định nhằm bảo vệ quyền lợi của người
được bảo hiểm tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại những bất cập, hạn chế:

Thứ nhất, Theo Điều 28, Luật kinh doanh bảo hiểm qui định: Khi bên
mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người trong trường hợp chết của
người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản, trong đó ghi rõ số tiền
bảo hiểm và người thụ hưởng (khoản 1). Ngoài ra, không được giao kết hợp
đồng bảo hiểm cho trường hợp chết cả những người đang mắc bệnh tâm thần
hoặc người dưới 18 tuổi (trừ trường hợp được sự đồng ý bằng văn bản của cha

11


mẹ, hoặc người giám hộ của người này) (khoản 2). Cơ sở của qui định này là,
khi bên mua bảo hiểm giao kết Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp
chết của người được bảo hiểm (không đồng thời là bên mua bảo hiểm), thì bên
mua bảo hiểm đã gắn cái chết của người được bảo hiểm với việc người thụ
hưởng sẽ nhận được tiền bảo hiểm. Điều này tiềm ẩn nguy cơ người thụ hưởng
có thể cố ý gây ra cái chết của người được bảo hiểm để được nhận tiền bảo
hiểm. Do đó, người được bảo hiểm cần phải biết và đồng ý với việc mua bảo
hiểm cho sinh mạnh của mình cũng như có quyền đồng ý hay không đồng ý về
người thụ hưởng được chỉ định trong hợp đồng, như vậy sẽ hạn chế phần nào
nguy cơ người được bảo hiểm bị gây hại.3
Đối với những người đang mắc bệnh tâm thần, họ khơng có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình một cách bình thường, do đó pháp
luật của hầu hết các nước đều cấm mua bảo hiểm cho trường hợp chết của
những người này nhằm tránh việc tính mạng của họ bị người khác xâm hại để
trục lợi bảo hiểm. Cịn những người dưới 18 tuổi là người có năng lực hành vi
dân sự không đầy đủ, khả năng bảo vệ tính mạng, sức khỏe của họ có những hạn
chế nhất định, dẫn đến dễ bị xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp. Do vậy
pháp luật quy định cần phải có sự đồng ý của cha mẹ, người giám hộ của người
này để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của họ.
Thứ hai, sự không thống nhất giữa quy định của BLDS và Luật kinh

doanh bảo hiểm. Cụ thể quy định tại Điều 578 BLDS về việc trả tiền trong
trường hợp bảo hiểm tính mạng khơng thống nhất với qui định tại Luật Kinh
doanh bảo hiểm
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, trong hợp đồng bảo hiểm cho
trường hợp chết của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng chỉ định trong hợp đồng khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm. Tuy nhiên tại Điều 578 BLDS năm 2005 lại qui định, trong trường hợp
bảo hiểm tính mạng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên bảo hiểm phải trả tiền cho
Luận văn thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về bảo hiểm nhân thọ trước yêu cầu bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia hợp đồng”. Phan Thị Thanh Mai, Hà Nội 2006. Người hướng dẫn : TS.
Nguyễn Ánh Vân.
3

12


bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo ủy quyền của họ, nếu bên được bảo
hiểm chết thì tiền bảo hiểm được trả cho người thừa kế của bên được bảo hiểm.
Quy định này của BLDS không phù hợp vơi đặc thù của quan hệ bảo
hiểm, làm hạn chế quyền tự định đoạt của bên mua bảo hiểm, đồng thời có thể
dẫn đến mâu thuẫn trong áp dụng pháp luật. Trên thực tế đã xảy ra trường hợp
tranh chấp giữa người thụ hưởng theo hợp đồng kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
với người thừa kế của người được bảo hiểm mà mỗi bên đều có căn cứ luật định
để địi được nhận tiền bảo hiểm. Đó là trường hợp khơng T.V.A mua bảo hiểm
nhân thọ hỗn hợp cho chính ông A, hợp đồng có thời hạn 10 năm và người thụ
hưởng là vợ ông, bà N.T.Y. Hai năm sau, ông A và bà Y ly hôn. Ông A vẫn tiếp
tục duy trì hợp đồng bảo hiểm, nhưng lại khơng thay đổi người thụ hưởng. Sau
đó 5 năm, ơng A chết. Lúc này các con ông A yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền bảo hiểm cho họ theo quy định của BLDS; còn bà Y cũng yêu cầu được
nhận tiền bảo hiểm vì bà là người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm4.

Rõ ràng, trong các trường hợp như trên, doanh nghiệp bảo hiểm cũng như
cơ quan pháp luật sẽ gặp khó khăn nhất định khi giải quyết vụ việc, không bảo
vệ thỏa đánh quyền lợi của người thụ hưởng và các chủ thể liên quan.
Thứ ba, Quy định về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nếu áp dụng cho
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì chưa giải quyết được các vấn đề liên quan,
không bảo vệ thỏa đáng quyền lợi của người được bảo hiểm và người thụ
hưởng.
Trong phần quy định chung về hợp đồng bảo hiểm của Luật Kinh doah
bảo hiểm (sửa đổi) tại Điều 26, khoản 1 quy định: Bên mua bảo hiểm có thể
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Quy định này nếu áp dụng vào hợp đồng bảo hiểm tài sản thì khơng có vấn đề
gì, vì đối tượng được bảo hiểm là tài sản cụ thể và các quyền, nghĩa vụ của các
bên liên quan được xác định khá rõ ràng. Nhưng nếu áp dụng vào chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là trong trường hợp bên mua bảo
Trang 60 - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về bảo hiểm nhân thọ trước yêu cầu bảo
vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng”. Phan Thị Thanh Mai, Hà Nội 2006. Người
hướng dẫn : TS. Nguyễn Ánh Vân
4

13


hiểm khơng đồng thời là người được bảo hiểm, thì có rất nhiều vấn đề đặt ra như
5

:

+ Khi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là vẫn giữ nguyên người
được bảo hiểm và chỉ thay đổi bên mua bảo hiểm, người thụ hưởng hay chuyển
nhượng toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này cho các chủ thể khác

thay thế? Các chủ thể mới có phải đáp ứng điều kiện gì khơng?
+ Nếu thay đổi cả người được bảo hiểm thì vấn đề quyền của doanh nghiệp bảo
hiểm trong việc chấp nhận chuyển nhượng hợp đồng như thế nào?
+ Nếu không thay đổi người được bảo hiểm thì có cần phải được sự đồng ý của
người được bảo hiểm về việc chuyển nhượng không?.
Do vậy, pháp luật cần có quy định cụ thể vè chuyển nhượng hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ nhằm giải quyết các vấn đề trên, bảo vệ thỏa đáng quyền lợi của
các chủ thể liên quan đến hợp đồng được chuyển nhượng, đặc biệt là quyền lợi
của người được bảo hiểm.
Thứ tư, Chưa quy định cụ thể về điểu khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người được bảo hiểm.
Theo Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm: “1. Điều khoản loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi
thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm; 2.
Điều khoản này phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp
bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng; Không
áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây:
a) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vơ ý;
b) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thơng báo cho doanh
nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện được bảo hiểm”.
Đây là quy định chung áp dụng cho mọi loại hình hợp đồng bảo hiểm, bao
gồm cả bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Ngoài việc yêu cầu các
doanh nghiệp bảo hiểm phải quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm các trường
Trang 61 - Luận văn thạc sĩ Luật học: “Pháp luật về bảo hiểm nhân thọ trước yêu cầu bảo
vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng”. Phan Thị Thanh Mai, Hà Nội 2006. Người
hướng dẫn : TS. Nguyễn Ánh Vân
5

14



hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm để khách hàng có thể biết rõ trước thời điểm
giao kết hợp đồng bảo hiểm để xem xét đồng ý hay từ chối tham gia bảo hiểm,
luật pháp cũng có những quy định hạn chế nhất định liên quan đến vấn đề này.
Quy định những trường hợp không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm chính là một hạn chế như vậy với mục đích bảo vệ người tiêu dùng sản
phẩm bảo hiểm theo đúng thông lệ và đạo lý xã hội.
Tuy nhiên, quy định nói trên là chưa phù hợp, bởi nó chỉ giới hạn đối với
đối tượng là “người mua bảo hiểm”- điều này chỉ có thể đúng đối với loại hình
bảo hiểm tài sản hay bảo hiểm trách nhiệm dân sự cịn đối với bảo hiểm con
người thì đối tượng là “người được bảo hiểm” hay “người thụ hưởng” chưa
được điều luật này đề cập đến. Vì trong rất nhiều hợp đồng bảo hiểm con người,
người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng không trùng là
một. Thực tiễn việc áp dụng điều khoản loại trừ trong trường hợp này theo Pháp
luật về bảo hiểm các nước cũng như các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đang được
các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai tại Việt Nam và các thị trường khác thì
doanh nghiệp bảo hiểm không trả tiền bảo hiểm chỉ đối với “hành vi cố ý vi
phạm pháp luật của người được bảo hiểm”.
Như vậy, riêng đối với loại hình bảo hiểm con người thì cần phải áp dụng
điều khoản loại trừ đối với người được bảo hiểm vi phạm pháp luật do cố ý chứ
không phải bên mua bảo hiểm mới là hợp lý.
Bên cạnh đó, từ quy định của Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm, nếu
theo tinh thần “được làm những gì mà pháp luật khơng cấm” thì doanh nghiệp
bảo hiểm có quyền đưa vào điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với
trường hợp sự kiện bảo hiểm xảy ra do người được bảo hiểm hay người thụ
hưởng vi phạm pháp luật do vô ý và chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm
về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm hay khơng? Và như vậy, lợi ích chính đáng của
người mua bảo hiểm, người thụ hưởng, người được bảo hiểm có được bảo vệ
hay khơng? Rõ ràng đây là một điểm khuyết thiếu cần thiết phải xem xét bổ
sung.


15


Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, khoản 1 Điều 39 Luật kinh doanh
bảo hiểm quy định về các trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không trả tiền bảo
hiểm như sau:
a) Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn 2 (hai) năm kể từ ngày nộp
khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng tiếp tục có hiệu lực;
b) Người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý
của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng;
c) Người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình.”
Rõ ràng, những quy định này đều nhằm đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp bảo
hiểm, chống lại các trường hợp trục lợi bảo hiểm; đồng thời duy trì và bảo vệ
đạo lý nói chung, khơng chấp nhận thanh tốn tiền bảo hiểm cho những trường
hợp đi ngược lại đạo đức như giết hoặc làm người được bảo hiểm bị thương tật
để thu lợi từ doanh nghiệp bảo hiểm hay phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng bị
xã hội lên án. Tuy nhiên, điều luật này có một số bất cập, đó là:
Một , Tại điểm b Khoản 1 Điều 39 Luật này chỉ dừng lại ở việc quy định
trường hợp “người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do
lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng” . Quy định
này là chưa phù hợp bởi lẽ trên thực tế các sản phẩm bảo hiểm con người đang
được các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai hiện nay đều có phạm vi bảo hiểm
rất rộng bao gồm các rủi ro: chết, thương tật toàn bộ vĩnh viễn, thương tật bộ
phận vĩnh viễn, ốm đau, bệnh tật… Do vậy, quy định trên là chưa đủ vì đã bỏ
qua các trường hợp “người được bảo hiểm bị thương tật bộ phận vĩnh viễn, ốm
đau, bệnh tật...do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ
hưởng”. Theo tôi để bao quát được mọi trường hợp nên sửa đổi điểm b khoản 1
Điều này như sau: “rủi ro được bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm do
lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người

thụ hưởng”.
Hai , theo Điểm c Khoản 1 Điều 39 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
sửa đổi bố sung năm 2010 thì doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể từ chối trả tiền
bảo hiểm trong trường hợp “người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử

16


hình”. Điều này có nghĩa là nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra do người được bảo
hiểm có hành vi cố ý vi phạm pháp luật (ngoại trừ trường hợp họ bị thi hành án
tử hình) thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Tuy
nhiên, quy định này là quá “hẹp” vì chưa thể hiện được mục đích thứ hai của
điều khoản loại trừ đã đề cập ở trên, không phù hợp với thông lệ quốc tế và các
sản phẩm bảo hiểm con người đặc biệt là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đã và
đang được các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai. Chẳng hạn, điều khoản hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường Việt
Nam hiện nay quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong trường hợp: “người
được bảo hiểm tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp, chống cự khi bị bắt
giữ hay vượt ngục”, “người được bảo hiểm có hành động phạm tội”, “hành vi cố
ý vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm”... Rõ ràng các quy định này xét
trên khía cạnh pháp luật thì chưa tương thích với quy định tại Điều 39 Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010. Tuy nhiên, xét trên phương
diện lý luận về bảo hiểm nhân thọ và pháp luật cũng như thơng lệ của các nước
trên thế giới thì hồn tồn phù hợp. Do vậy, trong xu thế hội nhập như hiện nay
cần thiết phải có sự thay đổi với thực tế khách quan và sự phát triển chung của
toàn cầu.
Ba, hiện nay trên thực tế ngoài các trường hợp quy định tại các điều luật
nói trên các doanh nghiệp bảo hiểm đều mở rộng phạm vi loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm bằng việc đưa vào điều khoản bảo hiểm mẫu các trường hợp doanh
nghiệp bảo hiểm không bồi thường hay chi trả quyền lợi bảo hiểm đối với sự

kiện bảo hiểm xảy ra có nguyên nhân từ các sự kiện sau: chiến tranh (có tun
bố hay khơng tun bố), các hành động thù địch hoặc mang tính chiến tranh, nội
chiến, nổi loạn, bạo động hay bạo loạn dân sự; sóng thần, núi lửa, nhiễm phóng
xạ, tham gia các cuộc đua, hoạt động thể thao chuyên nghiệp hoặc hoạt động
dưới nước có sử dụng mặt nạ thở…Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người
được bảo hiểm, các nhà làm luật của Việt Nam nên nghiên cứu và pháp điển hóa
các trường hợp này trong Luật kinh doanh bảo hiểm theo đó quy định rõ các
thảm họa hay sự kiện nào, với mức độ như thế nào có thể dẫn đến việc doanh

17


nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh tốn thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải
trả tiền bảo hiểm.
Tuy nhiên, cũng cần có quy định để ngăn ngừa trường hợp các doanh
nghiệp bảo hiểm áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm một cách
không hợp lý, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng (vì hợp đồng bảo
hiểm là một loại hợp đồng gia nhập và khách hàng khơng có quyền thương thảo
về bất cứ nội dung điều khoản nào của hợp đồng).
KẾT LUẬN
Kinh doanh bảo hiểm là một trong những hoạt động thương mại ngày
càng được phát triển. Đây cũng là một lĩnh vực phức tạp đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp cần phải có nguồn nhân lực có chun mơn, nghiệp vụ cao. Hiện nay,
pháp luật đã có những quy định cụ thể về lĩnh vực này. Tuy nhiên, vấn đề đảm
bảo quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm nói chung hay nói cách
khác là thực hiện các nguyên tắc mà luật kinh doanh bảo hiểm đề ra trong đó có
nguyên tắc bảo vệ người được bảo hiểm vẫn còn tồn tại những hạn chế. Vì vậy,
hồn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nói chung và đề cao nguyên tắc
bảo vệ người được bảo hiểm nói riêng trong thời gian tới là một yêu cầu cần
thiết nhằm tạo hành lang pháp lý cho thị trường bảo hiểm phát triển.


18


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN............................................................................................................2
1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm.................................................................................................2
2. Khái niệm người được bảo hiểm................................................................................................3
II. NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM
THEO LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM...................................................................................................3
1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo
hiểm................................................................................................................................................3
2. Nội dung của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm
được thể hiện Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi)........................................................................5
3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong luật kinh doanh bảo
hiểm................................................................................................................................................9
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG KINH
DOANH BẢO HIỂM ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM....................................10
1. Những thành tựu trong việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm trong
kinh doanh bảo hiểm được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm.........................................10
2. Những tồn tại và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người
được bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm được thể hiện trong luật kinh doanh bảo hiểm (sửa
đổi)...............................................................................................................................................11

KẾT LUẬN.........................................................................................................18

19




×