Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của người bị hại pháp luật tố tụng hình sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.04 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................
MỞ BÀI.........................................................................................................
NỘI DUNG....................................................................................................
I. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp
luật tố tụng hình sư......................................................................................
1.Khái niệm...................................................................................................
2. Cơ sở quy định về địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp luật tô
tụng hình sư...................................................................................................
a.Cơ sở lý luận...............................................................................................
b.Cơ sở thưc tiễn...........................................................................................
II. Những quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sư năm 2003 về địa vị
pháp lý của người bị hại...............................................................................
1.Quyền của người bị hại.............................................................................
1.1.Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu...............................................................
1.2.Được thông báo về kết quả điều tra........................................................
1.3.Đề nghị thay đổi người tiến hành tô tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của Bộ luật tô tụng hình sư 2003.......................
1.4. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường.........
1.5.Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.............
1.6. Khiếu nại quyết định, hành vi tô tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tô tụng, kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về
phần bồi thường cũng như hình phạt đôi với bị cáo...................................
1.7. Trong trường hợp vụ án được khởi tô theo yêu cầu của người bị hại
tại Điều 105 BLTTHS 2003 thì người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của
họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa...........................................................
2. Nghĩa vụ của người bị hại.......................................................................
2.1.Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án............................................................................................................
2.2.Nghĩa vụ khai báo, cung cấp, những thông tin cần thiết góp cho việc
làm sáng tỏ sư thật của vụ án.......................................................................


KẾT LUẬN...................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................

1

Trang
1
2
2
2
2
4
4
4
5
5
5
6
7
8
9
10
12
12
12
13
15
16



MỞ BÀI
Địa vị pháp lý của người bị hại là tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
quy định cho người bị hại và đại diện hợp pháp của họ trong quá trình giải quyết
vụ án.
Quy định về địa vị pháp lý của người bị hại là một quy định tiến bộ.Quy định
này xuất phát từ việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại nói riêng
và quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung; nhằm thể hiện sư
cảm thông với những mất mát của người bị hại, hướng tới giải quyết nhanh chóng
vụ án hình sư, xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.

NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp luật tố
tụng hình sư.
1. Khái niệm.
Trên thế giới vấn đề người bị hại và nghiên cứu về người bị hại được nhiều nhà
khoa học quan tâm, tập trung nghiên cứu.
Pháp luật TTHS của các nước không có sư thống nhất trong việc sử dụng thuật
ngữ người bị hại. Chẳng hạn luật TTHS của Cộng hòa Pháp, Liên Bang Nga hay
Việt Nam dùng thuật ngữ người bị hại, trong khi luật TTHS Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa thì dùng thuật ngữ người tố cáo. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là
người bị thiệt hại, hay gọi là nạn nhân,...
Để có sư nhận thức đầy đủ và thống nhất về khái niệm người bị hại chúng ta tiếp
cận dưới những góc độ sau:
- Dưới góc độ ngôn ngữ : có thể hiểu, người bị hại là con người cụ thể trong xã
hội, chịu sư tác động tiêu cưc của sư việc,hành vi hoặc bất kỳ sư tác động nào khác
hẳn dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên sư
tác động đó là trái với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ
động.Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất
và không cần phải giới hạn mức độ thiệt hại.


2


- Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lý: người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra.Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị
người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản chứ không thể là
pháp nhân”.
- Dưới góc độ luật định: Điều 51 Bộ Luật TTHS Việt Nam quy định: “Người bị
hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Người
bị hại là con người cụ thể; thiệt hại gây ra đó là tinh thần, thể chất, tài sản hoặc
những thiệt hại khác, những thiệt hại đó do tội phạm gây ra.
Đặc điểm của người bị hại là:
- Về chủ thể: phải là con người cụ thể chứ không phải là pháp nhân hay một tổ
chức xã hội.
- Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản.
Phải là thiệt hại xảy ra trên thưc tế.
- Thiệt hại của người bị hại là đối tượng tác động của tội phạm, tức là có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra của người bị hại.
- Người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại khi được
cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Từ những đặc điểm đó ta có thể rút ra khái niệm của người bị hại là: Người bị hại
là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội của tội phạm
trưc tiếp xâm hại.
Về địa vị pháp lý của chủ thể, theo từ điển luật học: “Địa vị pháp lý của chủ thể
pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể,
qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể trong các hoạt động
của mình.
Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp
luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp
luật trong các mối quan hệ pháp luật”.


3


Từ định nghĩa trên có thể hiểu, địa vị pháp lý của người bị hại trong TTHS là
tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho họ trong quy trình
giải quyết vụ án.
2. Cơ sở quy định về địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp luật tố tụng
hình sư
a. Cơ sở lý luận
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi
phạm tội gây ra, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất. Vì vậy,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung và
người bị hại nói riêng là một vấn đề đang được quan tâm.Đây cũng là một trong
những nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ
thống pháp luật TTHS ở nước ta hiện nay, trong đó quy định về địa vị pháp lý của
người bị hại là một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi
ích của người bị hại.
Ngoài ra xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là nguyên tắc
“Bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS”(Điều 3 BLTTHS), nguyên tắc “Tôn trọng
và bảo vệ quyền cơ bản của công dân”(Điều 4 BLTTHS), nguyên tắc “Bảo hộ tính
mạng, sức khỏe,danh dư,nhân phẩm, tài sản của công dân(Điều 7 BLTTHS)...quy
định địa vị pháp lý của người bị hại cũng là sư cụ thể hóa các nguyên tắc trên.
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại còn xuất phát từ quan hệ giữa
người bị hại với những người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án, mối quan hệ
giữa người bị hại và người phạm tội.
b. Cơ sở thưc tiễn
Người bị hại là người biết được các tình tiết của vụ án nên họ cũng phải có nghĩa
vụ trong việc giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sư thật khách quan của vụ
án.

Quy định về địa vị pháp lý của người bị hại xuất phát từ chính quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại. Trên thưc tế có nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại chưa được bảo vệ tốt và kịp thời, trong quá trình giải
quyết vụ án dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên
4


của quá trình tố tụng để có sư quan tâm cần thiết. Dẫn đến thưc tế như trên là bắt
nguồn một phần từ nhận thức thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại, thời
điểm xuất hiện người bị hại, biện pháp bảo vệ người bị hại, quy định cũng như
thưc tiễn áp dụng đối với người bị hại...chưa có sư thống nhất trong nhận thức
cũng như hành động.
II. Những quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sư năm 2003 về địa vị pháp lý
của người bị hại.
1. Quyền của người bị hại.
Người bị hại là người bị tội phạm trưc tiếp xâm hại về thể chất và tinh thần, tài
sản đồng thời cũng là người có quyền yêu cầu bồi thường. Vì vậy, họ có thể đưa ra
được nhiều chứng cứ. Do đó, pháp luật quy định người bị hại có các quyền về tố
tụng tương đối rộng để đmả bảo cho họ bảo vệ được những lợi ích của mình trong
tố tụng và đấu tranh chống tội phạm. Các quyền đó là:
1.1Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Tại điểm a Khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định: người bị hại hoặc đại
diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Những tài liệu, đồ vật này có liên quan chặt chẽ đến vụ án, đến việc giải quyết
vụ án. Người bị hại trong nhiều trường hợp là người chứng kiến vụ việc xảy ra,
biết các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội; cho nên những tài liệu, đồ vật mà
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ đưa ra có độ chính xác, có ích
cho quá trình giải quyết vụ án. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần do hành vi phạm tội trưc tiếp xâm hại, vì thế những tài liệu, đồ vật mà người
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ đưa ra là thường để chứng minh hành

vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại mà họ gánh chịu do hành vi phạm tội gây
ra.
Người bị hại có thể đưa ra những yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau
như: yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm chứng cứ để định tội, yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho
rằng kết quả giám định trước đó không đúng sư thật,...Người bị hại phải xác định
tính hợp lý và quan trọng là nhằm mục đích trừng trị người phạm tội, góp phần giải
quyết nhanh chóng và chính xác vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
5


mình để đưa ra những đồ vật, tài liệu, yêu cầu của người bị hại. Sư đảm bảo này
được luật hóa tại Điều 122 BLTTHS 2003: “Khi người tham gia tố tụng có yêu
cầu về những vấn đề có liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết
kết quả.Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc
Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do”. Pháp luật quy định người bị hại phải
đưa ra tất cả các đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án mà người bị hại biết. Sở dĩ
pháp luật quy định như vậy vì nhằm đảm bảo nguyên tắc xác ddinhjj sư thật của vụ
án trong TTHS, góp phần nhanh chóng giải quyết vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị hại, thưc hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN. Người bị hại là
người bị tội phạm trưc tiếp xâm hại, bị thiệt hại về thể chất, tinh thần là người nắm
khá chi tiết về tình tiết liên quan đến vụ án (trừ trường hợp các tội trộm cắp tài
sản...); về đối tượng, địa điểm của việc phạm tội.
1.2.Được thông báo về kết quả điều tra
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội trưc
tiếp xâm hại, là người chịu hết thiệt hại trong vụ án hình sư. Do vậy, pháp luật quy
định người bị hại được thông báo về kết quả điều tra vụ án.
Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ được thông báo về kết quả điều tra
vụ án để họ biết được những vấn đề thuộc nội dung vụ án. “Trên cơ sở đó để

người bị hại chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc để
chứng minh những thiệt hại mà bị can gây ra cho mình”. Biết được kết quả điều
tra là một trong những điều kiện để người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ
chuẩn bị tốt chứng cứ, lý lẽ, yêu cầu để buộc tội bị cáo, bị can, chứng minh những
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho họ. Đảm bảo quyền này được thưc hiện
nghiêm minh chính là cơ sở cho người bị hại và đại diện hợp pháp của họ thưc hiện
những quyền cơ bản khác được pháp luật quy định. Chuẩn bị tốt chứng cứ, lý
lẽ,...là điều kiện để người bị hại thưc hiện tốt các quyền như: đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa,...
Việc thông báo kết quả điều tra cho người bị hại và người đại diện hợp pháp
của họ được thưc hiện bằng hình thức văn bản. Quyền này của người bị hại còn
được pháp luật TTHS 2003 ghi nhận trong Điều 12 về trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng: “Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng,
6


người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp
luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình”. Như vậy,
để đảm bảo quyền này của người bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ
thông báo kết quả điều tra cho người bi hại và đại diện hợp pháp của họ. Quyền
của người bị hại đồng thời là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền của
người bị hại chỉ được đảm bảo thưc hiện khi cơ quan tiến hành tố tụng thưc hiện
một cách đầy đủ nghĩa vụ của mình.
1.3.Đề nghị thay đổi người tiến hành tô tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật tô tụng hình sư 2003
Người bị hại có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trong các
trường hợp được quy định tại Điều 42 BLTTHS 2003:
Thứ nhất, những người này đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sư, bị đơn
dân sư; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp
pháp, người thân thích của những người đó hoặc bị can, bị cáo.

Thứ hai, những người này đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm
chúng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
Thứ ba, có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ. Khi nhận thấy người tiến hành tố tụng thuộc một trong ba trường hợp
nêu trên thì người bị hại có quyền đề nghị thay đổi họ. Quyền này còn được ghi
nhận tại khoản 2 Điều 43 BLTTHS 2003 quy định về những người có quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng: “Bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ”.
Đối với thay đổi Điều tra viên thì sẽ do Thủ trưởng cơ quan điều tra quyết định,
nếu Điều tra viên là Thủ trưởng Cơ quan điều tra thì do Cơ quan điều tra cấp trên
trưc tiếp tiến hành (khoản 2 Điều 44 BLTTHS2003), thay đổi Kiểm sát viên trước
khi mở phiên tòa do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định, nếu Kiểm sát
viên là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trưc
tiếp quyết định; thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết
định hoãn phiên tòa; thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên tòa do
Chánh án Tòa án quyết định, nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì do Chánh
án tòa án cấp trên trưc tiếp quyết định; Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại
7


phiên tòa do Hội đồng xét xử ra quyết định bằng cách biểu quyết theo đa số, trong
trường hợp phải thay đổi tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên
tòa; thay đổi Thư ký tòa án trước khi mở phiên tòa do Chánh án tòa án quyết định,
thay đổi tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định, trường hợp phải thay đổi tại
phiên tòa thì hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa.
Đối với người giám định, người phiên dịch khi mà nhận thấy thuộc trường hợp
một và ba ở trên thì người bị hại có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tahy đổi
họ. Quyền này được luật hóa trong điểm a khoản 4 Điều 60 và điểm a khoản 3
Điều 61 BLTTHS 2003. Đối với người giám định thì việc thay đổi do cơ quan
trưng cầu quyết định, người phiên dịch do cơ quan yêu cầu quyết định.

Việc thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch còn
được luật hóa trong điều 14 BLTTHS quy định về sư bảo đảm vô tư của những
người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng: “Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Chánh án, Phó chánh án tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án không
được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch không được tham gia tố tụng, nếu có
lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của
mình”.
Quy định như vậy nhằm mục đích đảm bảo sư khách quan, vô tư của những
người này trong quá trình giải quyết vụ án hình sư, là một trong những điều kiện
cần thiết để việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, chính xác, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị hại nói riêng và người tham gia tố tụng nói chung.
1.4. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
Cơ chế bồi thường thiệt hại giữa người bị hại và bị can, bị cáo là vấn đề áp dụng
khá phổ biến ở các nước. Ở đó, nhà nước cho phép người phạm tội được phép thỏa
thuận với người bị hại về bồi thường thiệt hại.Thiệt hại của người bị hại là đối
tượng tác động của tội phạm. Người bị hại rất quan tâm đến việc quyền lợi của họ
được giải quyết như thế nào, họ có quyền đề nghị mức bồi thường cho thỏa đáng
với những thiệt hại về thể chất, tinh thần mà hành vi phạm tội trưc tiếp xâm hại.
Bên cạnh quyền được đề nghị bồi thường thì người bị hại còn có quyền đề nghị
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp bảo đảm bồi thường như: kê biên
8


tài sản, phong tỏa tài sản.. “Việc giải quyết những thiệt hại do tội phạm gây ra đối
với người bị hại nhất thiết phải trong vụ án hình sự”. Bởi lẽ khi đã xác định một
người tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại thì quyền và nghĩa vụ của họ chỉ
có thể thưc hiện trong quá trình tiến hành tố tụng. Người bị hại không phải làm đơn
yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải giải quyết. Thiệt hại này bao gồm cả
thiệt hại về thể chất, tinh thần nên vấn đề trách nhiệm dân sư đặt ra đối với ke

phạm tội bao giờ cũng gồm cả thiệt hại về tài sản và vật chất do phát sinh từ thiệt
hại về thể chất và tinh thần do người phạm tội gây ra.
Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp thưc hiện quyền
và nghĩa vụ của người bị hại. Người đại diện thay mặt người bị hại thưc hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ.
1.5.Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Phiên tòa chính là nơi kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để
làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và các phán quyết đối với bị cáo. Tại phiên tòa,
Viện kiểm sát, người bị hại và người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra những
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, luận điểm liên quan đến vụ án và tranh luận; hội đồng
xét xử có trách nhiệm xem xét các chứng cứ, xét hỏi và điều khiển việc tranh luận
giữa các bên.
Để đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thưc hiện quyền tham gia phiên
tòa và tranh luận tại phiên tòa của người bị hại, pháp luật TTHS quy định về vị trí
bình đẳng của người bị hại tại phiên tòa tại Điều 19 “Người bị hại có quyền bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận
dân chủ trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa: chủ yếu là những điều kiện cần thiết cho hoạt động
tranh tụng ở các thủ tục xét hỏi và tranh luận tiếp theo. Trong giai đoạn này người
bị hại có quyền đề nghị hội đồng xét xử thay đổi thẩm phán, hội thẩm, thư ký,
người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án là không nằm ngoài mục đích đảm bảo cho
hoạt động buộc tội của mình ở thủ tục xét hỏi và tranh luận tiếp theo đạt hiệu quả.

9


Thủ tục xét hỏi: Người bị hại tại phiên tòa hình sư sơ thẩm là đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu, đề nghị mức bồi thường và quy định về quyền của người bị hại tại

phiên tòa tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS quy định: “Những người tham gia phiên
tòa cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm
sáng tỏ”, trình bày những tình tiết liên quan đến họ và trả lời những câu hỏi đối
với những người xét hỏi, tham gai xem xét chứng cứ, tham gia xem xét tại chỗ,
nhận xét về việc trình bày, những tài liệu, báo cáo của cơ quan, tổ chức.
Thủ tục tranh luận: Căn cứ vào BLTTHS 2003 thì hoạt động tranh tụng của
người bị hại tại thủ tục này là đề nghị mức bồi thường, trình bày ý kiến, tranh luận
tại phiên tòa để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trình bày ý kiến về
luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình đáp lại ý kiến của người
khác. Ngoài ra, người bị hại còn có quyền trình bày lời buộc tội trong trường hợp
vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
Về trình tư phát biểu tranh luận, tại Điều 217 BLTTHS quy định sau khi Kiểm
sát viên trình bày lời luận tội, bị cáo trình bày lời bào chữa thì người bị hại trình
bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, Điều 218
còn quy định: “Bị cáo, người bào chữa và những người tham tố tụng khác có
quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của
mình.....Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý
kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận”.
Về thẩm quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm chỉ được đặt ra đối với người bị hại
khi có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến người bị hại, và được tòa án triêu tập.
Để bảo thưc hiện quyền này của người bị hại thì tòa án phải giao giấy triệu tập
cho người bị hại để họ có thể tham gia phiên tòa. Đây là tiền đề cơ bản cho người
bị hại và đại diện hợp pháp của họ thưc hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.6. Khiếu nại quyết định, hành vi tô tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tô tụng, kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi thường
cũng như hình phạt đôi với bị cáo
* Phần khiếu nại: Trong quá trình tiến hành tố tụng, dù ở giai đoạn tố tụng nào,
người bị hại nếu phát hiện thấy quyết định hoặc hành vi của cơ quan, người có
10



thẩm quyền tiến hành tố tụng có những điểm bất hợp lý, vi phạm pháp luật thì họ
có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi tố tụng đó. Người bị hại có thể tiến
hành khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng theo trình tư, thủ tục quy định tại chương XXXV của BLTTHS năm
2003 quy định khiếu nại, tố cáo trong TTHS.
Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng mà người bị hại cho là
có vi phạm là 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng
đó. Trong một số trường hợp do trở ngại khách quan mà người bị hại không thưc
hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không
được tính vào thời hiệu khiếu nại. Ngoài ra để đảm bảo cho việc giải quyết quyền
khiếu nại của người bị hại nói riêng và các chủ thể khác nói chung BLTTHS 2003
quy định tại Điều 31 “Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải
quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo, thông báo văn bản kết quả
giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục”
Pháp luật TTHS quy định cho người bị hại có quyền khiếu nại các quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
* Phần kháng cáo: Phạm vi thưc hiện quyền kháng cáo của người bị hại được
quy định rõ ràng tại điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS “Người bị hại có quyền
kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi thường cũng như phần hình
phạt đối với bị cáo”.
Khi tội phạm xảy ra, quan hệ pháp luật hình sư xuất hiện là quan hệ giữa nhà
nước và chủ thể của tội phạm, còn mối quan hệ giữa bị can, bị cáo và người bị hại
chỉ là quan hệ dân sư trong việc bồi thường những thiệt hại do hành vi trái pháp
luật gây ra. Mặc dù vậy, do người bị hại là nạn nhân của hành vi phạm tội, những
thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không chỉ là thiệt hại về vật chất mà còn là
những tổn thất khác về tinh thần, không chỉ bồi thường thiệt hại vật chất là giải
quyết được. Vì vậy, “ngoài quyền kháng cáo về mức bồi thường, pháp luật còn

quy định cho người bị hại được quyền kháng cáo cả về phần hình phạt, được thực
hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong việc yêu cầu Nhà nước xử lý thích đáng về
hình sự đối với bị cáo”.

11


Thời hiệu kháng cáo bản án: quyết định của tòa án là 15 ngày, kể từ ngày tuyên
án, trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn
cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Nếu có lý do chính đáng thì
việc kháng cáo quá hạn vẫn có thể được chấp nhận.
Việc kháng cáo có thể được thưc hiện dưới hình thức là gửi đơn đến tòa án cấp
sơ thẩm hay trình bày trưc tiếp với tòa án đã xử sơ thẩm.
Hậu quả pháp lý của việc kháng cáo là: những phần của bản án bị kháng cáo thì
chưa được đưa ra thi hành và tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo
cho cấp phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày, kể tù ngày hết hạn kháng cáo.
1.7. Trong trường hợp vụ án được khởi tô theo yêu cầu của người bị hại tại
Điều 105 BLTTHS 2003 thì người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình
bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Theo khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003 quy định: “Trong trường hợp vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa”.
BLTTHS 2003 không có quy định về thời điểm người bị hại trình bày lời buộc
tội tại phiên tòa.Tuy nhiên mục 1.7 Nghị quyết số 03/2004 NQ-HĐTP hướng dẫn
thi hành một số quyết định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của
BLTTHS 2003 quy định “Việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ
trình bày...theo quy định tại Điều 217 BLTTHS”.
Thời điểm rút yêu cầu khởi tố là trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. Trường hợp
việc rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án xác định là tư nguyện, không bị ép buộc hay

cưỡng bức thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ
án. Còn trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút đơn
yêu cầu khởi tố trái ý muốn do bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tiến hành tố tụng
tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Đây chính là điều kiện để người bị hại
được yêu cầu lại.
2. Nghĩa vụ của người bị hại

12


2.1.Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án.
Người bị hại phải có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để thưc hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án.
Đây là quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Việc có mặt theo giấy triệu tập của
cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đảm bảo người bị hại luôn theo sát vụ án, nắm rõ tình
hình của vụ án, bảo đảm tốt cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Người
bị hại có vai trò hất sức quan trọng trong việc điều tra, truy tố, xét xử, bởi họ là
người bị tội phạm trưc tiếp xâm hại nên sư có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ
quan tiến hành tố tụng là vô cùng quan trọng. Trong trường hợp người bị hại hợp
tác với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thì việc xử lý vụ án được tiến hành
thuận lợi, ngược lại nếu vì lý do nào đó mà người bị hại không hợp tác với cơ aun
tiến hành tố tụng thì việc xử lý vụ án gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là bế tắc dẫn
đến việc bỏ lọt tội phạm.
Nghĩa vụ này của người bị hại còn được BLTTHS 2003 quy định tại Điều 115
về trách nhiệm thưc hiện quyết định và yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát: “Những quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự phải được cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh
chấp hành”. Như vậy, Luật quy định rõ là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tra mà yêu cầu người bị hại nói riêng và công dân nói ching thì mọi

người phải có trách nhiệm thưc hiện yêu cầu đó.
Bên cạnh đó, Điều 183 quy định “Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Thẩm phán ra quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa”. Như
vậy bên cạnh nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, thì sư có mặt theo
giáy triệu tập của người bị hại là cơ sở để người bị hại thưc hiện triệt để các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
BLTTHS còn quy định nếu sư vắng mặt của người bị hại, tùy từng trường hợp
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc tiếp tục xét xử. Như vậy, đủ để
thấy tầm quan trọng của người bị hại trong quá trình giải quyết vụ án. Sư tham gia
phiên tòa của người bị hại góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
hại, giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án.

13


2.2.Nghĩa vụ khai báo, cung cấp, những thông tin cần thiết góp cho việc làm
sáng tỏ sư thật của vụ án.
“Người bị hại là người bị tội phạm trực tiếp xâm hại và là đối tượng được Luật
hình sự bảo vệ”. Do đó, người bị hại là người biết khá nhiều tình tiết liên quan đến
vụ án, những tài liệu, đồ vật mà người bị hại cung cấp cho cơ quan tiến hành tố
tụng giúp một phần không nhỏ vào quá trình giải quyết vụ án. Đây vừa là quyền
vừa là nghĩa vụ của người bị hại, thưc hiện tốt nghĩa vụ này cũng là cơ sở cho
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được đảm bảo. Như vậy, có thể nói
rằng quyền và nghĩa vụ của người bị hại có mối quan hệ gắn bó với nhau. Người bị
hại thưc hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình cũng là tiền đề để đảm bảo cho
quyền và lợi ích được thưc hiện triệt để.
Người bị hại có thể khai báo, cung cấp những thông tin liên quan đến vụ án ở
bất cứ thời điểm nào của quá trình tố tụng và phải chịu trách nhiệm về những lời
khai cũng như những thông tin mà họ cung cấp.
Người bị hại có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tra, truy tố, xét xử bởi

họ là người trưc tiếp bị tội phạm xâm hại nên lời khai và sư có mặt của họ khi cơ
quan tiến hành tố tụng yêu cầu là vô cùng quan trọng. Trong trường hợp người bị
hại hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng thì việc giải quyết vụ án được tiến hành
thuận lợi; ngược lại nếu vì lý do nào đó mà người bị hại không chịu khai báo, đưa
ra các tài liệu, đồ vật liên quanđến vụ án thì việc xử lý vụ án sẽ gặp rất nhiều khó
khăn, thậm chí là bế tắc, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm.
Người bị hại có nghĩa vụ khai báo cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho
việc làm sáng tỏ sư thật của vụ án. Việc giải quyết đúng đắn vụ án không chỉ nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước mà còn bảo vệ lợi ích của người bị hại nên người bị
hại thường chủ động, tích cưc trong việc khai báo. Việc họ từ chối khai báo mà
không có lý do chính đáng là việc không bình thường. Tâm lý của người bị hại là
nhằm trừng trị những ke phạm tội, giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án, nhưng
việc họ từ chối khai báo là mâu thuẫn với tâm lý của nạn nhân. Hành vi gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội phạm và pahir chịu trách nhiệm
hình sư theo Điều 308 Bộ luật Hình sư.
Theo quy định của điều luật thì chúng ta có thể hiểu là: người bị hại là người bị
tội phạm trưc tiếp xâm hại, là đối tượng được luật bảo vệ. Do đó, họ không bị xem
14


xét truy cứu trách nhiệm hình sư khi khai báo gian dối, mà chỉ đặt ra vấn đề chịu
trách nhiệm hình sư trong trường hợp từ chối khai báo mà thôi.

KẾT LUẬN
Người bị hại giữ vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sư.
Nguồn tin do người bị hại cung cấp sẽ giúp ích hữu hiệu cho các cơ quan tiến hành
tố tụng. Sư tham gia của họ không những bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản
thân họ mà còn góp phần giải quyết vụ án nhanh chóng, thuận lợi, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Pháp luật TTHS đã có những quy định mở rộng quyền
của người bị hại phù hợp với quá trình cải cách tư pháp hiện nay. Những quy định

về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong hoạt động TTHS đã giúp người bị hại
hiểu sâu hơn vị trí, vai trò của mình trong pháp luật hình sư, từ đó nâng cao tinh
thần, trách nhiệm của họ.

15


DANG MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Nxb.CAND, Hà Nội , 2008.
2. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
3. Bộ luật tố tụng hình sư của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2003.
4. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sư
năm 2003.
5. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Đinh Thị Thùy, Luận văn “Địa vị pháp lý của
người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”. Hà Nội, 2011

16



×