Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TIẾN BỘ HƠN TRONG THỜI KỲ CỔ ĐẠI TRUNG HOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.16 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................................................3
A. CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI...................5
I. THẾ GIỚI THẦN THOẠI TÔN GIÁO CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI TRUNG HOA CỔ ĐẠI.............................................................................................5
1. Nhà Hạ....................................................................................................................................5
2. Nhà Thương...........................................................................................................................6
2.1. Khái quát tình hình chính trị - xã hội..............................................................................6
2.2. Những tư tưởng chính trị - xã hội xuất hiện dưới triều Thương.....................................6
3. Nhà Tây Chu..........................................................................................................................7
3.1. Khái quát tình hình chính trị - xã hội..............................................................................7
3.2. Những tư tưởng chính trị - xã hội xuất hiện dưới triều Tây Chu....................................7
II. SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TIẾN BỘ HƠN TRONG THỜI KỲ CỔ
ĐẠI TRUNG HOA .............................................................................................................................9
B. CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ Ở TRUNG QUỐC THỜI KỲ TRUNG ĐẠI
(ĐÔNG CHU, XUÂN THU – CHIẾN QUỐC)................................................................................12
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI XUÂN THU –
CHIẾN QUỐC...................................................................................................................................12
1. Thời Xuân Thu....................................................................................................................12
2. Thời Chiến quốc..................................................................................................................14
II. CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ THỜI ĐÔNG CHU/ XUÂN THU –
CHIẾN QUỐC...................................................................................................................................14
1. Nho gia – hệ tư tưởng dùng đạo đức để “thế thiên hành đạo”......................................15
1.1. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Nho gia qua hệ tư tưởng của những nhà sáng
lập và kế thừa......................................................................................................................................15
a. Hệ tư tưởng của Khổng Tử (551 – 479 TCN).............................................................15
b. Hệ tư tưởng của Mạnh Tử (371 – 289 TCN)..............................................................17
1
1



c. Hệ tư tưởng của Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN)..................................................18
1.2. Nội dung tư tưởng Nho gia............................................................................................18
1.3. Kết luận .........................................................................................................................19
2. Mặc gia và triết học Mặc Tử..............................................................................................20
2.1. Mặc gia – tư tưởng “kiêm ái”........................................................................................20
2.2. Triết học Mặc Tử............................................................................................................21
a. Khái quát về triết học mặc Tử.....................................................................................21
b. Thuyết “Kiêm ái” trong trường phái triết học Mặc gia.............................................22
xã hội

c. Quan điểm độc đáo của Mạnh Tử về căn nguyên quốc gia và những vấn đề chính trị
..................................................................................................................................... 23
2.3. Kết luận..........................................................................................................................24

3. Đạo gia – hệ tư tưởng bất hành động................................................................................24
3.1. Sự hình thành và phát triển Đạo gia qua hệ tư tưởng các nhà sáng lập và kế thừa......25
a. Hệ tư tưởng của Lão Tử..............................................................................................25
b. Hệ tư tưởng của Dương Chu.......................................................................................26
c. Hệ tư tưởng của Trang Tử...........................................................................................28
3.2. Nội dung học thuyết Đạo gia.........................................................................................29
3.3. Kết luận..........................................................................................................................30
4. Âm dương gia......................................................................................................................30
4.1. Tư tưởng triết học về Âm – Dương...............................................................................30
4.2. Tư tưởng triết học về Ngũ hành.....................................................................................32
4.3. Kết luận..........................................................................................................................32
5. Pháp gia – Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi......................................................................33
5.1. Sự hình thành tư tưởng pháp trị của Hàn Phi................................................................33
5.2. Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi.......................................................................34
5.3. Kết luận..........................................................................................................................35

LỜI KẾT............................................................................................................................................36
1
2


1
3


LỜI NÓI ĐẦU
Quá trình hình thành và phát triển của các tư tưởng, học thuyết chính trị - pháp lý trong lịch
sử nhân loại giống như dòng sông cuộn chảy, luôn phủ nặng phù sa cho những bến bờ Đông, Tây.
Không ai có thể sống bằng tư tưởng, chân lý muôn đời là như vậy, nhưng cũng không thể sống
thiếu tư tưởng được. Và, sự thật là, các quốc gia, dân tộc và cả nhân loại này đã và đang lần theo
những cơ sở tư tưởng, học thuyết chính trị - pháp lý ấy để hoạt động và phát triển.
Theo dòng chảy của cuộc sống, các tư tưởng theo đó cũng sinh sôi, nảy nở, đem đến những
suy tư, quan niệm mới về cuộc sống, con người, xã hội, nhà nước, pháp luật… Những tư tưởng
pháp lý luôn được đưa ra xem xét, làm cơ sở cho mỗi lần sửa sang, ban hành pháp luật hay áp
dụng pháp luật vào cuộc sống.
Có thể thấy rằng, hầu hết các luận thuyết được hậu thế xây dựng hoặc áp dụng đều có khởi
điểm từ đâu đó trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Những tư tưởng chính trị - pháp lý của thời đại
sau không bắt đầu từ hư vô, người hậu thế chỉ bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện mới.
Lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý cũng giống như lịch sử nhân loại, là một sự nối tiếp có
quy luật. Các tư tưởng về con người, giá trị con người đã được đề cập từ xa xưa trong kinh Vệ Đà,
học thuyết Khổng Tử… Những quan điểm này đã trở thành nền tảng cho việc hình thành quan điểm
về quyền con người ở các thế kỷ XVII – XVIII. Cội nguồn của tư tưởng phân chia quyền lực cũng
đã có từ thời cổ đại, và chủ nhân của tư tưởng đó, không ai khác chính là bộ óc thiên tài Aristos…
Không thể phủ nhận rằng, bất kì một thiết chế chính trị - pháp lý nào cũng đều phải được
xây dựng trên những nền tảng tư tưởng nhất định. Tư tưởng chính trị - pháp lý xuất hiện cùng với
Nhà nước và pháp luật, và theo đó mà bổ sung, phát triển, kế thừa nhau, cạnh tranh nhau rồi thậm

chí có khi đứt đoạn, thụt lùi. Dù vậy, những tư tưởng, học thuyết đó sẽ luôn vận động không ngừng,
đứng yên chỉ là tương đối. Lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý là quá trình vận động nhận
thức của con người diễn ra hợp quy luật. Bởi thế, nghiên cứu các học thuyết chính trị - pháp lý
không chỉ đơn thuần là để hiểu những tư tưởng của người xưa, mà chính là từ những quan điểm đó,
chúng ta có thể rút ra được những điều bổ ích, thiết thực nào cho cuộc sống chính trị - xã hội hôm
nay.
Như đã nói ở trên, các học thuyết chính trị - pháp lý xuất hiện cùng với Nhà nước và pháp
luật. Trong thế giới cổ trung đại, Phương Đông – vùng đất huyền bí với bề dày lịch sử, văn hóa và
tín ngưỡng – đã nổi lên như một trung tâm của nền văn minh nhân loại với những nền văn minh rực
rỡ như Ấn Độ, Ai Cập, Lưỡng Hà…. Và Trung Quốc cũng không nằm ngoài số đó. Được sự bồi đắp
của con sông Trường Giang vĩ đại, đất đai trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện phát triển
trong điều kiện nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của Nhà nước. Cũng từ đó, nhân dân
Trung Hoa cổ đại đã sớm bước vào xã hội văn minh.
Không chỉ xây dựng cho mình một nền văn minh rực rỡ, Trung Quốc còn tạo dựng những
giá trị văn hóa truyền thống đậm nét phương Đông, đến hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Hơn thế
1
4


nữa, Trung Hoa cổ đại đã đóng góp cho lịch sử nhân loại những tư duy chính trị - pháp lý vô cùng
lớn lao.
Có thể nói, tư tưởng chính trị - pháp lý Trung Hoa được tập trung thể hiện trong các trường
phái tư tưởng lớn là Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia. Những hệ tư tưởng này hình thành và
phát triển mạnh mẽ trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là thời kỳ cổ trung đại. Giữa
các hệ tư tưởng lớn này có nhiều sự khác biệt, song cũng gặp nhau ở những điểm chung như một sự
tất yếu của logic và lịch sử. Đó là mục đích ổn định trật tự, xã hội, xây dựng đất nước thái bình,
thịnh vượng, nhưng nhận thức về cách thức, biện pháp đạt được thì lại khác nhau.
Khổng Tử chủ trương dùng đạo đức, bổ sung thêm lễ và nhạc để giáo dục, cảm hóa con
người. Lễ đưa con người vào kỉ cương, nhạc điều hòa tính cách con người. Mọi rối ren trong xã hội
đều bắt nguồn từ đạo đức, cho nên, tam cương, ngũ thường trở thành cốt lõi, nền tảng đạo đức Nho

giáo, là cơ sở định hướng nội dung đạo đức cơ bản của mỗi cá nhân. Mạnh Tử, người kế thừa xuất
sắc học thuyết của Khổng Tử với các quan niệm về nhân dân, sự cai trị hợp lòng dân thì thiên hạ
mới thái bình. Toàn bộ tư tưởng của ông bắt đầu từ cái thiện và kết thúc cũng ở cái thiện. Đến Tuân
Tử thì lễ đã được kết hợp với luật chặt chẽ hơn trong phép trị nước. Tuân Tử đã bắt một nhịp cầu
nối liền giữa tư tưởng nhân trị - lễ trị của Khổng Mạnh.
Trường phái pháp gia với những đại diện tiêu biểu là Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi
Tử đã đem đến cho học thuyết cai trị xã hội nhiều luận điểm mới, khác biệt cơ bản với trường phái
Nho gia.
Với Đạo gia, Lão Tử với một tư tưởng xuyên suốt là Vô vi,”vô vi nhi trị”, để cho xã hội tự
nhiên như nó vốn có, không can thiệp thái quá sẽ làm sinh ra rối loạn.
Phái Mặc gia do Mặc Tử sáng lập lại thiên về quyền lực tối cao của nhân dân. Với thuyết
Kiêm ái, Mặc gia chủ trương dùng đạo đức trị người, dùng đạo đức để cảm hóa con người.
Xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử, và thậm chí đến ngày hôm nay, những học thuyết này vẫn
còn để lại những ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống chính trị - xã hội tại nhiều quốc gia trên thế giới,
như những giọt phù sa lắng đọng dưới hằng hằng lớp lớp con sóng Trường Giang. Chính vì thế,
việc nghiên cứu các tư tưởng học thuyết chính trị - pháp lý Trung Hoa thời kỳ cổ trung đại, nhằm
hiểu hơn những tư tưởng chính trị - pháp lý của người xưa, cũng như rút ra những bài học cho hiện
tại, là một phần không thể thiếu trong việc nghiên cứu bộ môn Lịch sử các học thuyết chính trị pháp lý.
Với mục đích đó, nhóm chúng em đã thực hiện nghiên cứu với đề tài: “Các tư tưởng học
thuyết chính trị - pháp lý Trung Quốc thời kỳ cổ trung đại”. Do kiến thức cũng như sự hiểu biết
còn hạn chế, bài tiểu luận này của nhóm chúng em chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót. Nhóm chúng em rất mong nhận được những ý kiến góp ý của cô để đề tài của chúng
em hoàn thiện hơn.

Nhóm 1 – K10503
1
5


1

6


Phần A
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ Ở TRUNG QUỐC
THỜI KỲ CỔ ĐẠI

I. THẾ GIỚI THẦN THOẠI TÔN GIÁO VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thủy. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ ở Trung Quốc
có một thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến gọi là Phục Hy. Đến nửa đầu thiên kỉ III TCN, ở vùng
Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên Viên, được
coi là thủy tổ người Trung Quốc. Đến cuối thiên kỉ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều
là dòng dõi của Hoàng Đế. Nghiêu và Thuấn tuy chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc, nhưng đời
sau cho họ là những ông vua tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Tương truyền rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn. Đến khi Thuấn gì,
Thuấn lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết, con của Vũ là Khải được tôn lên làm vua,
Trung Quốc bắt đầu bước vào xã hội có Nhà nước.
Thời cổ đại Trung Quốc có ba vương triều nối tiếp nhau là Hạ, Thương, Chu (Tây
Chu).Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị
trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ
thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị xã hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Giai đoạn này các nhà nước thống trị nhân dân dựa trên các
truyền thuyết về nguồn gốc trời đất, dùng đức để trị thiên hạ là chính.
1. Nhà Hạ (khoảng thế kỷ XXI - XVI TCN)
Nhà Hạ là triều đại đầu tiên được miêu tả trong các ghi chép sử học cổ đại như Sử ký và
Trúc thư kỉ niên. Tuy Vũ chưa xưng vương nhưng ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ.
Theo biên niên sử truyền thống dựa trên các tính toán của Lưu Hâm, nhà Hạ trị vì từ khoảng năm
2205 TCN tới năm 1766 TCN, tuy nhiên theo biên niên sử dựa trên Trúc thư kỉ niên, khoảng thời
gian này là từ khoảng 1989 TCN tới 1558 TCN. “Hạ Thương Chu đoạn đại công trình” đưa ra các
con số tương ứng là 2070 TCN và 1600 TCN. Mặc dù một số học giả từng tranh cãi về sự tồn tại
của triều đại này, nhưng chứng cứ khảo cổ học lại chỉ ra sự tồn tại của nó. Giới sử gia Trung Quốc

coi đây là triều đại đầu tiên của Trung Quốc, sau thời Tam hoàng Ngũ đế và trước thời nhà Thương.

1
7


Tuy nhiên, người ta có quyền đặt nghi vấn đối với triều đại này vì trên thực tế, những văn thư đầu
tiên của Trung Quốc được viết ra sau triều đại này hơn một nghìn năm.
Truyền thuyết nói rằng vua Vũ là người hiền, có công đào vét chín con sông trị thủy cho
Trung Quốc trong tám năm. Trong thời gian đào vét, ông nhiều lần đi ngang qua nhà mình mà
không vào. Vì công lao như vậy, năm 2225 TCN ông được vua Thuấn chọn làm người truyền ngôi.
Năm 2208, vua Thuấn mất, Vũ để tang 3 năm rồi chính thức lên ngôi vua năm 2205 TCN.
Sau khi lên ngôi, ông vẫn giữ lệ cử người hiền tài trong nước thay mình như các đời trước mà
không có ý định truyền ngôi cho con là Khải - con với người vợ họ Đồ Sơn. Ông dự định cử Cao
Dao thay mình làm vua sau này. Nhưng Cao Dao lại mất trước ông, vì vậy ông phong cho con cháu
Cao Dao ở đất Anh, đất Lục, rồi lại tiến cử Bá Ích quản lý chính sự để chuẩn bị làm vua.
Năm 2198 TCN, Vũ đi tuần phía đông, đến Cối Kê thì mất. Bá Ích không nhận ngôi vua mà
nhường lại cho con Vũ là Khải rồi tránh ra ở phía nam Cơ Sơn. Vì Khải cũng có nhiều uy tín nên
thiên hạ nhiều người quy phục. Kể từ đời vua Khải, nhà Hạ giữ lệ cha truyền con nối.
2. Nhà Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI – XII TCN)
2.1. Khái quát tình hình chính trị - xã hội
Ân Thương là triều đại đầu tiên được công nhận về mặt lịch sử là một triều đại Trung Quốc.
Theo biên niên sử dựa trên các tính toán của Lưu Hâm thì nhà Thương trị vì từ khoảng năm 1766
TCN tới khoảng năm 1122 TCN, tuy nhiên theo biên niên sử dựa theo Trúc thư kỉ niên thì khoảng
thời gian này là 1556 TCN tới 1046 TCN. Các kết quả của “Hạ Thương Chu đoạn đại công trình”
coi khoảng thời gian này là từ 1600 TCN tới 1046 TCN. Theo truyền thống lịch sử, nhà Thương
tiếp nối sau triều đại có tính huyền thoại là nhà Hạ và trước nhà Chu. Triều đại này bắt đầu từ vua
Thành Thang và kết thúc ở vua Trụ. Nhà Thương bắt đầu nổi lên từ phía Tây châu thổ sông Vị.
Bằng vũ lực, nhà Thương thống nhất vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc, xây dựng một đế chế
theo kiểu những kẻ chinh phục khác: để lại phía sau một lực lượng đồn trú để kiểm soát dân chúng

địa phương, biến vị vua ở đó trở thành một kẻ đồng minh phụ thuộc, cho phép ông ta kiểm soát
công việc ở lãnh địa của mình, đánh thuế những nơi đã bị chinh phục.
Do việc trị thuỷ thời đó còn hạn chế, lũ lụt, thiên tai thường xuyên xảy ra, vì vậy phải thiên
đô nhiều lần. Tới đời vua Bàn Canh (1401 - 1374 TCN), khoảng năm 1384 TCN nhà Thương đã
chuyển kinh đô về đất Ân và từ đó ổn định ở nơi này. Vì vậy, nhà Thương còn được gọi là nhà Ân.
2.2. Những tư tưởng chính trị - xã hội xuất hiện dưới triều Thương
Lúc này bên cạnh các vua nhà Thương có nhiều lãnh chúa và quý tộc. Vua và quý tộc ở tại
những ngôi nhà lộng lẫy với tường bằng đất nện hay gạch bằng đất nung trong khi những người dân
1
8


thường tiếp tục sống trong những ngôi nhà hầm như hồi sơ khai. Vị vua nhà Thương là vị chủ tế cao
nhất, và ông ta có một bộ máy hành chính quan lại, gồm các vị quan, các vị chủ tế cấp thấp hơn và
những người coi việc bói. Cũng giống như những nền văn minh dựa trên chiến tranh khác, họ cũng
bắt nô lệ, những người nô lệ phải lao động và trồng cấy. Phụ nữ trong nền văn minh nhà Thương
phụ thuộc vào đàn ông, những người phụ nữ quý tộc có nhiều tự do và bình đẳng hơn so với phụ nữ
thường dân.
3. Nhà Tây Chu (thế kỷ XI TCN - năm 771 TCN)
3.1. Khái quát tình hình chính trị - xã hội
Nhà Chu khởi nguồn ở sông Vị, phía tây nền văn minh Thương. Tổ tiên bộ tộc Chu khởi
nghiệp từ đất Thai (nay thuộc tây Vũ Công, Thiểm Tây), tương truyền có tên là Khí, còn gọi là Hậu
Tắc, sống vào đời vua Thuấn, được ban cho họ Cơ.
Qua nhiều đời di cư, Chu phát triển thành một bộ lạc lớn và bắt đầu di cư về đất Mân (nay
thuộc tây nam huyện Tuần Ấp, Thiểm Tây). Tại đây, bộ lạc Chu bắt đầu mở rộng ảnh hưởng và trở
thành thủ lĩnh một liên minh gồm các bộ lạc gần nền văn minh Thương, đóng đô tại đất Kỳ (nay là
Kỳ Sơn, Thiểm Tây). Truyền 15 đời từ Hậu Tắc tới đời Tây bá Cơ Xương, liên minh bộ lạc này phát
triển thành một tiểu quốc Chu hùng mạnh, với kinh đô tại đất Phong (nay thuộc tây Tràng An,
Thiểm Tây), uy hiếp mạnh mẽ sự tồn tại của nhà Thương.
Cơ Xương mất, con là Cơ Phát lên thay, tiếp tục ý định diệt Thương. Vị vua Thương, Đế Tân

hay Trụ Tân tàn bạo và mất lòng dân. Cơ Phát đã tranh thủ sự ủng hộ của các chư hầu oán ghét nhà
Thương, tập hợp lực lượng chống lại. Nhà Chu và đồng minh coi việc suy yếu của nhà Thương là
một cơ hội để nổi dậy, và vào năm 1123 trước Công Nguyên họ chiến thắng vua nhà Thương là Trụ
trong trận chiến Mục Dã. Vua Trụ thua trận, nhảy vào lửa tự thiêu. Từ đó, vương triều Chu bắt đầu
cai trị ở vùng đất trước đó thuộc nền văn minh Thương. Cơ Phát lên làm thiên tử, tức là Chu Vũ
Vương.
3.2. Những tư tưởng chính trị - xã hội xuất hiện dưới triều Tây Chu
Nhà Chu coi tất cả đất đai thuộc về thần thánh, và họ là những đứa con của thần thánh, vì
vậy tất cả đất đai và dân cư đều thuộc về họ. Thấy rằng đất đai mình chinh phục được quá rộng lớn
để một người có thể cai trị, các vua nhà Chu đã chia đất đai thành những vùng và chỉ định một
người nào đó để cai trị vùng đó dưới danh nghĩa của mình (chư hầu), lựa chọn một người thân trong
họ, một người có thể tin tưởng trong bè cánh, hay vị thủ lĩnh một bộ lạc đã cùng họ chống lại nhà
Thương. Chính sách của nhà Chu khá tương đồng với mô hình chính trị Âu châu thời Trung cổ,
trong đó có rất nhiều tiểu quốc được thành lập, và phần lớn đều do con cháu của thiên tử làm lãnh
đạo. Các lãnh đạo, hay lãnh chúa của các tiểu quốc đó đều nhận tước hiệu của nhà Chu. Tuyệt đại
1
9


đa số các nước chư hầu đều được thành lập và thụ phong tước Hầu hay tước Tử trong thời Tây Chu,
xem như họ đều là cánh tay nối dài của gia đình Chu Văn Vương. Chỉ trừ một số ít chư hầu khác là
được thành lập dưới tiền triều Thương, như nước Trần và Tống. Mỗi vị thủ lĩnh địa phương có
quyền sắp đặt mọi vùng đất quanh mình và có lực lượng dân phòng riêng. Và nhà Chu ban cho họ
những quà tặng như xe ngựa, vũ khí bằng đồng, người hầu và súc vật. Các vị tù trưởng này được
phong các tước vị và cai quản vùng lãnh địa của mình như một tiểu quốc thần phục nhà Chu.
Những vị vua địa phương này truyền ngôi cho con trai mình và tước vị của họ là cha truyền con nối.
Và để cai trị vùng đất của mình tốt hơn, vị chư hầu đó lại phong những tước nhỏ hơn cho những
người đã từng cầm đầu các nhóm dân ở nơi đó trước khi họ đến. Một hệ thống thứ bậc địa vị và
trách nhiệm xuất hiện giữa và bên trong các gia đình, với việc anh lớn thì có quyền cao hơn em, với
quy tắc kế tục theo đó những người đàn ông sẽ làm chủ gia đình. Nếu một người quý tộc đã có gia

đình mà lại thích một người đàn bà khác, thay vì đuổi vợ khỏi nhà, ông ta có thể đưa người đàn bà
kia vào trong gia đình với tư cách vợ lẽ, với cấp bậc thấp hơn vợ mình.
Các vị vua sáng lập nhà Chu đã tuyên truyền với những người bị mình chinh phục rằng nhà
Chu đã đuổi tiền nhân các vua nhà Thương khỏi thiên đường và thiên đường đã bị vị thần tối cao
của họ chiếm, vị thần mà họ gọi là “Thượng đế”, người, theo họ nói, đã ra lệnh cho sự sụp đổ của
nhà Thương. Giống như ở vùng Tây Á, các vua Chu tuyên bố rằng họ cai trị bằng quyền lực thần
thánh. Họ cho rằng họ là hiện thân trên mặt đất của “Thượng đế” và nhiệm vụ của họ là làm trung
gian với Thượng đế, để thực hiện các cuộc hiến tế thích đáng và giữ gìn quan hệ tốt giữa thiên
đường và thần dân của họ. Họ tuyên bố rằng bất kỳ một sự chống đối nào với sự cai trị của họ là
chống đối lại ý muốn của trời. Bắt đầu từ thời các vua nhà Chu, các vị thủ lĩnh địa phương nhận
được quyền hành động như các thầy tế: để thực hiện hiến tế, để cho phép hát một số loại bài hát và
một số điệu nhảy, quyền cúng tế các vị thần núi sông ở địa phương, các dòng suối và đất và mùa
màng. Tuy nhiên, các quý tộc địa phương tiếp tục đi theo di sản của ông cha để lại. Họ lấy vợ bằng
những nghi thức tôn giáo và sự ủng hộ trong khi người dân thường vẫn tiếp tục không có kiểu lấy
vợ như vậy, không có họ hay có gia phả. Họ chỉ đơn giản sống với nhau và được công nhận là một
cặp bởi những người hàng xóm.
Giống như ở Ấn Độ và Tây Á, cùng với thời gian có một sự pha trộn giữa các tôn giáo của
kẻ chinh phục và kẻ bị chinh phục. Những vị cai trị nhà Chu chấp nhận vào danh sách thần thánh
của mình một số vị thần của nền văn minh Thương. Sự cúng tế nhiều vị thần từ thời nhà Thương
vẫn được tiếp tục, gồm cả vị thần mùa màng, mưa và nông nghiệp - một trong những vị thần này
được tin rằng được sinh ra từ một bà mẹ trinh trắng. Trong số các vị thần đó có vị thần sông Hoàng
Hà, người có thân cá nhưng có mặt người. Trong nền văn minh Chu, con người tiếp tục cố gắng làm
dịu các vị thần bằng cách cúng tế. Những người có khả năng thì hiến tế bằng gia súc, cừu, lợn hay
1
10


ngựa. Việc hiến tế bằng người giảm bớt so với thời nhà Thương, nhưng nhà Chu có cả vợ và bạn bè
ở trong mộ, và mỗi năm một cô gái trẻ bị cúng làm cô dâu cho thần sông. Việc hiến tế này bắt đầu
bằng việc những bà đồng cốt lựa chọn một cô gái đẹp nhất có thể. Mặc cho cô ta đồ satin, tơ và đeo

trang sức và đặt lên một cái giường cưới trên một cái bè. Họ tống cái bè xuống sông. Cái bè sẽ chìm
và cô gái chết đuối, coi như là một đồ hiến tế cho thế giới vô hình của vị thần sông.
Nhà Chu cũng phải tranh đấu với tính hợp thức về sự cai trị của họ. Để thuyết phục thần dân,
đặc biệt là các quý tộc, về tính chính đáng của quyền lực của mình, nhà Chu lập ra một hệ thống
quyền lực mới mà họ gọi là "thiên mệnh", hay “Sự uỷ nhiệm của Trời”. Khái niệm này vẫn là một
phần trong bề ngoài của những lý thuyết về quyền lực ở Trung Quốc. Nhà Chu định nghĩa quyền
làm vua như một vị trí trung gian giữa trời và đất; đặc tính của vua, “vương” thể hiện hùng hồn điều
này. Chữ biểu ý của nghĩa này gồm ba đường ngang và một nét sổ dọc. Điều này thể hiện sự kết nối
giữa trời (ở trên) và đất (ở dưới). Trời (“thiên”) muốn rằng con người sẽ có được mọi thứ nhu cầu
của mình, và vị vua, theo ý của “thiên mệnh” được chỉ định bởi trời để coi sóc sự thịnh vượng của
mọi người dân. Đây là một “Chiếu chỉ” hay “Sự uỷ nhiệm” của trời. Nếu vị vua chúa trở nên ích kỷ
hay không thể chấp nhận được, không thể chăm sóc người dân, trời bãi bỏ sự uỷ nhiệm của mình và
trao cho người khác.
Cách duy nhất để biết được sự uỷ nhiệm đã được thông qua là lật đổ vị vua chúa đó; nếu việc
lật đổ thành công, thì sự uỷ nhiệm đã được trao cho người kia, nhưng nếu thất bại, thì sự uỷ nhiệm
vẫn thuộc về nhà vua. Mệnh Trời có thể là khái niệm về mặt chính trị và xã hội bị chỉ trích nhiều
nhất trong văn hoá Trung Quốc. Nó giải thích những thay đổi trong lịch sử, nhưng cũng cung cấp
một lý thuyết đạo đức sâu sắc về triều đình dựa trên sự vị tha cống hiến của người cai trị đối với lợi
ích đại chúng. Quan niệm này cũng tái tạo lại quan niệm Trung Quốc về Trời, vốn bắt nguồn từ khái
niệm trước đó về một “Thượng đế” thành một lực lượng cai trị vũ trụ đạo đức. Chính khía cạnh đạo
đức này của Trời và “Mệnh Trời”, đã ảnh hưởng đến khuynh hướng chung của văn hoá và triết học
Trung Quốc, có lẽ chú trọng tới đạo đức và các vấn đề xã hội – hơn là những nền văn hoá cổ khác.
II. SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TIẾN BỘ HƠN TRONG THỜI KỲ CỔ ĐẠI
TRUNG HOA
Từ thế kỉ VIII TCN, đặc biệt là cuối thời Tây Chu, xã hội nô lệ Trung Quốc đã bắt đầu có sự
khủng hoảng. Trong xã hội dần dần xuất hiện bọn chiếm hữu tài sản mới. Các cuộc chiến tranh giữa
bộ tộc Chu với các bộ tộc khác để cướp ruộng đất, của cải, quyền bá chủ thiên hạ diễn ra liên miên
và ngày càng tàn khốc. Với sự biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội, thế giới quan
thần bí và tín ngưỡng tôn giáo cũ giữ vai trò thống trị đời sống tinh thần xã hội đã bắt đầu lung lay.
Nội bộ giai cấp quý tộc nổ ra cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cũ với những tư tưởng mới có xu hướng

1
11


tiến bộ. Trong giới tư tưởng cổ đại bắt đầu hình thành phong trào mở đường cho việc chống lại chủ
nghĩa duy tâm và những quan niệm tín ngưỡng tôn giáo cũ.
Cuối thời Tây Chu đã xuất hiện những nhà tư tưởng có quan điểm hoài nghi, phê phán những
tín điều tôn giáo duy tâm. Đây là bước tiến bộ vượt bậc mang tính chất mở đường cho tư tưởng duy
vật, vô thần ra đời. Họ nói rằng, Thượng đế đã mất hết ý chí công minh sáng láng. Nếu Thượng đế
là anh minh sao chẳng nghiêm trị bọn bất nhân, độc ác và không hề đồng cảm với nỗi đau khổ của
muôn dân? Trong cơn oán giận vì bị Thượng đế hắt hủi, họ đã than vãn và quyền rủa: “Hỡi Thượng
đế tối cao vĩ đại! Sao ông chẳng hề thông cảm với sự đau khổ, đói rét, sự chết dần chết mòn của
dân? Khắp nơi trong nước tràn lan sự cướp bóc!” ( Kinh Thi, XII,2), “Chúng tôi luôn vì nghĩa vụ đã
được quy định bởi thiên tử nhà Chu, suốt ngày cày cấy trên cánh đồng, không một ai giúp chúng
tôi… Hỡi trời cao thăm thẳm, khi nào chúng tôi mới được sống an nhàn?” (Kinh Thi,VI,2). Tất cả
các nhà vô thần đương thời đều rút ra một bài học lịch sử sâu sắc rằng, quần chúng lao động còn
quan trọng hơn cả quỷ thần. Nếu giai cấp thống trị không được nhân dân lao động cung cấp của cải
vật chất, cũng như không được nhân dân ủng hộ thì dù có quyền lực và sung bái thần linh như thế
nào đi chăng nữa cũng bị lật đổ.
Thời kì đó, một số nhà tư tưởng quý tộc và các học giả chính thống tin rằng trong cuộc sống,
con người ta có thể tự mình làm chủ được vận mệnh của mình, làm chủ linh hồn mình, không cần
có sự phù hộ của quỷ thần nào cả. Tăng Văn Trọng cho rằng, trong cuộc sống chỉ cần con người ta
ra sức sản xuất nông nghiệp và biết tiêu dùng tiết kiệm thì có thể đề phòng được những điều bất
trắc, rủi ro và bệnh tất. Cúng tế và đồng bóng không hề mang lại lợi ích gì cho con người. Sỹ Bá lại
thẳng thắn vạch trần những luận điệu lừa mị, lợi dụng thần thánh của bọn quý tộc đương thời rằng,
dựa vào quỷ thần để giải thích, biện hộ cho hành vi của mình là tội ác lớn nhất. Tử Sán người nước
Trịnh đã đưa ra câu danh ngôn bất hủ phủ nhận sự mê tín, bói toàn, bác bỏ việc đề cao thiên mệnh,
quỷ thần xa xôi viễn vông huyễn hoặc rằng : “Đạo trời thì xa, đạo người thì gần, chúng không liên
quan gì với nhau. Vì thế làm thế nào để có thể biết được Thiên mệnh? Cho nên nói về Thiên mệnh,
đó chỉ là những điều ba hoa, sáo rỗng” (Tả truyện, Chiêu công năm thứ 18). Ông còn cho rằng vận

mệnh của một quốc gia, cuộc sống của một con người phụ thuộc vào chính hành vi của con người
chứ không phải do trời hay quỷ thần nào chi phối cả.
Bá Văn Dương nhân vụ động đất năm 780 TCN đã cho rằng thế lực dương bị thế lực âm đè
nén nên không thể lộ ra được tác dụng của nó đã sinh ra động đất (Quốc ngữ). Quan sử Thúc Hưng
cũng giải thích rằng những hiện tượng lạ lùng do giới tự nhiên gây ra “là việc của âm – dương” trời
đất, là cái vốn có của bản thân tự nhiên, hoàn toàn không thể quyết định vận mệnh, họa phúc của
con người trên thế gian này (Tả truyện, Hy công năm thứ 16).
1
12


Nổi bật trong tất cả những tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan niệm về sự tác động phối
hợp trong ngũ hành, tức năm yếu tố vật chất cơ bản đầu tiên tạo thành vạn vật trong vũ trụ, đó là
các yếu tố : kim, mộc, thủy , hỏa, thổ, được thấy trong Kinh Thư Quyển IV, Chu thư, Thiên hồng
phạm, và quan niệm về sự liên hệ, tương tác lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, hai thế lực cơ bản của
thế giới : âm và dương, và tám nguyên tố vật chất cấu thành vạn vật : kiền, khôn, chấn, tốn, khảm,
ly, cấn, đoài, được biểu hiện rõ trong Kinh Dịch, một tác phẩm cổ điển vĩ đại nhất của nên văn hóa
phương Đông. Sự xuất hiện của quan niệm âm dương, ngũ hành đánh dấu bước chuyển đầu tiên
trong tư duy khoa học của người Trung Quốc cổ nhằm thoát khỏi sự chi phối của thế giới quan thần
thoại tôn giáo truyền thống ở Trung Quốc thời đó. Tư tưởng triết lý sâu sắc về vũ trụ, nhân sinh của
Kinh Dịch không chỉ tác động sâu rộng đến đời sống của nhân dân Trung Hoa thời cổ mà còn ảnh
hưởng đến quan điểm tư tưởng của hầu hết các môn phái triết học sau này.
Dưới triều đại Thương – Chu, những tư tưởng, sự mê tín tôn giáo luôn là chỗ dựa tinh thần
để giai cấp quý tộc thống trị lợi dụng hòng củng cố nền thống trị của chúng đối với quần chúng
nhân dân lao động. Do vậy, những tư tưởng triết học thời kì này đã gắn rất chặt giữa vương quyền
và thần quyền. Hơn nữa, ngay từ đầu, nó luôn đặt vấn đề lý giải lĩnh vực đời sống chính trị xã hội
với việc giải thích lĩnh vực luân lý đạo đực như một sự liên hệ hữu cơ. Tuy nhiên, từ sự biến đổi của
đời sống hiện thực, từ kinh nghiệm thực tiễn sản xuất, đấu tranh làm chủ tự nhiên đã xuất hiện
những quan điểm có tính chất duy vật, vô thần, chất phác chống lại những tư tưởng duy tâm thần bí
thời đó. Các nhà tư tưởng và nhân dân lao động Trung Quốc đã nhìn thấy sự hư ảo của các quan

niệm tín ngưỡng tôn giáo. Từ chỗ phê phán cái gọi là Thượng đế tối cao, vạch trần bộ mặt tàn ác
của bọn quý tộc, tăng lữ thời Thương-Chu, lần đầu tiên họ đã khẳng định ý nghĩa to lớn hoạt động
thực tiễn của con người đối với đời sống xã hội và lịch sử. Đó là bước tiến quan trọng của người
Trung Hoa cổ trong quá trình lý giải thế giới xung quanh và sự tự nhận thức về mình. Tuy còn hết
sức ngây thơ, nhưng chủ nghĩa duy vật vô thần hình thành trong thời kì Thương – Chu thực sự là tư
tưởng mở đường cho sự phát triển của triết học Trung Quốc trong thời kì Xuân thu – Chiến quốc.

1
13


Phần B
CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ Ở TRUNG QUỐC
THỜI KỲ TRUNG ĐẠI (ĐÔNG CHU, XUÂN THU – CHIẾN QUỐC)

I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI XUÂN THU –
CHIẾN QUỐC
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều đại nhà Hạ, qua nhà
Tường, đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bước vào giai đoạn khủng hoảng và ngày càng đi tới suy
tàn. Xã hội Trung Quốc trải qua một thời kỳ giao thời, từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia
trưởng. Những giá trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức
mới còn manh nha và đang trên con đường xác lập. Sự biến đổi toàn diện về kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa thời kỳ này đã tạo tiền đề cho sự giải phóng tư tưởng con người khỏi sự chi phối của
thế giới quan thần thoại tôn giáo, thần bí truyền thống, ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển
của tư tưởng chính trị.
1. Thời Xuân Thu
Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ
sắt. Phát minh mới về kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc
cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Thời kỳ này hệ thống thủy lợi đã trải khắp khu
vực Trường Giang. Diện tích đất đai canh tác nhờ đó được mở rộng. Từ đó, người ta thấy không cần

thiết phải chia lại ruộng đất công theo định kỳ, căn cứ vào đất tốt hay đất xấu như trước nữa. Giờ
đây, công xã giao hẳn đất công cho từng gia đình nông nô cày cấy trong thời hạn lâu dài. Vì vậy,
nông dân có thể dùng phương pháp lưu canh hay luân canh để tăng năng suất cây trồng. Mặt khác,
nhờ công cụ sản xuất bằng sắt phát triển và thủy lợi mở mang, ruộng đất do nông nô vỡ hoang biến
thành ruộng tư ngày càng một nhiều. Bọn quý tộc có quyền thế cũng chiếm dần ruộng của công xã
làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh điền” dần tan rã. Sau đó, chế độ tư hữu ruộng đất còn được pháp luật
nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến cùng với việc
mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản phẩm lao động, sự phân công
trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy một loạt các
ngành nghề thủ công nghiệp phát triển như nghề luyện sắt, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ
gốm…Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển hơn trước.
Tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội hình thành một tầng lớp thương nhân giàu có và ngày càng có thế
1
14


lực. Đã có nhiều thương nhân kết giao với chư hầu và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối
với chính trị đương thời. Tuy nhiên, do tình trạng xã hội đang rối ren, phương tiện giao thông còn
thô sơ, lãnh thổ chia năm xẻ bảy do nạn chư hầu cát cứ, đi lại rất khó khăn, nên việc kinh doanh đòi
hỏi phải do những người có đầu óc tháo vát và lòng quả cảm đảm đương. Sự hình thành của thương
nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp mới. Từ tầng lớp này dần dần
xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực
với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, nếu như thời Tây Chu chế độ tông pháp, “phong hầu kiến địa” vừa có ý
nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng buộc về huyết thống, có tác dụng tích
cực làm cho nhà Chu giữ được một thời gian dài hưng thịnh, thì tới thời Xuân Thu, chế độ tông
pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa
thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu
không còn được tôn trọng như trước. Nhiều nước chư hầu mượn tiếng khôi phục lại đại vị tông chủ
của nhà Chu đề ra khẩu hiệu “tôn vương bài dị”, đua nhau động binh để mở rộng thế lực và đất đai,

thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm mà
đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn nước, đến cuối thời Xuân
Thu chỉ còn hơn trăm nước. Trong đó có những nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ thay nhau làm
bá chủ thiên hạ là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần. Những quốc gia này hùng mạnh và làm minh
chủ các nước khác là do các vua trị vì dùng cách cai trị theo chính sách “bá đạo”, dựa trên sức mạnh
bạo lực, hoàn toàn đối lập với cách cai trị của “vương đạo”, lấy nhân nghĩa, “lấy đức thu phục
người và chủ giáo hóa người” (Mạnh Tử, Tận tâm thượng). Thời Xuân Thu, các lãnh chúa càng
tăng cường bóc lột nhân dân lao động. Người dân ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc
chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, còn phải chịu sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Việc các
nước gây chiến tranh với nhau cũng như các lãnh chúa bóc lột tàn khốc dân chúng không chỉ dẫn
tới sự diệt vong của hàng loạt nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu. Đặc biệt những
lễ nghi chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ tông
pháp nhà Chu, đến lúc này cũng bị xem thường. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức
suy đồi thời kỳ Xuân Thu biểu hiện ra qua các tệ nạn xã hội như “ tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm
dụng lễ nghĩa của Thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ của chư hầu. Trong xã hội, cảnh tôi giết vua, con
hại cha, anh em, vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra. Tình trạng đó, theo Khổng Tử không phải
xảy ra một sớm một chiều mà nó đã âm ỉ, mục rỗng từ lâu. Chế độ lễ nghi nhà Chu trở thành các
hình thức sáo rỗng.
Trong khi người dân phải chịu cảnh cùng cực thì các vương hầu, lãnh chúa quý tộc sống rất
xa hoa. Do đói rét, cực khổ, nạn trộm cướp nổi lên. Bọn thống trị lại tăng cường “hình pháp” làm
1
15


cho đời sống nhân dân càng thêm nghẹt thở. Đó đây đã nổi lên những cuộc khởi nghĩa của nông dân
và nô lệ. Tất cả tình hình ấy đã đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu lên đến đỉnh cao, đưa chế độ
chiếm hữu nô lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo chung.
2. Thời Chiến quốc
Thời Chiến quốc đã có bước phát triển mạnh về kinh tế. Thương nghiệp và các trung tâm
buôn bán trao đổi hàng hóa hưng thịnh. Đô thành các nước và một số thành lập trên những trục lộ

giao thông trọng yếu đã biến thành những đô thị sầm uất. Tuy nhiên, chiến tranh tàn khốc trên quy
mô lớn và liên tục giữa các nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân lao động ngày càng cùng
cực hơn. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên đã làm cho
công xã tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị. Năm
362 TCN, trong tất cả những quốc gia lớn thời đó, có vương quốc Tần là mạnh nhất. Tần Hiếu Công
lên ngôi đã tích cực phát triển nông nghiệp, củng cố và chuẩn bị binh bị. Do những cuộc cải cách
của Thương Ương, vào những năm từ 359 đến 350 trước Công nguyên về kinh tế, tổ chức hành
chính, pháp luật, tiền tệ, thuế má, chế độ khen thưởng, quan hệ gia trưởng và công xã nông thôn ở
nước Tần hoàn toàn tan rã. Chính từ những cải cách trên và sử dụng pháp trị, nước Tần đã trở thành
nước hùng mạnh nhất trong “thất hùng”. Cục diện thời Chiến quốc đã làm nảy sinh ra những thủ
đoạn ngoại giao và quân sự dùng để đối phó lẫn nhau giữa các nước, gọi là thủ thuật” hợp tung” và
“liên hoành”. Và đã giúp nước Tần thống nhất Trung Quốc thành một quốc gia phong kiến trung
ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 TCN. Đó là đế chế Tần. Biến cố này là dấu ấn ghi lại sự thay
đổi lớn nhất trong lịch sử chính trị Trung Quốc. Nó gắn liền với một tư tưởng triết học có ảnh
hưởng lớn thời bấy giờ là Pháp gia mà người đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử.
Cùng với thực tiễn lịch sử xã hội, những tri thức về khoa học, văn hóa khá phong phú của
nhân dân Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến quốc như thiên văn, địa lý, cơ học, y học, sinh vật
học, văn học… đã góp phần không chỉ thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển mà còn là
những tiền đề làm nảy sinh những tư tưởng chính trị ở Trung Quốc thời kỳ trung đại.
II. CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ THỜI XUÂN THU – CHIẾN QUỐC
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm
của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong
tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành
nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy con người và
xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn
chính trị - đạo đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín trường
1
16



phái triết học chính (gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia,
Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau
này, các trường phái triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua
nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại, trong số đó, nổi bật nhất là trường phái
triết học Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia và Pháp gia.
1. Nho gia – hệ tư tưởng dùng đạo đức để “thế thiên hành đạo”
Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên của
Nho gia là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và
Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng
Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước
lân cận. Về sau, thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư đã phát triển học thuyết này, làm cho Nho học ngày
càng thêm hoàn chỉnh.
1.1. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Nho gia qua hệ tư tưởng của những nhà sáng lập
và kế thừa
a. Hệ tư tưởng của Khổng Tử (551 – 479 TCN)
Khổng Tử tên là Khâu, hiệu Trọng Ni, người nước Lỗ (tỉnh Sơn Đông ngày nay). Ông là một
nhà tư tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ trung đại. Khổng Tử có
làm một số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của ông
là đi đến nhiều nước để trình bày chủ trương chính trị của mình và mở trường dạy học.
Đồng thời với việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lí các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân
Thu, trong đó sách Nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại về sau trở thành 5 tác phẩm kinh điển của
Nho gia, gọi chung là Ngũ Kinh.
Tư tưởng của Khổng Tử bao gồm 4 mặt là triết học, đạo đức, chính trị và giáo dục.
- Về mặt triết học, Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ, cho nên ông đã
thể hiện một thái độ không rõ rệt về trời đất quỷ thần. Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của
Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời,
ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ thuộc
vào mệnh lệnh của Trời. “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi”
(Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không

ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng
tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con
người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách quan trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của
1
17


ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn,
38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất yếu để trở thành
con người hoàn thiện, là người quân tử. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh
của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong
đời sống.
- Về mặt đạo đức, tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề
cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học thuyết đạo đức
của Khổng Tử là : Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng...cùng với một hệ thống quan niệm về chính trị - xã
hội như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”...
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình. Nhân có
ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ
theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là
nhân”, “Điều mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì
giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”, “yêu thương
người là nhân”...Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những phong tục,
tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử,
tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp... Lễ theo Khổng Tử không phải là một tiêu chuẩn đạo
đức hoàn toàn độc lập, mà là một vấn đề luôn gắn liền với nhân. Lễ được coi là hình thức biểu hiện
của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu, nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung
mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
- Về đường lối trị nước, mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ
cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho

ngay thẳng” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 1); “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính
đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy
trung mà thờ vua” (Luận ngữ, Bát Dật, 19)... Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa
mình cho chính danh, vì “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc
không thành công; sự việc không thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng
thịnh thì hình phạt không đúng; hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử
Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên
thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của
quý tộc nhà Chu.

1
18


Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và
chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính
trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận
ngữ, Tử Lộ, 2). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài,
đức tham gia vào công cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục đích chính
trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo
chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở
một nơi mà các sao khác đều chầu đến.
- Về mặt giáo dục, Khổng Tử là người có đóng góp rất quan trọng. Tuy nhiên, quan niệm về
nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ
dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng
trí” (không học cũng biết) và “hạ ngu” (học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức
tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và
“ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu
điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra

một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy
nghĩ; phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái cốt yếu; học lễ trước, học văn sau. Tuy nhiên,
hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao
động chân tay.
b. Hệ tư tưởng của Mạnh Tử (371 – 289 TCN)
Mạnh Tử người nước Trâu (Sơn Đông ngày nay), là học trò của Tử Tư (Khổng Cấp) cháu
nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa và phát huy Nho gia thêm một bước.
- Về triết học, Mạnh Tử thể hiện lòng tin vào mệnh trời, mọi việc đều do trời quyết định. Tuy
nhiên, những bậc quân tử nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện, cực mĩ cũng có thể cảm hóa được
ngoại giới.
- Về đạo đức, tư tưởng Mạnh Tử có 2 điểm mới:
+ Một là, Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh, gọi là
tính thiện. Tính thiện ấy có sẵn từ khi con người mới sinh ra và được biểu hiện ở bốn mặt là nhân,
lễ, nghĩa, trí. Trên cơ sở đó, nếu được giáo dục tốt thì sẽ đạt đến chỗ cực thiện. Ngược lại, nếu
không được giáo dục thì bản tính tốt sẽ mất đi và tiêm nhiễm tính xấu.

1
19


+ Hai là, trong bốn biểu hiện đạo đức, Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa, nên
không chú ý đến lợi. Nếu từ vua quan đến dân thường đều tranh nhau lợi thì nước sẽ nguy. Trái lại,
chưa từng thấy người có nhân lại bỏ rơi người thân, người có nghĩa lại quên vua.
- Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Điểm nổi bật
nhất trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng quý dân. “Dân quý nhất, đất nước thứ
hai, vua thì coi nhẹ”. Về chủ trương thống nhất, mục đích là muốn chấm dứt chiến tranh giữa các
nước thời Chiến quốc để Trung Quốc được thái bình, do đó, biện pháp để thực hiện không phải là
chiến tranh mà là nhân chính.
- Về giáo dục, Mạnh Tử chủ trương mở rộng việc giáo dục đến tận nông thôn, mà trước hết
là dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu, đễ.

Những đề xuất trong đường lối trị nước của Mạnh Tử rất đáng trân trọng, tuy nhiên, thời Chiến
quốc đang là thời kì diễn ra nhiều cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau, nên chủ trương của Mạnh Tử
bị coi là viễn vông, không sát thực tế, không được các vua chấp nhận.
c. Hệ tư tưởng của Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN)
Sống dưới thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư đã góp công lớn trong việc đưa Nho gia trở thành
tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc. Ông đã đóng góp thuyết “thiên nhân cảm ứng”, thuyết
“âm dương ngũ hành”, đồng thời, Đổng Trọng Thư đã nêu ra các phạm trù tam cương, ngũ thường,
lục kỉ. Tam cương ngũ thường do Đổng Trọng Thư nêu ra đã có trong tư tưởng Khổng – Mạnh, tuy
nhiên, đến thời của ông mới được ghép thành một hệ thống và trở thành những tiêu chuẩn đạo đức
chủ yếu của Nho giáo. Đồng thời, chính sự đóng góp của ông đã giúp các tư tưởng triết học, đạo
đức, chính trị của Nho gia hoàn chỉnh. Đến thời kì này, tư tưởng Nho gia rất được đề cao và thường
được gọi là Nho giáo.
1.2. Nội dung tư tưởng Nho gia
Trải qua quá trình hình thành và phát triển khá dài, Nho gia đã trở nên hoàn thiện và trở
thành hệ tư tưởng chủ yếu trong xã hội Trung Quốc. Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư
(Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các
kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ
xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những
quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:
- Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội,
trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp
theo tôn ti trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì
1
20


vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ
quyền của Nho gia.
- Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những
biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó

là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm
trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là
lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
- Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng "đại đồng". Do
không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng
vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
"Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu… đều là những biểu hiện cụ
thể của Nhân.
- Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải
quyết vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về
vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con người vốn là thiện"
(Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới
sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ … Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức
coi chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng - Mạnh) đề
cao sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác
(Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí....). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp
giữa Nho gia và Pháp gia.
1.3. Kết luận
Tóm lại, so với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống
hơn cả. Hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn
hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ
sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng
tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho
như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời
Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ
bản:
1
21



- Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của Nho gia theo mục
đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến, vì thế Đổng
Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy
tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một
chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
- Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng các quan
điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư
tưởng về pháp trị của Pháp gia… Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là
Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia
đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức
nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
Từ những phân tích trên, có thể nói rằng, Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng
Trung Hoa.
2. Mặc gia và triết học Mặc Tử
Mặc Tử là một trong những nhà triết học lớn của Trung Quốc cổ đại, người sáng lập ra
trường phái triết học Mặc gia, có tư tưởng đối nghịch với Nho gia trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến
Quốc. Mặc Tử thuộc lớp người bình dân trong xã hội đương thời, từng làm thợ và phu dịch. Ông họ
Mặc, tên Địch, thường gọi là Mặc Tử.
Về cuộc đời và thân thế của ông người ta còn có nhiều cách lý giải khác nhau. Một số học
giả căn cứ vào Hán thư, Nghệ văn chí của Ban Cố (32 – 95) cho rằng, Mặc Tử là người nước Tống,
ở vào miền Đông tỉnh Hà Nam và miền Tây tỉnh Sơn Đông bây giờ. Một số khác như Tôn Di
Thượng và Hồ Thích lại cho rằng ông là người nước Lỗ, cùng quê với Khổng Tử. Về niên đạo của
ông cũng là vấn đề còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Nhưng nói chung người ta đều cho rằng niên
đại của Mặc Tử vào khoảng năm 479 đến năm 381 TCN.
Mặc Tử là người có tài hùng biện thuyết phục người khác, ông từng chu du khắp thiên hạ để
giảng thuyết “Kiêm ái” với một tinh thần, nghi lực và niềm tin hiếm có. Càng thấy thiên hạ ít người
theo mình, ông lại càng gắng sức làm. Ông suốt đời hăm hở, kiên nhẫn, hi sinh làm việc nghĩa hòng
cứu thiên hạ khỏi cảnh chiến tranh loạn li, cực khổ, dù gặp nguy hiểm, vẫn không nản chí.

2.1. Mặc gia – tư tưởng “kiêm ái”
Mặc gia là trường phái triết học cơ bản đại biểu cho lợi ích của tầng lớp sản xuất nhỏ thời kỳ
Tiên Tần. Nó được chia ra làm 2 thời kỳ:

1
22


+ Thời kỳ đầu: Mặc gia lấy tư tưởng của Mặc Địch với chủ nghĩa “kiêm ái” nổi tiếng làm
trung tâm và luôn là một trong những học phái có nội dung tư tưởng đối lập với Nho gia.
+ Thời hậu kỳ tiếp tục tiếp nối tư tưởng của Mặc Địch, xuất hiện vào thời kỳ Chiến Quốc.
Họ đã loại bỏ thế giới quan tôn giáo của Mặc Địch, chú trọng nghiên cứu những kinh nghiệm và kỹ
thuật sản xuất, tiến hành tổng kết những thành quả của khoa học tự nhiên thời kỳ bấy giờ, và lần
đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc xây dựng nên lý luận về nhận thức và khoa học logic một cách có
hệ thống.
2.2. Triết học Mặc Tử
a. Khái quát về triết học Mặc Tử
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc đã so sánh học thuyết của ông với tư tưởng từ bi
của Phật giáo và Kito giáo. Thậm chí với học thuyết “Kiêm ái” và chủ nghĩa công lợi, người ta còn
cho rằng Mặc Tử là người đầu tiên có ý tưởng về thế giới đại đồng.
Cùng với Nho gia và Đạo gia, học thuyết của Mặc Tử đã thịnh hành và ảnh hưởng một thời ở
Trung Quốc. Vào thời Chiến Quốc, Mặc học thắng Dương học (Đạo gia), danh tiếng ngang hàng
với Nho giáo.
Tuy nhiên, giữa Khổng Tử và Mặc Tử lại có sự đối lập nhau không chỉ về tư tưởng, chủ
trương, phương pháp mà còn đối lập nhau về cả nền tảng giai cấp xã hội. Khổng Tử đề cao “thiên
mệnh”, ưa chuộng những chế độ cổ truyền như thi, thư, lễ, nhạc, đặc biệt là lễ nghĩa phép tắc của
buổi đầu nhà Chu. Mặc Tử thì trái lại, chủ trương “phi mênh”, “phi nho”, “phi nhạc”, “tiết táng”,
tuyên truyền thuyết “kiêm ái”, “thượng hiền”, “thượng đồng”, theo “thiên chí” và “minh quỷ”. Từ
đó ông đặt tất cả các vấn đề luân lý, đạo lý, chính trị - xã hội trên cơ sở tư tưởng “kiêm ái” và chủ
nghĩa công lợi của ông.

Về phương pháp: nếu Nho gia chỉ nói “là thế” thì Mặc tử muốn biết “tại sao”. Nho gia chỉ
muốn nêu lên mâu thuẫn lý tưởng thật cao để là gương cho đời , thì Mặc tử bất kỳ việc gì cũng phải
có chỗ “để làm gì?”, phải có công dụng nhất định.
Mặc Tử vốn xuất thân từ kỹ nghệ gia tinh thông hay là bậc du hiệp, đại biểu cho lợi ích của
tầng lớp tiểu tư hữu, phu dịch, võ sĩ lớp dưới của xã hội nên ít nhiều gần gũi với nhân dân lao động.
Vì vậy, quan điểm tư tưởng của Mặc gia có sự khác biệt so với Nho gia. (Khổng Tử là nhà quý tộc
và các Nho gia thường xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội). Chính vì vậy, các quan điểm và chuẩn
mực đạo đức của Nho gia đã trở thành đối tượng phê phán mạnh mẽ của Mặc Địch.
Tài liệu chính để nghiên cứu tư tưởng Triết học của Mặc Tử là cuốn Mặc Tử gồm 53 thiên.
Đây là cuốn sách ghi lại những lời dạy và trước tác của Mặc Địch cũng như các học trò của ông.
1
23


Trong quan điểm về thế giới, cả Khổng tử và Mặc Tử đều tin có một lực lượng quyền năng
tối cao chi phối vũ trụ vạn vật, đó là Trời.
Tin mệnh trời nên Khổng Tử cho rằng con người ta phải biết mệnh, sợ mệnh, thuận mệnh và
đợi mệnh.
Mặc Tử bác lại học thuyết “Thiên mệnh” đó của Khổng Tử. Ông đưa ra một thế giới quan
mang tính chất tôn giáo, thần bí, coi ý chí của Trời là nguyên tắc tối cao của hành vi con người,
đồng thời cho rằng sự biến hóa của hiện tượng tự nhiên cũng bị ý chí của Trời chi phối. Do vậy, ý
chí của Trời là khuôn phép cho tất cả mọi người noi theo, là phép tắc cho kẻ thống trị thực hiên của
mình. Không những thế, ý chí của Trời còn là nguyên tắc, chuẩn mực để nhận biết mọi sự đúng sai,
thiện ác, tốt xấu của con người và thể chế xã hội. Cùng với Trời, quỷ thần cũng là một thế lực đầy
quyền uy, linh thiêng, công minh chính trực, luôn giám sát mọi việc của con người, khen thưởng
những kẻ làm điều tốt, trừng phạt những kẻ làm điều xấu.
Tuy Mặc tử sùng bái Thượng đế và quỷ thần nhưng ông lại chống lại thuyết định mệnh. Ông
chi rằng, mọi họa phúc, thành bại của con người đều là do hành vi của con người gây nên.
Tóm lại, trong quan điểm, việc Mặc Tử phê phán tư tưởng Thiên mệnh của Nho gia và các
môn phái triết học khác đồng thời đề cao sự nỗ lực của con người trong đời sống. Đây là một bước

tiến bộ trong tư tưởng của ông. Kiêm ái được coi là một trong những tư tưởng chủ yếu nhất trong
học thuyết của Mặc tử. Tư tưởng đó với ý nghĩa sâu xa của nó, đã gắn liền với một trường phái triết
học mang tên Mặc tử nổi danh một thời ở Trung Quốc cổ đại.
b. Thuyết “Kiêm ái” trong trường phái triết học Mặc gia
Theo Mặc tử, kiêm là gồm gộp hết thảy như nhau, trái với biệt là chia rẽ, phân biệt nhau. Ái
là lòng yêu thương của con người, trái với ố là sự thù ghét lẫn nhau.
Kiêm ái trước hết là gồm yêu hết thảy mọi người như nhau. Yêu mình như yêu người, yêu
người ngoài cũng như yêu người thân, không có người làng mình và người làng người, người nước
mình, người nước người. Đó chính là ý chí của trời: “gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu”.
Vì thế kiêm ái cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Người nhân nghĩa là người thực hiện kiêm ái.
Kiêm ái là cái thực của nhân, là nội dung của nghĩa.
Kiêm ái hay nhân nghĩa bao giờ cũng mang lại lợi ích cho mọi người. Đó cũng là ý chí của
trời. Trong xã hội, kiêm và biệt, ái và ố là hai nguyên tắc, hai thái độ sống hoàn toàn đối lập nhau.
Vậy trong hai nguyên tắc kiêm và biệt lấy gì để xác định nguyên tắc nào đúng, nguyên tắc nào sai?
Mặc Tử đã đưa ra phép tam biểu làm quy tắc chuẩn mực để xác định đúng sai, lợi hại của kiêm và
1
24


biệt. Với phép Tam biểu, Mặc Tử đã có sự đóng góp lớn trong việc phát triển lý luận về nhận thức ở
Trung Quốc cổ đại.
Tam biểu chính là quy tắc hướng dẫn nhận thức và hạnh động của con người. Để nhận thức,
phân biệt phải trái, lợi hại người ta trước tiên phải lấy chí trời, quỷ và việc làm của thánh vương
xưa làm gốc. Để biện luận cho học thuyết kiêm ái của mình, Mặc Tử đã đề cao những chuẩn mực ở
“chí, trời, quỷ” và “việc làm của thánh vương xưa” nên ông đã rơi vào chủ nghĩa kinh viện thần bí.
Chính điều đó đã hạn chế tính sáng tạo của nhận thức và làm giảm đi ý nghĩa tích cực trong học
thuyết kiêm ái của ông. Rõ ràng ở quan điểm này ông cũng không vượt qua được những thiếu sót
mà trường phái triết học đương thời mắc phải. Qua tam biểu ông đã đóng góp quý báu trong việc
gắn nhận thức với thực tiễn. Tuy nhiên, do sự hạn chế của điều kiện lịch sử, quan điểm về thực tiễn
của ông còn hết sức hạn hẹp. Nó chủ yếu vẫn mang tính trực quan và nặng về chủ nghĩa kinh

nghiệm.
Mặc Tử khẳng định, kiêm là phải là tốt vì nó mang lại lợi ích cho dân, cho nước; biệt là trái,
là xấu và mang lại điều hại lớn cho thiên hạ.
Kiêm ái không chỉ là ý chí của trời mà còn là đạo lý của thánh nhân, không kiêm ái thì thiên
hạ loạn, kiêm ái thì thiên hạ trị.
Như vậy theo Mặc Tử chỉ có học thuyết kiêm ái của ông mới là phương pháp tốt nhất để cứu
xã hội Trung Quốc đương thời khỏi cảnh phân tranh, loạn lạc, cứu nhân dân lao động ra khỏi cảnh
chết chóc, đói khổ.
Muốn thực hành kiêm ái, theo Mặc Tử, trước hết những người trên phải gương mẫu đem
kiêm ái ra làm chính trị thì kẻ dưới ắt sẽ noi theo. Mặc Tử còn lấy ý chí trời và quỷ thần, những lực
lượng đầy quyền uy, linh thiêng và công minh để khuyến khích mọi người thi hành kiêm ái.
Tư tưởng kiêm ái của Mặc Tử là sự thể hiện tinh thần dân chủ, bình đẳng sơ khai và chủ
nghĩa vị tha trong triết học của ông. Nó phản ánh sâu sắc ước mơ không chỉ của Mặc Tử mà còn là
nguyện vọng của đại đa số tầng lớp nhân dân lao động Trung Quốc thời bấy giờ. Chính vì thế triết
học Mặc tử không được coi là công cụ tinh thần đắc lực của kẻ thống trị đương thời.
c. Quan điểm độc đáo của Mạnh Tử về căn nguyên quốc gia và những vấn đề chính trị xã hội
Mạnh Tử đã đưa ra chủ trương thượng đồng, thượng hiền, phi công, dùng sức mạnh và
quyền lực nhà nước để thực hiện kiêm ái.
Thượng đồng theo Mặc Tử có nghĩa là dưới luôn luôn phải tán đồng với trên và phục tùng
tuyệt đối mệnh lệnh của trên.
1
25


×