Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.55 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I.
1.

Khái quát về công ty cổ phần.................................................................2
Công ty cổ

phần.....................................................................................2
2.

Vốn và cấu trúc

vốn...............................................................................3
3.

Ưu thế của

CTCP...................................................................................2
II.
1.

Một số hình thức huy động vốn của CTCP...........................................4
Phát hành cổ

phiếu................................................................................4
2.

Phát hành trái



phiếu..............................................................................8
3.

Các hình thức tín dụng

khác................................................................10
3.1. Tín dụng ngân hàng.................................................................................10
3.2. Tín dụng cho thuê....................................................................................11
III.

Thực trạng và giải pháp về vấn đề huy động vốn của CTCP...............13

4


1.

Thực

trạng............................................................................................13
2.

Giải

pháp..............................................................................................15
KẾT LUẬN.....................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................17

LỜI MỞ ĐẦU

Vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa
quyết định tới kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Đối với công ty cổ
phần, vốn là cơ sở cho hoạt động kinh doanh đồng thời là một trong những tiêu
chí để xác định vị thế, phạm vi, quy mô cũng như năng lực cạnh tranh của công
ty cổ phần trên thị trường. Hơn nữa, là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn
nên những quy định về vốn của công ty cổ phần có ý nghĩ rất quan trọng. Với sự
ra đời của Luật doanh nghiệp, pháp luật về công ty cổ phần, trong đó có các quy
định về vốn của công ty cổ phần đã được hoàn thiện một bước quan trọng, tạo cơ
sở pháp lý cho sự tổ chức hình thức doanh nghiệp có những ưu thế vượt trội này.
Trong phạm vi bài tập học kỳ của mình, em xin trình bày đề tài: “Tìm hiểu
pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần”.

NỘI DUNG
I.

Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về vốn trong công

ty cổ phần.
1.

Công ty cổ phần

4


Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công
ty cổ phần (CTCP) mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần.
Khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ:
“Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a, Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;

b, Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và
không hạn chế số lượng tối đa;
c, Cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d, Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình hco người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật
này”.
2.

Vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần
Muốn hoạt động kinh doanh không thể không có vốn, vốn của doanh

nghiệp là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc sở hữu của doanh
nghiệp hoặc sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng
trong kinh doanh. CTCP là loại hình công ty đối vốn điển hình, do vậy do vậy
vấn đề về vốn của nó hết sức phức tạp. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn thì
vốn của CTCP được chia thành: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn
vay).
Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành
từ nguồn đóng góp của cổ đông và vốn do CTCP tự bổ sung từ lợi nhuận của
công ty.

4


Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức
khác nhau như: vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân hoặc vay bằng cách
phát hành trái phiếu.
Như vậy, vốn của CTCP có thể hình thành bằng nhiều con đường khác
nhau nhưng điều quan trọng là công ty có tỷ lệ vốn hợp lý, phương thức huy

động vốn thích hợp và có phương án kinh doanh đúng đắn để sử dụng vốn hiệu
quả và tạo được nhiều lợi nhuận cho công ty.
3.

Những ưu thế của CTCP so với các loại hình công ty khác trong việc

huy động vốn
Khả năng tiếp cận thị trường vốn của CTCP đa dạng hơn các loại hình
doanh nghiệp khác: Khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “CTCP
có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”, trong khi đó doanh
nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì “ không được phát hành bất kỳ một loại
chứng khoán nào” (khoản 3 Điều 130 và khoản 2 Điều 141). Còn đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn thì được phép phát hành trái phiếu nhưng lại “không được
quyền phát hành cổ phiểu” (khoản 3 Điều 38). Đó chính là ưu điểm vượt trội của
CTCP về khả năng huy động vốn so với các loại hình công ty khác. Trong các
loại chứng khoán của CTCP thì cổ phiếu là loại chứng khoán có ưu thế lớn nhất
nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng, có khả năng huy động được một lượng vốn
góp lớn, giảm được nhiều chi phí trung gian so với các hình thức huy động khác
do tiếp cận trực tiếp các nhà đầu tư. Tính chuyển nhượng của cổ phiếu mang lại
cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ sự ổn
định của tài sản công ty. Việc chuyển vốn dưới hình thức này rất dễ dàng và
thuận lợi thông qua thị trường chứng khoán.
Ưu thế của CTCP trong việc thu hút các nhà đầu tư: CTCP có cấu trúc
vốn rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Phần vốn góp

4


của cổ đông có thể được tự do chuyển nhượng thông qua việc chuyển quyền sở
hữu cổ phần (trừ các trường hợp do pháp luật quy định). Mặt khác, cổ phần có

mệnh giá nhỏ kết hợp với khả năng thanh toán và chuyển nhương dễ dàng đã
khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư. Khả năng tích tụ và tập trung vốn
với quy mô khổng lồ, có thể coi là lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp
hiện nay, đã đáp ứng được các dự án đầu tư lâu dài, cần một lượng vốn lớn. mở
rộng đa dạng các ngành nghề kinh doanh một cách dễ dàng hơn.
II.

Một số hình thức huy động vốn của CTCP theo pháp luật hiện

hành.
1.

Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu

1.1 Cổ phiếu:
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP, được thể hiện dưới
hình thức cổ phiếu, bao gồm cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phiếu là
chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một
hoặc một số cổ phần của công ty trong đó. Cổ phiếu là bằng chứng chứng minh
quyền sở hữu cổ phần của công ty(1).
Phát hành cổ phiếu Là một quyền năng rất cơ bản của CTCP. Phương thức
này cho phép huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có một
số vốn lớn và ổn định cho đầu tư kinh doanh. Phát hành cổ phiếu là việc chào
bán cổ phần củ CTCP cho người đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của công
ty. kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo huy động vốn điều lệ trong quá
trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty khi công ty đang
trong quá trình hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ
đông hiện có hoặc có thể dẫn tới sự thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do vậy
việc quyết định bán loại cổ phần, số lượng mỗi cổ phần chào bán sẽ do Đại hội

1()

Xem: khoản 1 Điều 85 Luật doanh nghiệp 2005

4


đồng cổ đông quyết định, Hội đồng quản trị sẽ quyết định thời điểm bán, phương
thức và giá chào bán của số cổ phần được quyền chào bán.
1.2 Quy định của pháp luật về việc phát hành cổ phiếu:
Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần, có thể chia thành các trường
hợp: phát hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát hành
cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty.
Phát hành cổ phiếu lần đầu: Khi thành lập, CTCP phải huy động vốn góp
của các cổ đông. Pháp luật quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng
ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán (2). Trong
trường hợp các cổ đông không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào bán
thì số cổ phần còn lại phải được chào và bán hết trong thời hạn 3 năm kể từ ngày
công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (3). Các cổ đông sáng lâ[j
phải thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần và loại cổ phần dự kiến sẽ
chào bán. Ngoài ra, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ trách nhiệm của các cổ
đông sáng lập về tính chính xác, trung thực đối với giá trị tài sản góp vốn được
giới hạn trong phạm vi các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng
số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn. Những
người cam kết mua cổ phần còn phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài
sản góp vốn vào công ty theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật doanh
nghiệp 2005.
Phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty: Trong quá
trình hoạt động, cổ phiếu cũng trở thành một trong những phương tiện để huy
động vốn hiệu quả nhất. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm tăng độ tín nhiệm

cho công ty. Thực chất việc phát hành cổ phiếu trong trường hợp này là việc
công ty chào bán cổ phần để huy động vốn. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành,

2()
3()

Xem: khoản 1 Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005
Xem: khoản 4 Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005

4


có thể thực hiện bằng hai phương thức để phát hành cổ phiếu: phát hành riêng lẻ
và phát hành rộng rãi ra công chúng.
-

Phát hành cổ phiếu riêng lẻ: là hình thức phát hành cổ phiếu trong

phạm vi một số người nhất định và với số lượng hạn chế, thường là bán cho
những thành viên trong công ty. Việc phát hành cổ phiếu này phải được thông
báo bằng văn bản rõ ràng cho từng cổ đông biết, trong thông báo phải ghi rõ tổng
số cổ phần dự kiến phát hành và số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào
bán và thời hạn đăng ký mua(4)... Việc phát hành chứng khoán thông thường chịu
sự điều chỉnh của Luật công ty. Luật doanh nghiệp 2005 lần đầu tiên đưa ra quy
định về việc CTCP phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán cổ phần đó
cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có tại công ty.
Quy định này thực sự là một bước phát triển hơn của Luật doanh nghiệp
2005 so với Luật doanh nghiệp trước đó. Tuy nhiên, điều kiện, trình tự thủ tục
chào bán cổ phiếu riêng lẻ thì Luật lại không trực tiếp quy định mà do Chính phủ
có hướng dẫn cụ thể.

-

Phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng: là phương thức phát

hành cổ phiếu trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra công chúng cho một số
lượng lớn nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu phát hành đạt được một tỷ lệ theo
quy định cụ thể và phải dành được một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ.
Điều kiện, phương thức và thủ tục phát hành cổ phiếu được thực hiện theo quy
định của Luật chứng khoán(5). Ngoài ra, công ty còn phải thực hiện các chế độ
báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp
luật. Điều đó xuất phát từ lý do để cổ phiếu hay trái phiếu của công ty phát hành
ra không phái là sản phẩm của sự lừa đảo, đồng thời bảo vệ lợi ích cho nhà đầu
tư.

4()
5()

Xem: khoản 2 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005
Xem: khoản 6 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005

4


Công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu phải đảm bảo các yêu cầu về
vốn, thời gian hoạt động, đội ngũ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính
khả thi của các dự án trong tương lai(6). Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo số
lượng và chất lượng cổ phiếu của công ty cổ phần để có thể giao dịch trên thị
trường chứng khoán. Nếu công ty cổ phần có số vốn điều lệ quá nhỏ, làm ăn thua
lỗ thì sẽ mất lòng tin của các nhà đầu tư và cổ phiếu của công ty niêm yết trên
trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ không có tính thanh khoản cao. Sau khi đảm

bảo được các điều kiện trên thì CTCP lập hồ sơ gửi lên Ủy ban chứng khoán Nhà
nước xin được cấp giấy chứng nhận phát hành. (Lưu ý: Hồ sơ xin cấp giấy chứng
nhận phát hành pahir là bản cáo hạch và có nội dung theo như quy định tại khoản
1 và điểm a khoản 3 Điều 15 Luật chứng khoán 2006).
Trong thời gian Ủy ban chứng khoán Nhà nước xem xét cấp giấy chứng
nhận phát hành, CTCP và các đối tượng liên quan không được trự tiếp hoặc gián
tiếp thực hiện các hoạt động mang tính quảng cáo, chào mời công chúng hay các
nhà đầu tư mua cổ phiếu và phân phối cổ phiếu dưới bất kỳ hình thức nào.
Như vậy, phát hành cổ phần là hình thức huy động vốn hiệu quả và dễ
dàng nhất của CTCP và chỉ ở loại hình CTCP mới có điều này. Hơn nữa, việc
được quyền chuyển nhượng cổ phần tự do càng tạo ra sức hút lớn đối với các
nhà đầu tư.
2.

Huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu
Cùng với việc phát hành cổ phiếu là cách huy động vốn chủ sở hữu thì

CTCP còn có quyền phát hành trái phiếu để vay vốn trung hạn và dài hạn, đáp
ứng nhu cầu về vốn kinh doanh vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông
và số vốn hiện tại của công ty.
2.1.

6()

Trái phiếu:

Xem: khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006

4



Theo khoản 3 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 quy định: “Trái phiếu là loại
chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một
phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Khác với cổ phiếu (là chứng từ xác nhận cổ
phần trong công ty). trái phiếu chỉ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Quan hệ
giữa người sở hữu trái phiếu với công ty là quan hệ giữa chủ nợ với con nợ. Với
tư cách là một loại chứng chỉ xác nhận lợi ích tài sản, trái phiếu là phần thứ hai
trong cơ cấu vốn của công ty có liên quan đến việc hình thành thị trường chứng
khoán.
Trái phiếu có thời gian đáo hạn. Khi đến thời điểm đáo hạn, người chủ sở
hữu trái phiếu được hoàn trái. Trái phiếu có lợi tức cố định, tiền lãi phải trả cho
chủ sở hữu không phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty. Người sở hữu trái
phiếu không có quyền tham gia biểu quyết các vấn đề của công ty. Trái phiếu
đem lại cho người chủ sở hữu quyền ưu tiên về phân chia lợi nhuận cũng như
quyền ưu tiên về phân chia tài sản khi công ty giải thể hoặc phá sản. Trái phiếu
có thể tự do chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán. Khác với các hình thức
vay nợ khác, trái phiếu có khả năng trao đổi. Chủ sở hữu trái phiếu cho công ty
phát hành vay vốn bằng mua trái phiếu, có quyền giữ lại hoặc bán đi bất cứ lúc
nào mà không phải chờ đến kì thanh toán. Mệnh giá trái phiếu là số tiền ghi trên
trái phiếu khi phát hành, khoản tiền này được hoàn trả cho trái chủ khi đáo hạn.
Trái phiếu có mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng Việt Nam hoặc bội số của
100.000 đồng Việt Nam. Trong một đợt phát hành, trái phiếu phải có cùng mệnh
giá.
CTCP có quyền phát hành nhiều loại trái phiếu khác nhau để huy động
vốn: trái phiếu có bảo đảm, trái phiếu không bảo đảm, trái phiếu chuyển đổi, trái
phiếu thu nhập, trái phiếu có thể thu hồi…theo quy định: “CTCP quyền phát

4



hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định
của pháp luật và Điều lệ công ty” (7).
2.2.

Quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu
Phát hành trái phiếu là cách thức vay vốn, theo đó người vay phát hành

một chứng chỉ thường là với một mức lãi suất xác định, đảm bảo thanh toán vào
một thời hạn xác định trong tương lai. Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ
của công ty, nhận được một mức lãi suất cố định và thanh toán khoản vay khi
đáo hạn. Phương thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu là phương
thức ưu việt dành cho những CTCP có dự án kinh doanh dài hạn với một mức lãi
suất thích hợp (nhỏ hơn lãi suất công ty phải đi vay ngân hàng nhưng lại cao hơn
lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thu hút các nhà đầu tư).
CTCP có thể phát hành trái phiếu theo hai phương thức: phát hành riêng lẻ
và phát hành rộng rãi:
-

Phát hành trái phiếu riêng lẻ: Cũng như phát hành cổ phiếu riêng

lẻ không chịu sự ràng buộc của pháp luật về chứng khoán (về điều kiện, trình tự,
thủ tục phát hành) mà việc mua bán dựa trên sự thỏa thuận giữa công ty và người
mua.
-

Phát hành trái phiếu rộng rãi: Là việc trái phiếu được bán cho một

khối lượng nhà đầu tư với một số lượng nhất định. Trái phiếu phát hành ra công
chúng là đối tượng giao dịch tại giao dịch trung tâm. Điều kiện phát hành trái

phiếu ra công chúng đối với CTCP được quy định cụ thể trong khoản 2 Điều 12
Luật chứng khoán 2006. Sau khi CTCP đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty
lập hồ sơ gửi Ủy ban chứng khoán Nhà nước để xin được cấp giấy phép phát

7()

Xem: khoản 1 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005

4


hành. Ngoài ra, việc phân phối, tiêu thụ cũng như đình chỉ phát hành trái phiếu
được quy định như đối với cổ phiếu.
3.
3.1.

Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng khác
Hình thức tín dụng ngân hàng:
Thông qua hình thức này, CTCP có thể có được các khoản vay ngắn hạn,

trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng
được các điều kiện nhất định như có tình hình tài chính tương đối tốt, có phương
án sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm
cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng (trừ trường hợp công ty được ngân hàng cho
vay không có bảo đảm bằng tài sản). Công ty vay vốn của ngân hàng phải đảm
bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận; hoàn trả nợ gốc và lãi vốn
vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Có hai hình thức cho
vay vốn: vay có bản đảm và vay không có bảo đảm:

-

Vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo

đó nghĩa vụ trả nợ của CTCP được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm
cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài
sản của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình
thành từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng. Việc đề ra những biện pháp bảo đảm bằng tài
sản là biện pháp hữu hiệu để ngân hàng dễ dàng thu hồi vốn cho vay đồng thời
khuyến khích CTCP hoạt động có hiệu quả.
Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản, công ty và ngân hàng
phải lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng

4


nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Việc kiểm
tra tính hợp pháp và điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng thực
hiện. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc CTCP dùng tài
sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản
vay đó đối với ngân hàng. Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của CTCP mà
giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín
dụng. Việc xác định tài sản đảm bảo tiền vay được thực hiện theo quy định của
pháp luật dân sự.
-

Vay không có bảo đảm bằng tài sản: CTCP cũng có thể được ngân

hàng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn,

trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất khi đáp ứng
đủ các yêu cầu quy định của pháp luật.
3.2.

Hình thức tín dụng cho thuê:
Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa

là dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín dụng cho khách hàng quyền sử
dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện khách hàng phải
trả tiền thuê. Xét về mặt bản chất, giao dịch cho thuê tài chính có những đặc
điểm nổi bật sau đây:
-

Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là

một tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác, tổ chức tín dụng
chuyển giao một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ
chức tín dụng tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng một
tài sản cụ thể để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có
nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. . Cũng tương tự như pháp luật một
số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận cho thuê tài chính là hình

4


thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm của đối tượng
cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao thường từ
một năm trở lên.
-


Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền

năng của chủ sở hữu được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình thức
thuê tài sản thông thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động
cho thuê tài chính, bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu "danh nghĩa" đối
với tài sản cho thuê (quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản
cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với
tài sản cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê. Điều này
được lý giải bởi bản chất tín dụng của hoạt động cho thuê tài chính: Tổ chức tín
dụng chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn
việc sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng.
Cho thuê tài chính được phân loại thành nhiều phương thức: Cho thuê đơn
giản, cho thuê hợp vốn, cho thuê bắc cầu, bán và cho thuê lại; Cho thuê tài chính
không hoàn lại tài sản thuê, cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê... Cho thuê
tài chính không hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài chính mà theo
đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê. Khi kết
thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết
để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản
thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo đó, tài sản thuê không đương nhiên
được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm dứt hợp đồng thuê.
III.

Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp

luật về huy động vốn trong công ty cổ phần.
1.

Thực trạng:

4



Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có
nhiều điểm tiến bộ, tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng
bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế không tránh khỏi. Cụ thể như sau:
-

Không có kế hoạch cụ thể về sử dụng vốn huy động được: Ở Việt

Nam khi các CTCP phát hành chứng khoán để huy động vốn điều này xem ra
còn dễ dãi, nên có vẻ như lúc phát hành thì thủ tục, bài bản, còn việc sử dụng
vốn là chuyện tính sau. Có công ty thu về cùng lúc một lượng vốn rất lớn để rồi
lúng túng, lúc đó mới làm kế hoạch sử dụng vốn. Điều này thể hiện sự thiếu chặt
chẽ trong việc khai thác nguồn tiền của đại chúng, có thể làm cho môi trường
phát hành xấu đi. Thực tế là tuy trong hồ sơ đăng ký xin được phát hành chứng
khoán ra công chúng của công ty thì đã có yêu cầu phải có giải trình về việc mục
đích sử dụng vốn huy động được như thế nào. Tuy nhiên đây vẫn là một khâu
“rất dễ” với các công ty với tâm lý cho rằng đó chỉ là một dự án trên giấy tờ nên
không cần thiết phải làm cụ thể, chi tiết và chính xác. Tâm lý cứ thu hút được
vốn đã rồi sẽ lo chuyện kiểm tra dự án sau vẫn là tâm lý phổ biến trong doanh
nghiệp đặc biệt là ở thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, nhà đầu tư nhở
lẻ, không chuyên nghiệp nên không nắm bắt được việc này.
-

Thời điểm phát hành chứng khoán để huy động vốn đôi khi không

thích hợp: Việc tập trung quá nhiều công ty phát hành cổ phiếu vào một thời
điểm nhất định trong năm có thể ảnh hưởng đến khối lượng vốn huy động hiệu
quả của doanh nghiệp và quyền lợi của các cổ đông do chịu ảnh hưởng của quan
hệ cung – cầu trên thị trường chứng khoán. Trước khi phát hành ra công chúng

doanh nghiệp phải điều tra thị trường định phát hành, phân tích đánh giá xem
trong thời điểm đó lượng cung và cầu trên thị trường ra sao, chiều hướng biến
đổi như thế nào, các công ty có sản phẩm tương tự như của công ty đã phát hành
cổ phiếu trên thị trường đó chưa và cổ phiếu đó đang ở tình trạng nào? Nếu lựa

4


chọn sai thời điểm phát hành thì thông tin về đợt phát hành có thể ảnh hưởng xấu
đến thị trường và qua đó làm ảnh hưởng đến cổ phiếu của công ty đang lưu hành
(giá cổ phiếu đang lưu hành giảm) và ảnh hưởng đến số vốn dự kiến huy động.
-

Việc tăng vốn quá lớn trong một lộ trình quá nhanh có thể dẫn đến

phá vỡ cấu trúc vốn, mất cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn nợ, dẫn đến sử
dụng vốn không hiệu quả. Đối với việc đầu tư dự án trung và dài hạn, việc doanh
nghiệp huy động vốn từ các cổ đông là khá hợp lý bởi nguồn vốn từ ngân hàng
cho doanh nghiệp vay chủ yếu là vốn ngắn hạn, khó có thể đáp ứng nhu cầu đầu
tư dự án. Tuy nhiên, do việc huy động vốn từ cổ phiếu dẫn đến dư thừa vốn chủ
sở hữu và doanh nghiệp lại đưa vào đầu tư tài sản lưu động ngắn hạn thì sẽ làm
tăng chi phí sử dụng vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu chỉ thích hợp cho đầu tư tài sản
cố định, tài sản lưu động thường xuyên. Cấu trúc vốn tối ưu hiện vẫn là một vấn
đề khá khó khăn ở nhiều công ty. Điều này cho thấy không phải khi nào thì huy
động vốn qua phát hành chứng khoán thu được số vốn lớn đã là một sự thành
công. Doanh nghiệp cần phải xác được cấu trúc vốn ổn định của doanh nghiệp
mình.
-

Sự yếu kém trong khâu chuẩn bị hồ sơ phát hành chứng khoán:


Việc chuẩn bị hồ sơ thủ tục xin cấp phép phát hành chứng khoán của các công ty
ở Việt Nam còn yếu kém. Điều này một mặt gây khó khăn cho Ủy Ban Chứng
khoán nhà nước trong việc đánh giá tính chính xác và cấp phép cho phát hành
chứng khoán, mặt khác nó làm mất thời gian, công sức và làm gia tăng chi phí
của đợt phát hành chứng khoán của công ty. Ngay trong thời gian gần đây đã có
rất nhiều doanh nghiệp bị xử lý vi phạm do không hoàn thành đúng thủ tục phát
hành cổ phiếu ra công chúng.
Ngoài ra, việc huy động vốn còn một số hạn chế như: Xảy ra tình trạng
loãng giá chứng khoán khi phát hành thêm chứng khoán ra công chúng. Phương

4


pháp phát hành sai do đơn vị tư vấn thiếu kinh nghiệm hoặc không sử dụng tư
vấn. Phát hành chứng khoán không vì lợi ích của đại đa số cổ đông....
2.

Giải pháp:
Qua phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề huy động vốn ở trên chúng ta

thấy được các điểm bất hợp lý, những vấn đề còn tồn tại. Vì vậy phải cần khắc
phục bằng một số giải pháp như sau:
-

Từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật: Trước tiên, để

Luật doanh nghiệp phát huy được hiệu lực và đi vào đời sống thì cần có sự đồng
bộ thống nhất giữa nội dung của Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có
liên quan. Xem xét các quy định của Luật doanh nghiệp chưa chặt chẽ, chưa phù

hợp với thực tiễn.
-

Các công ty cần cân nhắc kỹ lưỡng trước mỗi đợt phát hành chứng

khoán ra công chúng để huy đông vốn sản xuất kinh doanh: Trước khi tiến hành
phát hành chứng khoán để huy động vốn doanh nghiệp nên có sự cân nhắc, tư
vấn phát hành nếu là những công ty phát hành cổ phiếu để huy động vốn lần đầu
và không có chuyên môn về chứng khoán. Bên cạnh yêu cầu các công ty chứng
khoán cung ứng nghiệp vụ tư vấn phát hành sâu hơn, chuyên nghiệp hơn, cần
đồng hành cùng công ty (vấn đề độ thành công của đợt phát hành và uy tín tư
vấn), cơ quan quản lý phát hành cũng cần có sự quan tâm hơn nữa trong việc cải
thiện bối cảnh huy động vốn và môi trường đầu tư nói chung.
-

Ngoài ra. các công ty ở Việt Nam có thể học tập hình thức huy

động vốn dài hạn bằng cách phát hành cổ phiếu ở một số nước phát triển như
Mỹ. Hoặc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán nước ngoài...

KẾT LUẬN

4


Trên đây là bài viết của em đối với vấn đề về huy động vốn của công ty cổ
phần theo quy định của pháp luật. Qua những phân tích đã nêu, có thể thấy:
Bằng những ưu thế của công ty cổ phần về phương thức huy động vốn, đặt biệt
qua hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng chỉ trong một thời gian
ngắn, công ty cổ phần đã vượt xa các hình thức về khả năng tận dụng các nguồn

vốn trong xã hội. Công ty cổ phần là loại hình công ty phổ biến ở những nước có
nền kinh tế thị trường phát triển. Ưu điểm nổi bật của công ty cổ phần là khả
năng công khai huy động vốn, tạo lập nguồn vốn khổng lồ đầu tư vào kinh doanh
và sự mềm dẻo trong việc sử dụng vốn phù hợp với hoạt động kinh doanh. Các
hình thức huy động vốn của công ty cổ phần, đặt biệt là hình thức phát hành
chứng khoán ra công chúng còn là một vấn đề hết sức mới mẻ cả về lý luận và
thực tiễn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật thương mại - Tập 1 – Trường Đại Học Luật hà Nội.

NXB Công an nhân dân.
2.

Luật Doanh Nghiệp 2005.

3.

Luật chứng khoán 2006

4.

Tạp chí luật học

5.

/>
bang_cach_phat_hanh_chung_khoan_o_Viet_Nam.html

6.

/>
4


4



×