Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành-Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.11 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những yêu
cầu quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là yếu tố tạo
ra lực đẩy hỗ trợ cho quá trình đổi mới hình thức chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, để làm được điều đó trước hết các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương
cần thực hiện đúng, đấy đủ, có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo
quy định của hiến pháp, pháp luật.
Mặt khác, các cơ quan quyền lực nhà nước phải bết nắm rõ tình hình thực tế, nắm bắt
thời cơ đưa ra những chính sách phù hợp có lợi cho nhân dân, đất nước. HĐND được thành
lập ở cấp tỉnh, huyện, xã. HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ nhân dân. HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng ở địa phương.
Vì vậy, hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung đến nay vẫn chưa thực sự đáp ứng
yêu cầu thực tế. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới
và nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi
hỏi phải đổi mới nâng cao hiệu hoạt động của HĐND các cấp. Vì vây, em xin chọn đề bài "
Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hànhThực trạng và giải pháp".
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN Ở NƯỚC TA.
I.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của HĐND trong lịch sử lập pháp Việt
Nam.
Sau khi cách mạng tháng 8-1945 thắng lợi, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức
của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời. Cũng từ đây, bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được
thiết lập, nhân dân đã lần đầu tiên thực hiện quyền bầu cử để bầu ra chính quyền các cấp,
trong đó có chính quyền địa phương (gồm:Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các
cấp).
Kể từ đó đến nay, đã 65 năm qua, mặc dù có những sự thay đổi cho phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện của đất nước nhưng dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào (thời chiến hay thời
hoà), chính quyền các cấp nói chung và chính quyền địa phương (trong đó có Hội đồng
nhân dân) đã làm tròn vai trò là cơ quan quyền lực của nhân dân. Nhờ vậy, quyền làm chủ


của nhân dân ngày càng được đảm bảo và mở rộng hơn.
Ngược dòng lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng trong Hiến pháp 1946 đã dành hẳn một
chương để quy định về tổ chức và hoạt động Hội đồng nhân dân (ChươngV của Hiến pháp
1946), cụ thể tại Điều 58 đã nêu “Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do
đầu phiếu phổ thông, trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử
ra Ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do
Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu
ra”. Như vậy, ngày từ lúc mới thành lập, Hội đồng nhân dân chỉ có 02 cấp, đó là cấp tỉnh và
cấp (không có cấp huyện như ngày nay).
Đến Hiến pháp 1959, quy định về tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp cũng đã có
sự thay đổi so với trước, cụ thể tại Điều 78 nêu “Các đơn vị hành chính trong nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà phân định như sau:

1


Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;Tỉnh chia thành
huyện, thành phố, thị xã;Huyện chia thành xã, thị trấn.Các đơn vị hành chính trong khu vực
tự trị do luật định”.
Điều 79 quy định: “Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban hành chính.Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ”.
Theo quy định trên thì Hội đồng nhân dân đều được thành lập ở các cấp (tỉnh, huyện,
xã), như vậy hiến pháp cho phép tổ chức hội đồng nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, thời kỳ
này đất nước còn chiến tranh, nên Hiến pháp còn quy định thêm về tổ chức của hội đồng
nhân dân các khu tự trị (Điều 92 Hiến pháp 1959 ).
Kế thừa những quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 vẫn
tiếp tục ghi nhận các quy định về tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp (thành lập Hội đồng
nhân dân ở 3 cấp: tỉnh, huyện, xã), và khi đất nước đã thống nhất toàn vẹn lãnh thổ nên
không còn ghi nhận quy định về việc tổ chức Hội đồng nhân dân của các khu tự trị như

hiến pháp 1959 nữa.
I.2.1.Vị trí, tính chất pháp lý của HĐND.
Hệ thống chính quyền địa phương ở nước ta bao gồm hai phân hệ cơ quan chính song
song tồn tại là: HĐND và UBND. Trong đó, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, là cánh tay nối dài của Quốc hội, HĐND giữ vai trò quan trọng trong việc đề ra
chủ trương, chính sách, phối hợp với UBND, TAND, VKSND tạo nên một bộ máy chính
quyền địa phương hoàn chỉnh.
Vị trí, tính chất, quyền hạn và hoạt động của HĐND hiện nay được quy định rất cụ thể
trong các văn bản pháp luật như: Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam(1992, sửa đổi và bổ sung năm 2001), Luật tổ chức HĐND và UBND do Quốc hội
khóa IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/01/2003. Quy chế hoạt động của HĐND được
ban hành kèm theo nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH ngày 02/04/2005 của UBTVQH
khóa IX và trong các văn bản dưới luật khác.
Điều 119 Hiến pháp 1992 quy định vị trí, tính chất pháp lý của HĐND các cấp và được
cụ thể hóa trong Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 như sau: " HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chụi trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan nhà nước cấp trên".
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương: Điều này thể hiện rõ ở chỗ
HĐND được nhân dân giao quyền thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, có quyền
quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, biến ý chí của nhân dân địa phương
thành quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc đối với dân cư trên lãnh thổ địa phương, bầu
ra UBND, Thường trực HĐND, hội thẩm TAND cùng cấp, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước ở địa phương, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước ở địa phương và việc
tuân theo pháp luật ở địa phương. HĐND thực hiện quyền làm chủ của nhân dân địa
phương trên địa bàn lãnh thổ, đồng thời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao.
HĐND sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi địa phương của mình. Điều này có tính
chất quyết định tới phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND.
Cùng với tính quyền lực, HĐND còn là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín. Theo pháp

luật hiện hành thì HĐND có vị trí đặc biệt trong BMNN ở địa phương. HĐND là cơ quan
mang vị trí , tính chất: Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và là cơ quan đại diện

2


cho ý chí và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Hai vị trí, tính chất này gắn liền với
nhau trong tổ chức và hoạt động của mình, HĐND phải thực hiện đầy đủ hai vị trí,
tính chất đó. Nếu quá thiên về tính đại diện mà không thể hiện tính quyền lực nhà nước
thì HĐND chỉ là tổ chức xã hội. Còn nếu chủ thiên về tính quyền lực mà không chú ý tới
tính đại diện thì HĐND sẽ trở thành cơ quan nhà nước quan liêu, xa rời dân. Chỉ khi nào
HĐND kết hợp nhuần nhuyễn hai tính chất trên đây trong tổ chức và hoạt động của mình
thì HĐND mới thực sự là cơ quan nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
I.2.2. Cơ cấu tổ chức HĐND.
Điều 118 Hiến pháp 1992(sửa đổi bổ sung năm 2001): Các địa vị hành chính của nước
CHXHCN Việt Nam được phân định như sau:
" Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tỉnh chia thành huyện,
thành phố thuộc tỉnh và thị xã, thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và
thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã,
quận chia thành phường. Việc thành lập HĐND và UBNDở các đơn vị hành chính do luật
định"
Cụ thể hóa Điều 118, Hiến pháp năm 1992, Điều 4 Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 quy định:" HĐND và UBND được tổ chức ở các đơn vị hành chính sau đây:
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là cấp tỉnh )
- Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là cấp huyện )
- Xã, phường, thị trấn ( gọi chung là cấp xã )
Như vậy, HĐND theo quy định của pháp luật hiện hành được phân chia thành 3 cấp:
- Cấp tỉnh cơ cấu tổ chức HĐND gồm: Thương trực HĐND ( Chủ tịch, Phó chủ tịch,
Uỷ viên Thường trực), các ban của HĐND ( gồm các ban: Ban kinh tế và ngân sách, Ban
văn hóa - xã hội, Ban pháp chế, và những tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số thì có thể thành

lập thêm Ban dân tộc)
- Cấp huyện gồm: Thường trực HĐND ( Chủ tịch, Phó chủ tịch và Uỷ viên thường
trực), các Ban của HĐND ( Ban kinh tế và và xã hội, Ban pháp chế )
- Cấp xã HĐND gồm: Thường trực HĐND ( Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND )
I.2.3.Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của HĐND.
Theo hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND có
3 chức năng cơ bản sau:
- Thứ nhất: quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng
của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm chọn nhiệm vụ của địa phương đối với cả nước.
- Thứ hai: Bảo đảm thực hiện các quy định, quyết định của các cơ quan nhà nước cấp
trên và trung ương ở địa phương.
- Thứ ba: Thực trạng giám sát đối với thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND
cùng cấp, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, công dân ở địa phương. Các chức năng của HĐND được cụ thể hóa thành các
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được quy định tại Chương II, Luật tôr chức HĐND và
UBND năm 2003, trong đó nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp HĐND trong mỗi đơn vị
hành chính lại được phân tách cụ thể: cấp tỉnh từ Điều 11 đến Điều 18, cấp huyện từ điều
19 đến 26, và từ 27 đến 35 là nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã. Cùng với cơ quan
chấp hành của mình, HĐND thực hiện nhiệm vụ đề ra chủ trương, kế hoạch phát triển

3


kinh tế - xã hội trên phạm vi lãnh thổ của mình, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và lợi ích
hợp pháp của công dân.
I.2.4.Hình thức hoạt động của HĐND.
Với tư cách là cơ quan" tự quản" ở địa phương các hình thức hoạt động của HĐND
trở nên rất phong phú như: thông qua kì họp, hoạt động của Thường trực HĐND, Các ban

của HĐND và thông qua các đại biểu HĐND. Chức năng của HĐND có thể thực hiện
được hay không cũng là nhờ cơ cấu thống nhất này quyết định.
- Thông qua các kỳ họp HĐND:
Các kỳ họp là hoạt động chính, giữ vị trí quan trọng nhất trong các hình thức hoạt
động của HĐND các cấp. HĐND hoạt động taaoj trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ
họp của mình. Tại đây các vấn đề quan trọng, cơ bản thuộc phạm vi quyền hạn của mình
được HĐND đưa ra xem xét, thảo luận và quyết định theo đa số. Nếu như trước đây theo
quy định của pháp luật thì cứ 3 tháng HĐND họp thường lệ 1 lần nhưng hiện nay theo
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, thường lệ của HĐND giảm xuống còn 2 kỳ họp
trên một năm, thường diễn ra vào giữa và cuối năm. Ngoài ra, HĐND có thể họp thường
theo chuyên đề hoặc họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND
cùng cấp hoặc khi yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND.
Tại kỳ họp HĐND có thể ban hành các nghị quyết, kỳ họp của HĐND được tiến hành
khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu HĐND tham gia- quyết định bắt buộc để bảo đảm tính
thống nhất, dân chủ, tinh thần tập thể trong hoạt động của HĐND nhằm nâng cao tinh
thần trách nhiệm của các đại biểu HĐND. Kỳ họp thứ nhất mỗi khóa HĐND được coi là
kỳ họp quan trọng nhất. Tại vì kì họp này sẽ tiến hành một loạt các công việc quan trọng
như: Thẩm tra tư cách đại biểu HĐND, bầu ra Thường trực HĐND, các Ban của HĐND,
UBND cùng cấp.
- Thông qua hoạt động của Thường trực HĐND.
Thường trực HĐND có vai trò rất lớn trong hoạt động của HĐND, vì HĐND chỉ họp
thường lệ mỗi năm 2 lần, mỗi kì họp chỉ diễn ra trong mật vài ngày mà khối lượng công
việc cần giải quyết quá nhiều. Vì vậy, khi HĐND không họp thì cần có cơ quan để giải
quyết các vấn đề phát triển giữa hai kì họp. Nhiệm vụ đó được Thường vụ Quốc hội đảm
nhiệm. Thường trực HĐND được thành lập ở 3 cấp: tỉnh, huyện, xã, tuy nhiên ở cấp xã
khác so với cấp tỉnh và cấp huyện là không có Uỷ viên Thường trực. Để bảo đảm cho hoạt
động giám sát của HĐND đượct hực hiện khách quan và hiệu quả, Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 quyết định thành viên của Thường trực HĐND không thể đồng thời là
thành viên của UBND cùng cấp.
Điều 53 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định rất rõ về

nhiệm vụ của Thường trực HĐND. Theo đó, Thường trực HĐND làm một số nhiệm
vụ cơ bản: Triệu tập, chủ tọa các kỳ họp của HĐND, phối hợp với UBND trong việc
chuẩn bị kỳ họp của HĐND, đôn đóc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước
khác ở địa phương, thực hiện nghị quyết của HĐND, tiếp dân. kiểm tra xem xét tình hình
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; phối hợp với UBND cùng cấp bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu ra theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận tổ
quốc cùng cấp hoặc của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND...
- Thông qua các Ban của HĐND.
Là cơ quan tham mưu, giúp việc cho HĐND, là hình thưc tham gia tập trung các đại
biểu HĐND vào việc thực hiện các nhiệm vụ , quyền hạn của HĐND. Tuy chỉ được thành
lập ở cấp tỉnh, cấp huyện,nhưng các ban của HĐND có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc giúp HĐND thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. HĐND cùng cấp quyết

4


định số lượng thành viên của Ban cũng giống như thành viên của Thường trực HĐND thì
thành viên trong các Ban cúng không đồng thời là thủ trưởng của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND, VKSND, chánh ánTAND cùng cấp.
Chức năng các Ban của HĐND được quy định cụ thể tại Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 và Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005. Theo đó, các Ban vừa là
cơ quan tư vấn cho HĐND trong việc quyết định các chính sách quan trọng vừa góp phần
bảo đảm cho hoạt đọng của HĐND được hiệu quả hơn.
- Thông qua Đại biểu HĐND.
Đại biểu HĐND do nhân dân địa phương bầu ra, là những người đại diện cho ý trí,
nhiệm vụ của nhân dân, đại biểu HĐND được ví như tế bào sống quyết định sự tồn tại của
HĐND. Hoạt động của Đại biểu HĐND góp phần quan trọng trong việc xây dựng và hoàn
thiện các chủ trương, chính sách của HĐND.
Theo quy định của Luật bầu cử HĐND và UBND năm 2003 thì cơ cấu thành phần của
HĐND phải đảm bảo các đại biểu, đại diện cho tất cả các ngành, các giới, các đoàn thể

quàn chúng, những người trực tiếp tham gia lao động sản xuất, các tành phần tôn giáo,
dân tộc...trên địa bàn.
Số lượng các đại biểu HĐND ở từng cấp có sự khác nhau:ở cấp xã từ 25 đến 35 đại
biểu, cấp huyện từ 30 đến 40 đại biểu, cấp tỉnh 50 đến 58. Riêng thủ đô Hà Nội và các
thành phố trực thuộc trung ương khác có trên 3 triệu dân bầu không quá 95 đại biểu( Điều
9 Luật bầu cử đại biểu HĐND năm 2003).
Về nhiệm vụ, đại biểu HĐND có trách nhiệm phải tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên
họp HĐND phải tham gia đóng góp ý kiến và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND. Đại biểu HĐND phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc
chủ động liên hệ với quần chúng, đi sau đi sát để kịp thời phản ánh những tâm tư nguyện
vọng của quần chúng. Bên cạnh những nhiệm vụ được pháp luật quy định thì HĐND cũng
có những quyền hạn nhất định: HĐND có quyền tham gia các kỳ họp, phiên tòa của
HĐND, tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề đưa ra tại phiên họp đó, quyền tham
gia bầu cử và có thể được bầu cử vào Thường trực hoặc Ban của HĐND, có quyền chất
vấn chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND chất vấn người đứng
đầu: VKSND, TAND, Thứ trưởng cơ quan chuyên môn của UBND.
Qua tìm hiểu ta thấy, HDDND theo quy định của pháp luật hiện hành, cho chúng ta
thấy HĐND có vị trí quan trọng trong hệ thống chính quyền địa phương ở nước ta. HĐND
được coi là tổ chức đại diện chính thức cho toàn bộ dân cư trên địa bàn. Tính đại diện
chính thức thể hiện ở việc HĐND là cơ quan nhà nước do nhân dân địa phương trực tiếp
bầu ra thay mặt nhân dân, trên cơ sở yêu cầu của nhân dân và quy định của pháp luật
quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương. Vì vậy, Đảng
và nhà nước ta đã và đang từng bước đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp
cho phù hợp với điều kiện trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể nhằm phát triển và không
ngừng nâng cao vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của HĐND.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Trong thời gian vừa qua hoạt động của HĐND có nhiều chuyển biến đáng kể và
những thành tựu mà cơ quan này mang lại là không thể phủ nhận. Dần dần trở thành cánh
tay đắc lực trong bộ máy quản lý nhà nước, cơ cấu tổ chức của HĐND đã được kiện toàn

lại, hoạt động đi vào nề nếp hiệu quả hơn rất nhiều so với trước đây. Các kỳ họp của
HĐND được chuẩn bị kỹ càng hơn, thời gian xem xét, thảo luận các vấn đề đưa ra trước
khi quyết định. Công tác cán bộ cũng được chú trọng hơn, việc nâng cấp trình độ, năng

5


lực cho cán bộ công chức trong cơ cấu của HĐND trở thành nhiệm vụ trọng tâm của hầu
hết HĐND các cấp. Đại biểu HĐND ngoài việc tham gia vào các kỳ họp còn tự mình
nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho người dân,
vận động quần chúng tham gia tích cực thực hiện những Nghị quyết, chủ trương của
HĐND đề ra. Một điểm mới trong Luật tổ chức HĐND ở cấp xã, quy định này đã tạo cơ
sở pháp lý, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào cơ quan đại diện cho mình mà
còn khẳng định vị trí, vai trò của HĐND trong bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta.
Song bên cạnh, những thành tựu còn khá khiêm tốn đó thì trên thực tế thì hoạt động
của HĐND vẫn còn khá nhiều bất cập. Là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước ở địa
phương, cho tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhưng do mô hình tổ chức còn cứng
nhắc, cơ chế là việc vẫn theo lối mòn cũ, nên hiệu quả hoạt động của cơ quan này còn
nhiều vấn đề cần xem xét. Khi nhắc tới HĐND, chắc chắn không ít người nghĩ rằng đay
chỉ là cơ quan hoạt động mang tính hình thức. Mỗi khi có bức xúc, khúc mắc hầu như
người dân đều tìm đến cơ quan chấp hành nhà nước để giải quyết- là UBND chứ ít người
tìm tới HĐND. Các hạn chế của HĐND chủ yếu tập trung ở các hình thức hoạt động của
nó.
Đối với các kỳ họp của HĐND, không giống như UBND mỗi tháng đều phải tổ chức
phiên họp thường kỳ 1 lần, HĐND một năm chỉ họp thường niên hai lần, do vậy nhiều
vấn đề được đem ra thảo luận, quyết định của HĐND không bảo đảm tính cấp thiết, thời
sự nữa. Hơn nữa thời gian của mỗi kỳ họp lại thường chỉ kéo dài trong một vài ngày,
trong khi đó nhiệm vụ quyền hạn của HĐND là rất lớn, bao quát ở nhiều lĩnh vực, vì thế
mà hoạt động của HĐND thông qua các kỳ họp thường không hiệu quả. Mặt khác, những
đánh giá, quyết định của HĐND chủ yếu dựa trên những báo cáo đã được lập sẵn của

UBND. Tại các kỳ họp gần như chỉ làm nhiệm vụ xem xét, đánh giá các báo cáo dựa trên
tư duy chủ quan của chính các đại biểu HĐND. Việc đi sâu, đi sát, tìm hiểu thực tế vấn đề
gần như không được thực hiện. Chính những điều này ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết
định, chủ trương của HĐND.
Đối với đại biểu HĐND, tại các kỳ họp hoạt động của các đại biểu chưa thực sự hiệu
quả. Phần lớn các đại biểu thường giữ các chức vụ kiêm nhiệm thêm vào đó là thời gian
chuẩn bị cho các kỳ họp không nhiều, do vậy mà việc nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu thực tế
vấn đề ít được các đại biểu quan tâm. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến
những nghị quyết của HĐND khi đưa ra áp dụng trên thực tế thường ít mang tính khả thi.
Theo quy định của pháp luật, việc bầu cử các đại biểu HĐND phải đảm bảo được tính
đại diện trong đó. Do đó, khi chọn lựa các đại biểu, yếu tố được xem mang ra xem xét đầu
tiên không phải là năng lực, trình độ của các đại biểu mà là thành phần cơ cấu, tôn
giáo,của đại biểu đó. Chính điều này đã không phát huy được năng lực, khả năng của các
đại biểu được lựa chọn khi tam gia hoạt đọng trong cơ quan quyền lực nhà nước này. Luật
bầu cử đại biểu HĐND năm 2003 cũng quy định số lượng đại biểu HĐND dựa trên số dân
cư cư trú trên địa bàn đó. Thực trạng này, đã dẫn tới tình trạng có nững địa phương dân cư
tập trung thưa thớt, trong khi đó diện tích lại lớn, vì thế sẽ có những thôn bản người dân
không có đại biểu HĐND nào đại diện cho mìn.
Đối với việc phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn tại các đơn vị hành chính lãnh thổ khác
nhau theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì nhiệm vụ quyền hạn
của HĐND ở cấp tỉnh, huyện, xã về cơ bản đều được quy định trên các lĩnh vực giống
nhau, chỉ có sự điều chỉnh về phạm vi quyền hạn. Quy định này đã dẫn đến tình trạng
chồng chéo quyền lực của các cấp trong từng lĩnh vực. Xem xét nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND cấp huyện có thể thấy hoạt động mang nặng tính hình thức, hầu như chỉ được coi

6


là một cấp trung gian trong việc phổ biến thực hiện các Nghị quyết của HĐND cấp trên.
Các vấn đề lớn chủ yếu được quyết định ở cấp huyện, còn các vấn đề cụ thể lại được

HĐND cấp cơ sở trực tiếp triển khai, thực hiện. Do đó, vai trò của HĐND cấp huyện ngày
càng trở nên phai nhạt.
Ngoài ra, trong hoạt động tổ chức của HĐND vẫn còn rất nhiều những hạn chế khác
nhau: Hoạt động của chủ tịch HĐND và phó chủ tịch HĐND chưa thực sự xứng tầm với
vị trí pháplý của nó, hoạt động ban hành văn bản pháp luật của HĐND còn nhiều bắt cập,
tình trạng ban hành Nghị quyết sai thẩm quyền, những chủ trương chính sách thiếu tính
thực tế vẫn diễn ra khá phổ biến. Các Ban của HĐND hoạt đọng chưa thực sự hiệu quả,
chủ yếu vẫn mang nặng tính hình thức. Việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, phản ánh của
người dân mới chỉ dừng lại ở việc phân loại và chuyển đến cơ quan có thẩm quyền, còn
việc giám sát và đôn đốc các cơ quan chức năng trong việc giải quyết rất hạn chế. Bộ máy
nhà nước cồng kềnh, hoạt động không hiệu quả tạo ra những trở ngại pháp lý rất lớn cho
hoạt động quản lý của nhà nước, cho sự phát triển của đất nước và ảnh hưởng nhiều tới
quyền dân chủ của nhân dân.
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỔI
MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
Do đó, nhu cầu mới dặt ra là phải đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương
của nước ta trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là tổ chức hoạt động của HĐND- cơ quan
hoạt động rất không hiệu quả trong bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta. Chủ
trương đó được nêu trong Đại hội X :" Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và
UBND, bảo đảm quyền tự chủ và tự chụi trách nhiệm của chính quyền địa phương trong
phạm vi được phân cấp. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm
quyền, chính quyền ở nông thôn, đô thị". Chủ trương này đã hoàn toàn đúng đắn và phù
hợp với thực tiễn kết quả của nước ta hiện nay. Để làm được điều đó thì cũng có nhiều
giải pháp được đề ra đó là:
- Cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là các cấp uỷ Đảng đối với
HĐND các cấp. Sớm có quy định thống nhất về các chức danh của Đảng trong lãnh đạo
HĐND, nhất là các đại biểu trong thường trực HĐND hoạt động chuyên trách phải là
thường vụ cấp uỷ; uỷ viên các Ban HĐND không nên kiêm nghiệm các chức danh trưởng,
phó các cơ quan Nhà nước để tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.

- Cần đổi mới nhận thức về tính chất và vai trò của HĐND. HĐND là cơ quan tự quản
ở địa phương do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
Nhà nước cấp trên. Nếu tính chất tự quản được xác định thì cần có những quy định pháp
luật về phạm vi, phương thức, điều kiện pháp lý, tổ chức, vật chất; quyền giám sát, quyền
bỏ phiếu tín nhiệm những người giữ chức vụ do HĐND bầu ra hoặc phê chuẩn, quyết
định ngân sách địa phương. Số người dự ứng cử bầu làm đại biểu HĐND nên nhiều hơn
số lượng được bầu tối thiểu là 30% để cử tri dân chủ lựa chọn.
- Cần nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND. Tiếp xúc cử tri là điều
kiện để người đại biểu thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước sự tín nhiệm của nhân
dân. Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã nói "cử tri kiến nghị cũng
là hiến kế với Nhà nước". Trên cơ sở đó, đại biểu, HĐND tiếp thu, nghiên cứu, đề xuất
với cấp trên để có chủ trương, chính sách, giải pháp phù hợp; giải quyết kịp thời những
bức xúc, chấn chỉnh những sai lệch, yếu kém trong quản lý Nhà nước.
Để hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu HĐND phát huy đầy đủ, đáp ứng những yêu
cầu nêu trên thì những cơ chế, giải pháp cần tập trung làm tốt là:

7


Tiếp tục nâng cao chất lượng đại biểu HĐND, chất lượng các cuộc tiếp xúc cử tri trước và
sau kỳ họp HĐND dưới nhiều hình thức: tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử, ở nơi công tác, ở
nơi cư trú; tiếp xúc cử tri thông qua cuộc sống sinh hoạt cộng đồng; tiếp xúc cử tri theo
giới, ngành, lĩnh vực; không nên hạn chế thành phần, số lượng cử tri tham gia tiếp xúc,
tránh chỉ tiếp xúc với “đại cử tri” như hiện nay.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền để nhân dân hiểu đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của
cử tri trong việc tham gia xây dựng chính quyền. Sớm ban hành những quy định pháp lý
về khen thưởng, về bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với đại biểu HĐND.
- Cần nâng cao năng lực, hiệu lực giám sát của HĐND. Giám sát của HĐND phải góp
phần tích cực vào việc giải quyết trả lời các kiến nghị của cử tri; các đơn thư, khiếu nại, tố
cáo của công dân; các vụ việc tiêu cực; các vi phạm về quản lý kinh tế, tài chính và các

vấn đề khác liên quan đến quyền và lợi ích của các cơ quan, tổ chức Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động giám sát của HĐND cũng như của cử tri đối với
Nhà nước hiện là khâu yếu nhất của HĐND cũng như của cử tri, vì thiếu những chế tài
pháp lý và những giải pháp đủ mạnh. Để hoạt động giám sát của HĐND cũng như của cử
tri được nâng cần: Cần nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng đại biểu, gắn với đổi mới cơ cấu
đại biểu tham gia HĐND các cấp; phải đảm bảo những quy định chặt chẽ về quyền của
giám sát, không dừng lại ở “yêu cầu”, “kiến nghị”,“chất vấn”, mà phải là chế tài bắt buộc
các cơ quan làm sai phải khắc phục và chịu trách nhiệm về hậu quả đã gây ra, đồng thời
cũng có những chính sách động viên, khích lệ cơ quan làm tốt. Sớm ban hành các quy
định để các cơ quan dân cử và các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp kiểm tra, kiểm soát ;
nâng cao kỹ năng giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội, các cán
bộ trong cơ quan, tổ chức này.
- Cần đảm bảo các điều kiện hoạt động thuận lợi cho HĐND. Có bộ máy giúp việc đủ
mạnh về số lượng, đảm bảo về chất lượng; có trụ sở, phương tiện làm việc tối thiểu, nhất
là HĐND cấp xã, kinh phí hoạt động, các chế độ cho đại biểu, vấn đề thi đua, khen
thưởng. Xây dựng, củng cố các cơ quan dân cử, trong đó có HĐND là vấn đề quan trọng
nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước, là một trong những vấn đề bức
xúc trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Một trong những vấn đề để dảm bảo
quyền dân chủ của nhân dân, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, thiết
nghĩ Đảng và Nhà nước cần tập trung nhiều trí tuệ hơn vào củng cố cơ quan quyền lực
dân cử ở địa phương - một vấn đề có tính thời sự và đại sự hiện nay.
KẾT LUẬN.
Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp
trên, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương nhưng hiện nay hoạt động của
cơ quan này vẫn chưa thực sự hiệu quả vì vậy Đảng và nhà nước đã và đang có nhiều hoạt
động đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND, để vị trí và vai trò của cơ
quan này ngày càng được nâng lên.


8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- />- />option=com_content&view=article&id=1261:hoi-dong&catid=1:tin-tuc-su-kiennoi-bat&Itemid=11
- />option=com_content&view=article&id=277:hi-ng-nhan-dan-cn-ch-tai-gii-quytkin-ngh-sau-giam-sat&catid=180:nghien-cu-trao-i&Itemid=219
- />- />- />- Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946,1959, 1980,1992( sửa
đổi và bổ sung năm 2001)
- Giáo trình môn luật hiến pháp, trường đại học Luật Hà Nội.
- Khóa luận tốt nghiệp: Không tổ chức HĐND một số cấp, phương hướng đổi
mới và hoàn thiện tổ chức hoạt động chín quyền địa phương của nước ta trong giai
đoạn hiện nay ( Bùi Thị Bích Thủy).
- Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
- Luật bầu cử đại biểu HĐND năm 2003

9


10


DANH SÁCH NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI :
- Hội đồng nhân dân: HĐND
- Viện kiểm sát nhân dân: VKSND
- Uỷ ban nhân dân: UBND
- Bộ máy nhà nước: BMNN
- Tòa án nhân dân: TAND
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội: UBTVQ
- Cộng hòa xã hội chủ nghĩa : CHXHCN


11


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN Ở NƯỚC TA...................................................
I.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của HĐND trong lịch sử lập pháp Việt
Nam....................................................................................................
I.2. Tổ chức và hoạt động của HĐND theo quy định của pháp luật hiện
hành...........................................................................................................
I.2.1. Vị trí, tổ chức pháp lý của HĐND...................................................
I.2.2. Cơ cấu tổ chức HĐND.....................................................................
I.2.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND..................................
I.2.4. Hình thức hoạt động của HĐND......................................................
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.........................
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỔI
MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................................................
KẾT LUẬN.................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

12



×